Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.29 KB, 42 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................................2
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI...............................................3
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG............................................................................................................3
II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ (CỦA NƯỚC NHẬN
ĐẦU TƯ) .............................................................................................................................................7
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN GẦN ĐÂY..................................................................................................................14
1. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI.....................................14
1.2. Khó khăn trong việc thu hút vốn FDI ........................................................................................17
II. Thực trạng thu hút FDI ở Việt Nam trong thời gian qua..............................................................20
II. Đánh giá tác động của nguồn vốn FDI đến nền kinh tế Việt Nam...............................................32
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI............36
KẾT LUẬN....................................................................................................................................41
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
LỜI NÓI ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong thời gian qua đã thu được những kết quả
bước đầu quan trọng. Việt Nam không những đã vượt qua được sự khủng hoảng triền
miên trong thập kỷ 80 mà còn đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh
tế xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân năm 6,94% (sau 15 năm
đổi mới 1986-2000). Công nghiệp giữ nhịp độ tăng giá trị sản xuất bình quân hàng
năm 13,5%, lạm pháp đẩy lùi, đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện về mặt
vật chất lẫn tinh thần.
Có được thành tựu kinh tế đáng ghi nhận này, là nhờ phần đóng góp lớn của
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Tuy nhiên vào những năm trở lại đây, do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ đã xẩy ra ở một số nước trong khu vực.
Cộng với mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước
như Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan ...Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có
phần giảm thiểu về số lượng lẫn chất lượng. Do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
phát triển kinh tế xã hội.


Trước tình hình đó, vấn đề chúng ta phải có sự nhìn nhận và đánh giá đúng
đắn về đầu tư trực tiếp vào nước ngoài trong thời gian qua, để thấy được những tác
động tích cực hay tiêu cực của đất nước. Trên cơ sở đó đề ra hệ thống những giải
pháp cụ thể, kịp thời nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam trong những năm tới, góp phần thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đảng và Nhà
Nước ta đã đề ra: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020
đưa Việt Nam trở thành một nước phát triển.
Để nhận rõ hơn vấn đề này, Nhóm 9 đã nghiên cứu nghiên cứu đề tài: “Thực
trạng huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian
gần đây”.
Vì khả năng còn hạn chế bài viết không thể không tránh khỏi những thiếu sót,
Nhóm 9 rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bài viết này được
hoàn thiện hơn.
2
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình thức di chuyển vốn quốc tế.
Trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành
hoạt động sử dụng vốn.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thể hiện dưới ba hình thức chủ yếu:
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
• Doanh nghiệp liên doanh.
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi
là bên hợp danh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả cho mỗi bên, để tiến
hành đầu tư vào Việt Nam mà không lập thành một pháp nhân.

Hình thức đầu tư này đã xuất hiện từ sớm ở Việt Nam nhưng đáng tiếc cho
đến nay vẫn chưa hoàn thiện được các quy định pháp lý cho hình thức này. Điều đó
đã gây không ít khó khăn cho việc giải thích, hướng dẫn và vận dụng vào thực tế ở
Việt Nam. Ví dụ như có sự nhầm lẫn giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh với các dạng
hợp đồng khác không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam.(như hợp đồng gia công sản phẩm, hợp đồng mau thiết bị trả chậm
vv...). Lợi dụng sơ hở này, mà một số nhà đầu tư nước ngoài đã trốn sự quản lý của
Nhà Nước. Tuy vậy hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài dễ thực hiện và có ưu thế lớn trong việc phối hợp sản phẩm .Các sản phẩm kỹ
thuật cao đòi hỏi có sự kết hợp thế mạnh của nhiều công ty của nhiều quốc gia khác
nhau. Đây cũng là xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh trong một tương lai gần xu
hướng của sự phân công lao động chuyên môn hóa sản xuất trên phạm vi quốc tế.
2.2. Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai hay nhiền bên nước
ngoài hợp tác với nước chủ nhà cùng góp vón, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi
nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập
theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật nước
3
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
nhận đầu tư. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều
nhất trong thời gian qua chiếm 65% trong tổng ba hình thức đầu tư (trong đó hình
thức hợp tác kinh doanh chiếm 17%, Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
chiếm 18%).
Thông qua hợp tác liên doanh với các đối tác Việt Nam, các nhà đầu tư
nước ngoài tranh thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Việt Nam
trên thị trường mà họ chưa quen biết trong quá trình làm ăn của họ tại Việt Nam. Mặt
khác do môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều bất chắc nên các nhà đầu tư nước
ngoài không muốn gánh chịu rủi ro mà muốn các đối tác Việt Nam cùng chia sẻ với
họ nếu có. Liên doanh với một đối tác ở bản địa, các nhà đầu nước goài yên tâm hơn
trong kinh doanh vì họ đã có một người bạn đồng hành.

