Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊTRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.48 KB, 111 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG

1.1. Sức lao động và thị trường sức lao động
1.2. Vai trò của thị trường sức lao động trong quá trình đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
1.3. Kinh nghiệm về phát triển thị trường sức lao động ở một số địa phương

6
6
28
31

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG NHỮNG NĂM QUA

2.1. Đặc điểm tình hình, điều kiện kinh tế - xã hội ở thành phố Đà Nẵng
2.2. Thực trạng về thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng

37
37
41

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐÁP


ỨNG YÊU CẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN
ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

3.1. Phương hướng phát triển thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng
3.2. Những giải pháp phát triển thị trường sức lao động ở thành phố
Đà Nẵng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76
77
82
102
104


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN



:

Cao đẳng

CMKT

:

Chuyên môn kỹ thuật


CNH

:

Công nghiệp hoá

DN

:

Dạy nghề

ĐH

:

Đại học

ĐTLĐVL

:

Điều tra lao động việc làm

HĐH

:

Hiện đại hoá


KH-CN

:

Khoa học - công nghệ

KT- XH

:

Kinh tế - Xã hội

LĐKT

:

Lao động kỹ thuật

LLLĐ

:

Lực lượng lao động

LĐLĐ

:

Liên đoàn lao động


LĐ-TB&XH

:

Lao động – thương binh và Xã hội

THCN

:

Trung học chuyên nghiệp

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông


DANH MỤC CÁC BIỂU
Biểu 2.1: Dân số trung bình của Đà Nẵng giai đoạn 1997- 2007
Biểu 2.2: Lực lượng lao động của Đà Nẵng phân theo giới tính và khu

42


vực giai đoạn 2001-2007
Biểu 2.3: Lực lượng lao động phân theo độ tuổi
Biểu 2.4: Lực lượng lao động và cơ cấu lao động phân theo ngành kinh

42
43

tế giai đoạn năm 1999- 2007
Biểu 2.5: Cung tiềm năng về lao động ở Đà Nẵng
Biểu 2.6: Trình độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động ở Đà Nẵng
Biểu 2.7: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Đà

44
45
47

Nẵng giai đoạn 1997- 2007
Biểu 2.8: Nhu cầu tuyển dụng lao động phân theo ngành kinh tế của

48

doanh nghiệp Đà Nẵng năm 2007
Biểu 2.9: Cơ cấu lực lượng lao động chia theo tình trạng lao động và

50

trình độ chuyên môn kỹ thuật
51
Biểu 2.10: Lao động có việc làm và số việc làm mới tạo ra

54
Biểu 2.11: Lao động được giải quyết việc làm phân theo thành phần kinh tế
giai đoạn 2001-2007 của Đà Nẵng
Biểu 2.12: Lao động làm việc phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật
Biểu 2.13: Cơ cấu lao động có việc làm phân theo nhóm nghề đang làm việc
Biểu 2.14: Nhu cầu tuyển dụng lao động
Biểu 2.15: Nhu cầu tuyển CNKT phân theo nhóm tuổi
Biểu 2.16: Báo cáo thưởng tết năm 2007 tại các doanh nghiệp
Biểu 2.17: Kết quả giải quyết việc làm tại hội chợ việc làm định kỳ
Biểu 3.1: Dự báo lực lượng lao động Đà Nẵng năm 2008-2020
Biểu 3.2: Dự báo tổng số lao động cần giải quyết việc làm
Biểu 3.3: Dự báo cơ cấu lao động Đà Nẵng

56
57
58
60
61
67
69
77
78
79


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát

triển thị trường sức lao động là một tất yếu khách quan vì thị trường sức lao
động là một trong những nhân tố quan trọng tạo động lực thúc đẩy sự phân
công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo điều kiện cho nền
kinh tế thị trường tăng trưởng nhanh và bền vững. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X đã nhấn mạnh:
Phát triển thị trường sức lao động trong mọi lĩnh vực kinh tế,
tạo sự gắn kết cung- cầu lao động, phát huy tính tích cực của người
lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu
đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động nhất là khu vực nông
thôn…Đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm, phát triển hệ
thống thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới.
Có chính sách nhập khẩu lao động có chất lượng cao trong lĩnh vực
khoa học công nghệ và quản lý những ngành nghề ưu tiên phát triển.
Xây dựng hệ thống pháp luật về lao động và thị trường sức lao động
nhằm đảm bảo quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người
lao động, thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động, bảo đảm
quyền lợi của người lao động, người sử dụng lao động [19, tr.81].
Cùng với xu thế chung của cả nước, Đà Nẵng từ khi trở thành đơn vị
hành chính thuộc trung ương(1997), được công nhận là đô thị loại I cấp quốc
gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của cả nước - cũng sớm nhận thức
được điều đó. Thực hiện nghị quyết 33- NQ/TW của Bộ Chính trị về xây
dựng và phát triển thành phố trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đà
Nẵng biết khai thác những tiềm năng và lợi thế, xác định cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp- dịch vụ- nông lâm thuỷ sản, có nhiều chính sách kêu gọi