Những năm gần đây, xu hướng của các nhà đầu tư nước ngoài giảm sự quan
tâm đến hình thức này và các dự án 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lại có xu
hướng tăng lên. Đó là do sau thời gian tiếp xúc với thị trường Việt Nam, các nhà đầu
tư nước ngoài đã hiểu rõ hơn về luật pháp, chính sách và các quy định khác của Việt
Nam. Thậm chí họ còn hiểu rõ về phong tục tập quán và thói quen trong đó thói quen
tiêu dùng của người Việt Nam cũng như cách thức kinh doanh của các doanh nghiệp
Việt Nam. Mặt khác khả năng tham gia liên doanh của các đối tác Việt Nam ngày
càng bị hạn chế bởi thiếu cán bộ giỏi, thiếu vốn đóng góp. Do vậy các nhà đầu tư
nước ngoài muốn được điều hành trong quản lý doanh nghiệp.
2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà
đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do các nhà đầu tư nước
ngoài thành lập tại Việt Nam. Tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất
kinh doanh.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình
thức của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân
Các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được thành lập theo hình thức 100%
vốn nước ngoài.Thời gian đầu chưa nhiều, những xu hướng gia tăng của các dự án
đầu tư theo hình thức này ngày càng mạnh mẽ. Trong những năm gần đây vì hình
thức này có phần dễ thực hiện và thuận lợi cho họ.
Nhưng bằng hình thức đầu tư này về phía nước nhận đàu tư thường chỉ nhận
được cái lợi trước mắt, về lâu dài thì hình thức này còn có thể phải gánh chịu nhiều
hậu quả khó lường.
4
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút vốn FDI
Sau nhiều lần nghiên cứu phân tích, đánh giá lợi hại (được, mất) của nước
nhận đầu tư và của người bỏ vốn đầu tư. Hội đồng kinh tế Brazin- Mỹ đã rút ra được
12 nhân tố có ý nghĩa quyết định cho việc lựa chọn một vùng hay một nước nào đó
để đầu tư. 12 nhân tố này có thể được chia lại cho gọn như sau:
3.1. Các yếu tố điều tiết vĩ mô

3.1.1 Các chính sách
* Chính sách tiền tệ ổn định và mức độ rủi ro tiền tệ ở nước tiếp nhận đầu tư.
Yếu tố đầu tiên ở đây góp phần mở rộng hoạt động xuất khẩu của các nhà đầu tư. Tỷ
giá đồng bản bị nâng cao hay bị hạ thấp đều bị ảnh hưởng xấu tới hoạt độnh xuất
nhập khẩu.
* Chính sách thương nghiệp: Yếu tố này có ý nghĩa đặc biệt đối với vấn đề
đầu tư trong lĩnh vực làm hàng xuất khẩu. Mức thuế quan cũng ảnh hưởng tới giá
hành xuất khẩu. Hạn mức (quota) xuất nhập khẩu thấp và các hàng rào thương mại
khác trong lĩnh vực xuất nhập khẩu cũng như có thể không kích thích hấp dẫn tới các
nhà đầu tư nước ngoài. Chính yếu tố này làm phức tạp thêm cho thủ tục xuất khẩu và
bị xếp vào hàng rào xuất khẩu khác.
* Chính sách thuế và ưu đãi: Chính sách ưu đãi thường được áp dụng để thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài.
* Chính sách kinh tế vĩ mô: Chính sách này, mà ổn định thì sẽ góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư bản xứ lẫn nước ngoài. Nếu
không có những biện pháp tích cực chống lạm pháp thì có thể các nhà đầu tư thích bỏ
vốn vào nước này. Nếu giá cả tăng nhanh ngoài dự kiến thì khó có thể tiên định được
của kết quả hoạt độnh kinh doanh.
3.1.2 Luật đầu tư
Yếu tố này có thể làm hạn chế hay cản trở hoạt động của các công ty nước
ngoài trên thị trường bản địa. (Luật này thường bảo vệ lợi ích của các nhà bản xứ).
Nhiều nước mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo các điều kiện giống như cho
các nhà đầu tư bản xứ.
Ở Việt Nam, luật khuyến kích đầu tư nước ngoài triển khai còn chậm và
không đáp ứng được sự mong mỏi bởi mức độ ưu đãi và khuyến khích còn hạn chế,
chưa nhất quán.
5
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
3.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng khác
* Yếu tố hàng đầu là đặc điểm của thị trường bản địa (quy mô, dung lượng

của thị trường sức mua của dân cư bản xứ và khả năng mở rộng quy mô đầu tư).
* Đặc điểm của thị trường nhân lực. Công nhân lao động là mối quan tâm
hàng đầu ở đây, đặc biệt đối với những nhà đầu tư nước ngoài muốn bỏ vốn vào các
lĩnh vực cần nhiều lao động, có khối lượng sản xuất lớn. Trình độ nghề nghiệp và học
vấn của các công nhân đầu đàn (có tiềm năng và triển vọng) có ý nghĩa nhất định.
*Khả năng hồi hương vốn đầu tư. Vốn và lợi nhuận được tự do qua biên giới
(hồi hương) là tiền đề quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.ở một số nước
mang ngoại tệ nước ngoài phải xin giấy phép của ngân hàng trung ương khá rườm rà.
* Bảo vệ quyền sở hữu. Quyền này gồm cả quyền của người phát minh sáng
chế, quyền tác gỉa, kể cả nhãn hiệu hàng hóa và bí mật thương nghiệp vv... Đây là
yếu tố đặc biệt có ý nghĩa lớn đối với những người muốn đầu tư vào các ngành hàm
lượng khoa học cao và phát triển năng động (như sản xuất máy tính, phương tiện liên
lạcvv....) ở một số nước, lĩnh vực này được kiểm tra, giám sát khá lỏng lẻo, phổ biến
là sử dụng không hợp pháp các công nghệ ấy của nước ngoài. Chính vì lý do này mà
một số nước bị các nhà đầu tư loại khỏi danh sách các nước có khả năng nhận vốn
đầu tư.
* Điều chỉnh hoạt động đầu tư của các công ty đầu tư nước ngoài. Luật lệ
cứng nhắc cũng tăng chi phí của các công ty đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư rất
thích có sự tự do trong môi trường hoạt động và do vậy họ rất quan tâm đến một đạo
luật mềm dẻo giểp cho họ ứng phó linh hoạt, có hiệu quả với những diễn biến của thị
trường. Ví dụ có những nước cấm sa thải công nhân là không phù hợp với lợi ích của
công ty nước ngoài. Chính sách lãi suất ngân hàng và chính sách biệt đãi đối với một
số khu vực cũng có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư ở một số nước.
* Ổn định chính trị ở nước muốn nhận đầu tư và trong khu vực này. Đây là
yếu không thể xem thường mỗi khi bỏ vốn đầu tư vì rủi ro chính trị có thể gây thiệt
hại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
* sCơ sở hạ tầng phát triển. Nếu các yếu tố nói trên đều thuận lợi nhung chỉ
một khâu nào đó trong kết cấu hạ tầng (giao thông liên lạc, điện nước) bị thiếu hay bị
yếu kém thì cũng ảnh hưởng và làm giảm sự hấp hẫn của các nhà đầu tư.
6

Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
II. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI NỀN
KINH TẾ (CỦA NƯỚC NHẬN ĐẦU TƯ)
1. Những ảnh hưởng tích cực của FDI
a. Là nguồn hỗ trợ cho phát triển
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại
tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”
đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả
thu lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các
nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo ta kinh tế hiện đại. Nhiều nước lâm
vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột phá
chính xác. Một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn
đầu tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập,
tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu
quả khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn
nước ngoài sẽ là một “cú hích” để góp ghần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó.
Đặc biệt là FDI nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ
cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi
nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn
này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định
và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt
hơn.
Theo mô hình lý thuyết “hai lỗ hổng” của Cherery và Stront có hai cản trở
chính cho sự ta của một quốc gia đó là: Tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu
tư được gọi là “lỗ hổng tiết kiệm”.Và thu nhập của hoạt động xuất khẩu không đáp
ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là “lỗ hổng thương mại”.

Hầu hết các nước kém phát triển, hai lỗ hổng trên rất lớn. Vì vậy FDI góp
phần làm tăng khả năng cạnh tranhvà mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận
đầu tư, thu một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt
dộng dịch vụ cho FDI.
7
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
b. Chuyển giao công nghệ
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo
chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư
không chỉ vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc
thiết bị, nhuyên vật liệu....(hay còn gọi là cộng cứng) trí thức khoa hoạch bí quyết
quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy đứng về
lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có thể thúc
đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ
cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch chuyển cơ
cấu kinh tế, ta nhanh của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ
năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông
qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho
họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước
nhận đầu tư. FDI còn thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ
sư, những nhà quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên
doanh với nước ngoài.
Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ
kỹ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60 Hàn Quốc còn kém
về lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ chuyển nhận công nghệ Mỹ, Nhật, và các nước khác mà
năm 1993 họ đã trở thành những nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 thế giới.
Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia
khác nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công ghệ cho
nước nào tiếp nhận đầu tư. Thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp
thu được các công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển

được “đi xe miễn phí” mà họ phải trả một khoản “học phí” không nhỏ trong việc tiếp
nhận chuyển giao công nghệ này.
c. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn
thực hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh ta kinh tế. Đây cũng là điểm nút
để các nước đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực
tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực hiện chiến lược
kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên
ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được tốc độ tăng
cao.
8
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư,
nhờ đó các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng
tăng lên theo. Vì vậy có thể thông qua tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ta
kinh tế.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy
ta kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những
tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
d. Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Yêu cầu dịch chuyển nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát triển
nội tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động
kinh tế đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình
phân công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới,
đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự
phân công lao dộng quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với
trình độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước
ngoài. Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch

chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu tư.
Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ kỹ
thuật công nghệ ở nhiều nghành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở
một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số ngành được
kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có nhiều ngành bị
mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
e. Một số tác động khác
Ngoài những tác động trên đây, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác
động sau:
- Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc
nộp thuế của các đơn vị đầu tư và tiền thu tư việc cho thuê đất ....
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho
nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản
xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngoài và
việc phá triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển.Ví dụ như
9
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
Singapore lên72,1%, Brazin là 37,2%, Mehico là 32,1%, Đài loan là 22,7%, Nam
Hàn 24,7%, Agentina 24,9%. Cùng với việc tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, đầu
tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước. Đa số
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi
là hiên tượng “hai chiều” đang trở nên khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển
hiện nay.
- Về mặt xã hội, đầu tư trục tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới,
thu hút một khối lượng đáng kể người lao độngở nước nhận đầu tư vào làm việc tại
các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt
nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với
các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có
điều kiện khai thác và sử dụng được. Thì đầu tư trực tiếp nước ngoài đước coi là chìa

khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra
được các điều kiện về vốn và kỹ thuật, cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng
về lao động. Ở một số nước đang phát triển số người làm việc trong các xí nghiệp chi
nhánh nước ngoài so với tổng người có việc làm đạt tỷ lệ tương đối cao như
Singapore 54,6%, Brazin 23%, Mehico 21%. Mức trung bình ở nhiều nước khác là
10%. Ở Việt Nam có khoảng trên100 nghìn người đang làm trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là con số khá khiêm tốn.
Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư thụ
thuộc rất nhiều vào chính sach và khả năng lỹ thuật của nước đó.
2. Những ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
a. Chuyển giao công nghệ
Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở phần trên,chểng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ
nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao
những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều này cũng có thể giải
thich là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật cho nên
máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao
những máy móc đã lạc hậu cho các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới
sản phẩm, nâng cao chát lượng của sản phẩm của chính nước họ.Hai là, vào giai đoạn
đầu của sự phát triển, hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sự dụng lao
động.Tuy nhiên sau một thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết quả là giá
thánhản phẩm cao. Vì vậy họ muốn thay đổi công nghệ bằng những công nghệ có
10
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
hàm lượng cao để hạ giá thành sản phẩm. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu
đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là:
* Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó
nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên
doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
* Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế

phải bảovệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát
triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các
nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu.
* Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất caovà do đó sản phẩm của các nước
nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công
nghiệp sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn.Ví dụ theo báo cáo
của ngân hàng phát triển Mỹ thì 70% thiệt bị của các nước Mỹ La Tinh nhập khẩu từ
các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu.Cũng tương tự, các trường hợp
chuyển giao công nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh nghiệm kiểm tra nên đã bị
nhiều thiệt thòi.
Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần phụ thuộc vào chính sách công nghệ
của các nước nhận đầu tư. Chẳng hạn như Mehico có 1800 nhà máy lắp ráp sản xuất
của các công ty xuyên gia của Mỹ. Mội số nhà máy này được chuyển sang Mehico để
tránh những quy định chặt chẽ về môi thường ở Mỹ và lợi dụng những khe hở của
luật môi trường ở Mehico.
b Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đước chủ yếu do các công ty xuyên quốc
gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế
của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các công
ty xuyên quóc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan
trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các
nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những
bên đối tác nươc ngoài để chúng ta có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm
hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa
nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước
công nghiệp phát triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp
11
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
nước ngoài thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có

được bằng cái của người khác.
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả
năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ thuật và
có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà nhanh chòng phát
triển công nghệ nội đại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa dạng hóa thị trrường tiêu
thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai trong
nước thì sẽ được rất nhiều sự phụ thuộc của các công ty đa quốc gia.
c. Chi phí cho thu hút FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu
tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn các dự
án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất, nhà xưởng và
một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư trong nước. Hay trong
một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan.... Và như vậy đôi khi lợi ích
của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà nhận được. Thế mà, các nhà đầu
tư còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư
thường tính giá cao cho các nguyên vật liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ
nhập vào để thực hiện đầu tư. Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư
chẳng hạn như trốn được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm
được. Từ đó hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường.
Ngược lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải
mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình
độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn yếu, hoặc các chính sách của
nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà đầu tư có thể lợi dụng được.
Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho
các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại cho khỏe
con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng thuốclá, thuốc
trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy thay thế xà phòng vv...

12
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
d.Những mặt trái khác
Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình
báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu “diễn
biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch nhằm phá hoại
ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới mọi hình thức tinh vi và
xảo quyệt. Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende ở Chile bị giật dây lật đổ năm
1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công ty xuyên quốc gia ITT(công ty viễn
thông và điện tín quóc tế) và chính phủ Mỹ cam thiệp công việc nội bộ của Chile.
Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào
những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự mất cân
đối giữa các vùng,giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây ra mất
ổn định về chính trị. Hoặc FDI cũng có thẻ gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Những
người dân bản xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị mua chuộc, biến chất, thay
đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có thể phản bội Tổ Quốc. Các tệ nạn
hội cũng có thể tăng cường với FDI như mại dâm, nghiện hút....
Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của
nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có những
chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực, hạn
chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho nước
chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản
lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư.
13
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
1. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI
1.1. Những thuận lợi
a. Việt nam đã ký các cam kết liên quan đến đầu tư nước ngoài