2
đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng và chỉnh trang
đô thị vv…tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, đời sống của người
dân ngày càng được nâng cao.

Thực tế trong những năm qua, thị trường sức lao động ở thành phố Đà
Nẵng đang từng bước được hình thành và phát triển. Sự phát triển thị trường
sức lao động ở thành phố Đà Nẵng góp phần phân bổ nguồn lực lao động giữa
các ngành, các vùng hợp lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng định hướng thúc
đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động và góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế. Bên cạnh đó, với sự phát triển nhanh chóng của các ngành nghề và
lĩnh vực mới, đã thu hút một lượng lao động rất lớn từ các nơi khác đổ về
đặc biệt là dòng di dân từ các tỉnh phía Bắc. Đây cũng chính là cơ hội tốt
về nguồn cung sức lao động. Tuy nhiên, thị trường sức lao động ở Đà Nẵng
vẫn còn nhiều bất cập giữa các yếu tố thị trường như sự mất cân đối giữa
cung- cầu sức lao động dẫn đến tình trạng vừa thừa, vừa thiếu lao động;
chuyển dịch cơ cấu lao động còn bất hợp lý; vấn đề tiền công, tiền lương
còn bức xúc giữa người lao động và người sử dụng lao động. Từ ý nghĩa lý
luận và thực tiễn đó, vấn đề “ Phương Hướng Và Giải Pháp Phát Triển Thị
Trường Sức Lao Động Ở Thành Phố Đà Nẵng Đáp Ứng Yêu Cầu Đẩy Mạnh Công
Nghiệp Hóa, Hiện Đại Hóa Và Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế” được chọn làm đề tài

nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thị trường hàng hóa sức lao động là một trong những vấn đề lý luận
và thực tiễn quan trọng của các ngành khoa học kinh tế. Đến nay đã có nhiều
đề tài, công trình nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
- Bùi Thị Xuyến (2002): Vận dụng lý luận hàng hóa sức lao động của
C.Mác vào thực tiễn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam - Luận án tiến sĩ kinh tế. Tác giả phân tích cơ sở lý luận về hàng hoá sức


3
lao động của C.Mác, từ đó vận dụng vào thực tiễn kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đưa ra các giải pháp cụ thể.

- Lê Xuân Bá, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Hữu Hân, Một số vấn đề
phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội,
2003. Các tác giả đã làm rõ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động
của thị trường lao động Việt Nam, những thuận lợi, khó khăn, những mặt được
và chưa được trong quá trình hình thành và phát triển thị trường lao động; các
giải pháp cần thiết để phát triển loại thị trường đặc biệt này trong thời gian tới.
- Nguyễn Đình Hương (2006): Phát triển các loại thị trường trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb lý luận
chính trị, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu góc độ lý luận và thực tiễn.
- Nguyễn Văn Phúc (2008): Thị trường sức lao động trình độ cao ở
Việt Nam hiện nay - Luận án tiến sĩ kinh tế. Tác giả đã đưa ra khái niệm về thị
trường sức lao động ở trình độ cao, phương hướng và các giải pháp phát triển
về thị trường sức lao động ở trình độ cao
- Nguyễn Ngọc Bình (2008): Thị trường sức lao động ở Thành phố
Hồ Chí Minh dưới tác động trực tiếp của đầu tư nước ngoài - Luận văn thạc
sĩ kinh tế. Tác giả đã làm rõ khái niệm về thị trường sức lao động và các yếu
tố cấu thành thị trường sức lao động. Đưa ra các nhóm giải pháp cần thiết về
thị trường sức lao động dưới tác động trực tiếp của đầu tư nước ngoài ở thành
phố Hồ Chí Minh.
- Phạm Văn Chính, Thị trường lao động, cơ sở lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. Tác giả phân tích cơ sở lý luận
của thị trường lao động, về nguồn lao động, những yếu tố cấu thành và điều tiết
thị trường lao động, mối quan hệ cung- cầu sức lao động và tiền lương; sự vận
dụng linh hoạt lý luận về thị trường lao động vào điều kiện Việt Nam.
- Nguyễn Thi Thơm, Thị trường lao động ở Việt Nam thực trạng và
giải pháp, sách tham khảo, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006,


4
đã tập hợp nhiều nhà nghiên cứu kinh tế, nhiều nhà quản lý về thị trường sức

lao động, từ đó đưa ra giải pháp phát triển.
- Đỗ Xuân Phương, Phát triển thị trường sức lao động, giải quyết
việc làm, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2000. Luận giải thực tiễn trong phạm vi thành phố Hà Nội.
- Bùi Sĩ Lợi, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Tỉnh Thanh Hóa đến năm 2010. Phạm vi nghiên cứu thực tiễn
và các giải pháp của Tỉnh Thanh Hóa.
Từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, các công trình nghiên cứu, bài viết
nói trên chỉ đề cặp đến từng mặt, từng vấn đề của thị trường lao động như
cung, cầu sức lao động, số lượng, chất lượng sức lao động, chính sách sử
dụng lao động, sự hình thành và phát triển thị trường sức lao động ở Việt
Nam. Do giới hạn về mặt lịch sử, địa bàn nghiên cứu nhiều giải pháp đặt ra
không còn phù hợp với yêu cầu phát triển của thực tiễn. Vì vậy, đề tài “ Phát
triển thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng hiện nay” nghiên cứu
không trùng lắp với những đề tài đã nêu trên.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích thực trạng thị trường sức lao động ở thành phố
Đà Nẵng. Từ đó đề ra phương hướng và giải pháp nhằm phát triển mạnh mẽ
thị trường sức lao động ở Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài tập trung
làm rõ những vấn đề sau:
- Làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về thị trường sức lao động. Trên cơ sở
đó nghiên cứu kinh nghiệm phát triển thị trường sức lao động ở một số thành
phố lớn để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho thành phố Đà Nẵng.
- Phân tích thực trạng thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng
trong giai đoạn 1997- 2007. Từ đó đánh giá thành tựu đạt được, những vấn đề
đặt ra và nguyên nhân.



5
- Đề xuất những giải pháp nhằm phát triển thị trường sức lao động ở
thành phố Đà Nẵng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thị trường sức lao động ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn năm 1997- 2007.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Thành phố Đà Nẵng
- Về thời gian: Các số liệu chủ yếu từ năm 1997- 2007
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Dựa vào đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà
nước nói chung, của Thành phố Đà Nẵng nói riêng về phát triển thị trường
sức lao động.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; phân tích tổng hợp, sơ đồ hóa, hệ
thống bảng biểu. Đồng thời kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của một
số công trình khoa học đã được công bố.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng thị trường sức
lao động ở Thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất những định hướng cơ bản và
giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt
tiêu cực của thị trường sức lao động, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế - xã hội của thành phố theo hướng bền vững.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với việc giảng dạy
nghiên cứu về thị trường sức lao động.
7. Kết cấu của đề tài



6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
gồm có 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG

1.1. SỨC LAO ĐỘNG VÀ THỊ TRƯỜNG SỨC LAO ĐỘNG

1.1.1. Sức lao động
1.1.1.1. Khái niệm
Bất cứ một quá trình lao động sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của
ba yếu tố cơ bản đó là: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Tuy
nhiên, cả ba yếu tố này có một vai trò nhất định, trong đó lao động là yếu tố
cơ bản của quá trình sản xuất nhưng không phải là yếu tố duy nhất tạo ra của
cải vật chất.
Quá trình tiêu dùng sức lao động đó là lao động. Theo C.Mác “Sức lao
động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn
tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [31, tr.251].
Như vậy, sức lao động chỉ mới nói lên khả năng lao động tiềm ẩn bên
trong của một con người. Sức lao động là toàn bộ năng lực thể chất và tinh
thần tồn tại trong một cơ thể con người đang sống. Năng lực thể chất chính là
phần xương thịt của con người thể hiện ở chiều cao, cân nặng và khả năng
hoạt động của con nguời; Năng lực tinh thần thể hiện ở mặt trí lực như sở
thích, năng lực chuyên môn và sự thoả mái của con người. Khác với sức lao
động, Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự
nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm

trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân
của con người đối diện với thực thể của tự nhiên với tư cách là một lực lượng