Việt Nam đã ký các hiệp định song phương và đa phương về đầu tư nước
ngoài như: Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS),
hiệp định đầu tư Việt Nam - Nhật Bản, hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN,
hiệp định giữa Việt Nam và Bulgaria về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định
khung về quan hệ Việt Nam - Uỷ ban Châu Âu (EC), hiệp định về chương trình ưu
đãi thuế quan (CEPT), Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ (GAT), hiệp định
thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ….. Trong những cam kết đó đặc biệt phải kể đến là
hiệp định thương mại tự do của WTO.
Các hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư được dựa trên các nguyên
tắc:
* Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của bên ký kết bằng việc chấp
nhận đầu tư đó trên nguyên tắc công bằng, thoả đáng, không gây phương hại bằng
biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử.
* Không trưng thu, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư bằng các biện pháp hành
chính, trừ trường hợp vì mục đích công cộng thì tuân thủ phương châm không phân
biệt đối xẻ và bồi thường nhanh chóng, đầy đủ theo đúng giá thị trường, phù hợp với
thủ tục luật định.
* Đảm bảo quyền chuyển vốn, lợi nhuận và các khoản thu nhập hợp pháp khác
của nhà đầu tư về nước theo nguyên tắc “không chậm trễ và bằng đồng tiền tự do
chuyển đổi”
* Công nhận quyền của nhà đầu tư trong việc đưa vụ tranh chấp với cơ quan
nhà nước ra toà hành chính, trọng tài hoặc bất kỳ cơ chế giải quyết tranh chấp nào do
nhà đầu tư lựa chọn.
b. Môi trường xã hội và chính trị ổn định
Sự ổn định về chính trị và xã hội là yêu cầu đầu tiên quan trọng nhất, quyết
định đối với việc thu hút vốn FDI. Một quốc gia có môi trường chính trị ổn định thì
các nhà đầu tư mới yêu tâm đầu tư. Nếu môi trường không ổn định, thường xuyên có
14
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
bạo loạn thì khó có thể bảo toàn vốn cũng như không thể tiến hành sản xuất kinh

doanh để sinh lời.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của nhà nước, nền chính trị xã hội của
nước ta luôn ổn định. Theo đánh giá của các TNCs thì Việt Nam được coi là nước có
sự ổn định về chính trị và xã hội đặc biệt cao, không tiềm ẩn xung đột về tôn giáo và
sắc tộc. Đó là điều kiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế đối ngoại,
thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài
c. Đường lối đối ngoại mở rộng và tích cực
Cùng với sự ổn đinh về chính trị-xã hội , Việt Nam có đường lối đối ngoại mở
rộng, đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược mở cửa hướng về xuất khẩu, mở rộng quan
hệ hợp tác đầu tư nước ngoài.
Với phương châm “Việt nam muốn làm bạn và đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế” nước ta đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình
thích hợp và thực hiện đúng các cam kết quốc tế trong quan hệ đa phương và song
phương. Việt Nam đã là thành viên thứ 7 của ASEAN từ ngày 28/7/1995, gia nhập
APEC tháng 11/1998, là thành viên đầu tiên của ASEM, là thành viên của WTO từ
ngày 7/11/2006.
Hiện nay, chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước, quan hệ
buôn bán với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ và tiếp nhận đầu tư của gần 80 quốc
gia. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã tạo điều
kiện cần thiết và thuận lợi để thu hút đầu tư FDI
d. Có những lợi thế so sánh
Việt Nam có điều kiện tự nhiên và trí địa lý đặc biệt thuận lợi. Nằm ở vị trí
trung tâm của vùng Đông Nam Á, là cửa ngõ thông ra biển của Lào, Thái Lan, Đông
Bắc CPC và khu vực Tây Nam Trung Quốc. Các tuyến đường hàng không và hàng
hải trên thế giới đều rất gần Việt Nam, tạo điều kiện cho giao thương buôn bán với
các nước trong khu vực và trên thế giới
Việt Nam có nguồn tài nguyên vô cùng đa dạng và đứng thứ 7 trong số 15
quốc gia giầu tài nguyên nhất thế giới, cụ thể:
Nhóm khoáng sản năng lượng nước ta có tiềm năng dầu khí đáng kể, trữ
lượng dầu khí có khả năng thu hồi của các bể trầm tích Đệ tam của Việt Nam