7
của tự nhiên, để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có
ích cho đời sống bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên
thuộc về thân thể của họ: tay và chân. Trong khi tác động vào tự nhên ở bên
ngoài thông qua sự vận động đó đã làm thay đổi tự nhiên, con người cũng
đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó.
Tóm lại, lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người
nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ cho các nhu cầu của đời sống xã hội. Lao
động là quá trình tiêu dùng sức lao động trong hiện thực, là phẩm chất đặc
biệt của con người, khác với hoạt động bản năng của con vật. C.Mác viết:
… bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong
còn làm cho một số nhà kiến trúc phải thổ thẹn. Nhưng điều ngay từ
đầu phân biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước
khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây
dựng chung trong đầu óc mình rồi [31, tr.266].
Hàng hoá sức lao động
Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của quá trình sản xuất, nó
xuất hiện từ rất lâu, cùng với sự xuất hiện của con người, từ khi con người
biết tiến hành sản xuất tạo ra tư liệu sinh hoạt cho bản thân mình. Trải qua
một quá trình lâu dài sức lao động ngày càng được hoàn thiện hơn. Ngay
trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ sức lao động chưa phải là hàng hoá, người nô lệ
bị áp đặt lao động cưỡng bức, bị đối xử như một công cụ biết nói và chịu sự
chi phối hoàn toàn về mọi mặt của chủ nô. Đến chế độ phong kiến, người
nông dân tá điền tuy không bị lệ thuộc hoàn toàn vào địa chủ, nhưng họ không
được quyền tự do di chuyển, lựa chọn chủ đất làm thuê, sức lao động trong thời
kỳ phong kiến đã manh nha trở thành hàng hoá nhưng lại bị chặn bởi bóc lột siêu

kinh tế, dưới bạo lực của địa chủ phong kiến trấn áp. Người nô lệ có sức lao
động chỉ làm thuê cho địa chủ mà họ không có quyền mặc cả về tiền công. Do
đó, sức lao động trong chế độ phong kiến chưa phải là hàng hoá.


8
Khi lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất phong kiến trở
nên lỗi thời đã cản trở cho sự phát triển của lực lượng sản xuất. Từ đó đòi hỏi
một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn ra đời, đó là phương thức sản xuất Tư
bản chủ nghĩa, từ đây sức lao động trở thành hàng hoá. Vì vậy, C.Mác viết:
Thiên nhiên không sinh ra một bên là chủ tiền - chủ hàng hoá,
còn bên kia là những người chỉ làm chủ độc có sức lao động của
mình. Quan hệ ấy không phải là một quan hệ lịch sử tự nhiên mà
cũng không phải là một quan hệ xã hội chung cho tất cả thời kỳ lịch
sử. Rõ ràng bản thân nó là kết quả của sự phát triển trước đó, là sản
vật của nhiều cuộc cách mạng kinh tế, là sản vật của sự diệt vong
của hàng loạt những hình thái sản xuất xã hội cũ [31, tr.254].
Như vậy, lịch sử ngay từ đầu sức lao động chưa phải là hàng hóa. Sức
lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có những điều kiện nhất định. Muốn cho
người chủ tiền tìm thấy trên thị trường một sức lao động với tư cách là hàng
hoá thì một số những điều kiện khác nhau phải được thực hiện. Tự bản thân
nó, trao đổi hàng hoá không bao gồm những quan hệ lệ thuộc nào khác ngoài
quan hệ lệ thuộc toát ra từ bản chất của chính nó. Với tiền đề ấy sức lao động
chỉ xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hoá khi nó được đưa ra trên
thị truờng và chỉ trong chừng mực nó được đưa ra trên thị trường, hay ngay
chính người chủ của nó, tức là bản thân người có sức lao động đem bán
Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng là yếu tố cơ bản của quá
trình sản xuất. Sức lao động trở thành hàng hoá khi có các điều kiện sau đây
Một là, người lao động tự do thân thể nghĩa là tự do sở hữu năng lực
lao động của anh ta và thân thể của anh ta, anh ta có quyền chi phối sức lao

động của mình có nghĩa là anh ta có bán hoặc không bán sức lao động cho
người khác và được pháp luật bảo vệ. Vì vậy C.Mác đã chỉ rõ: “Muốn cho
người chủ sức lao động có thể bán được với tư cách là hàng hoá thì người đó
phải có khả năng chi phối được sức lao động ấy, do đó người ấy phải là kẻ tự