khoảng 4,300 tỷ tấn dầu quy đổi, trong đó trữ lượng phát hiện là 1,208 tỷ tấn và trữ
lượng dầu khí có khả năng thương mại là 814,7 triệu tấn dầu quy đổi. khu vực biển
15
Tiểu luận Tài chính quốc tê: TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN FDI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN GẦN ĐÂY
đông được dự đoán có trữ lượng tới 210 tỷ thùng dầu. Hiện tại, Tập đoàn Dầu khí
quốc gia Việt Nam đã đạt mốc khai thác trên300 triệu tấn dầu quy đổi mỗi năm. Với
sản lượng khai thác dầu khí hằng năm, hiện nay Việt Nam đứng hàng thứ ba ở Đông
- Nam Á, sau In-đô-nê-xi-a và Ma-lai-xi-a. Than biến chất cao đạt hơn 18 tỷ tấn,
riêng bể than Quảng Ninh là lớn nhất, với trữ lượng đạt hơn 3 tỷ tấn. Bể than Quảng
Ninh đã được khai thác từ hơn 100 năm nay, phục vụ tốt cho các nhu cầu trong nước
và xuất khẩu.
Các nhà khoa học địa chất đã phát hiện nhiều tụ khoáng u-ra-ni ở Đông Bắc
Bộ, Trung Trung Bộ và Tây Nguyên. Tổng tài nguyên u-ra-ni ở Việt Nam được dự
báo hơn 218 nghìn tấn U308, có thể là nguồn nguyên liệu khoáng cho các nhà máy
điện hạt nhân trong tương lai.
Nhóm khoáng sản kim loại nước ta có nhiều loại như sắt, man-gan, crôm, ti-
tan, đồng, chì, kẽm, cô-ban, ni-ken, nhôm, thiếc, vàng, bạc, v.v. Trong số khoáng
sản kim loại kể trên có các loại tài nguyên trữ lượng lớn tầm cỡ thế giới như bô-xít
(quặng nhôm) trữ lượng hơn 6 tỷ tấn xếp thứ 3 thế giới, ti-tan hơn 500 triệu tấn, vôn-
phram trữ lượng đạt 110,2 triệu tấn quặng chứa 227.500 tấn WO3 , 8,5 triệu tấn
CàF2, 191.800 tấn Cu, 20,8 tấn Au và 107.000 tấn Bi, crôm, đất hiếm hơn 10 triệu
tấn
Ngoài ra, Việt Nam còn có 2.5 tỷ tấn apatit, 25 triệu tấn baryt khoáng chất
phục vụ công nghiệp, nhiều nguồn nước nóng, ở phần đất liền có 264 nguồn có nhiệt
độ 300C trở lên.
Ðất tự nhiên ở Việt Nam có diện tích 33 triệu hecta trong đó đất có khả năng
nông nghiệp là 10.5 triệu hecta (chiếm 21 % diện tích đất tự nhiên). Do vị trí và địa
hình đặc biệt của nước ta làm cho thổ nhưỡng Việt Nam mà có tính chất chung của
vùng nhiệt đới ẩm nhưng rất đa dạng và phân hóa rõ từ đồng bằng lên núi cao, từ
Bắc vào Nam và từ Ðông sang Tây phù hợp với nhiều loại cây trồng có giá trị xuất

khẩu như lúa, cà phê, cao su, tiêu, điều. Tiềm năng đất có khả năng canh tác nông
nghiệp của cả nước khoảng từ 10-11 triệu ha trong đó mới chỉ sử dụng được 6, 9
triệu ha đất nông nghiệp gồm 5, 6 triệu ha là đất trồng cây hàng năm (lúa: 4, 144
triệu ha; màu, cây công nghiệp ngắn ngày: 1, 245 triệu ha) và 1, 3 triệu ha là đất
trồng cây ăn quả và cây lâu năm khác (cà phê, cao su, dâu tằm, hồ tiêu, cam, chanh,
quít...).
16

×