9
do sở hữu năng lực lao động của mình, thân thể của mình” [31, tr.251]. Anh
ta và người chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với tư cách
là những người hàng hoá bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ là một
người thì mua, còn người kia thì bán, và vì thế cả hai đều là những người đều
bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Muốn duy trì mối quan hệ ấy, người sở
hữu sức lao động bao giờ cũng bán sức lao động đó trong một thời gian nhất
định mà thôi, bởi vì, nếu anh ta thì bán đứt hẳn toàn bộ sức lao động ấy trong
một lần thì anh ta sẽ tự bán cả bản thân anh ta, và từ chỗ là người tự do, anh ta
sẽ trở thành người nô lệ, từ chỗ là người chủ hàng hoá anh ta trở thành một
hàng hoá. Với tư cách là một con người, anh ta phải thường xuyên duy trì mối
quan hệ đối với lao động của mình như là vật sở hữu của mình, và vì vậy, như
là một hàng hoá của bản thân mình, và điều đó chỉ có thể thực hiện được
trong chừng mực anh ta bao giờ cũng chỉ để cho người mua sử dụng hoặc tiêu
dùng sức lao động của mình một cách nhất thời, trong một thời gian nhất định
thôi, do đó chỉ trong chừng mực là khi bán sức lao động, anh ta không từ bỏ
quyền sở hữu về sức lao động ấy.
Hai là, C.Mác viết: “Người chủ sức lao động phải không có khả năng
bán những hàng hoá trong đó lao động của anh ta đã được vật hoá, mà trái lại
anh ta phải buộc đem bán đi, với tư cách là hàng hóa, chính ngay cái sức lao
động chỉ tồn tại ngay cơ thể sống của anh ta thôi” [31, tr.252-253].
Khác với một người bán những hàng hóa do mình sản xuất ra, C.Mác
cũng chỉ rõ:
Để cho một người nào đó có khả năng bán những hàng hóa

khác với sức lao động của mình, thì tất nhiên là anh ta phải có
những tư liệu sản xuất như nguyên liệu, công cụ lao động vv… anh
ta không thể làm giày ống mà không có da thuộc. Ngoài ra anh ta
còn cần có tư liệu sinh hoạt, không một ai ngay cả một nhạc sĩ của
tương lai, cũng không thể sống bằng những sản phẩm của tương


10
lai, không thể sống bằng những giá trị sử dụng còn chưa sản xuất
xong [31, tr.253].
Như vậy, để sức lao động trở thành hàng hóa cần phải có hai điều
kiện nêu trên, nghĩa là người chủ tiền phải tìm được người lao động tự do trên
thị trường hàng hóa, tự do theo hai nghĩa: thứ nhất là một con người tự do, chi
phối được sức lao động của mình với tư cách là một hàng hóa, và mặt khác,
anh ta không có một hàng hóa nào khác để bán, nói một cách khác là trần như
nhộng, hoàn toàn không có một vật cần thiết để thực hiện sức lao động của
mình. Thiếu một trong hai điều kiện nêu trên thì sức lao động không trở thành
hàng hóa. Việc sức lao động trở thành hàng hóa đã đánh dấu một bước ngoặt
cách mạng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phương thức kết hợp
người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô
lệ và phong kiến. Sự cưỡng bức lao động bằng biện pháp phi kinh tế đã được
thay bằng việc ký kết hợp đồng mua và bán giữa hai người bình đẳng về hình
thức: giữa người sở hữu sức lao động và người sở hữu tư liệu sản xuất. Sự
bình đẳng về hình thức ấy che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản, chế
độ bóc lột được xây dựng trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa kẻ bóc lột và
người bị bóc lột. Chính sự kết hợp giữa biện pháp cưỡng bức lao động bằng
biện pháp kinh tế với quyền tự do của mỗi cá nhân là mâu thuẩn nội tại của
nền dân chủ tư sản.
Ngày nay, với sự phát triển của cuộc cách mạnh khoa học – công
nghệ, nền kinh tế thế giới đã và đang chuyển sang nền kinh tế mới, hay còn

gọi là nền kinh tế tri thức. Chủ nghĩa tư bản có sự biến đổi về hình thức sở
hữu đa dạng, phong phú phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Như vậy, điều kiện thứ hai để sức lao động trở thành hàng hóa không còn
đúng như C.Mác đã đưa ra cách 142 năm, nghĩa là người công nhân không
những bán sức lao động mà họ còn có cổ phần trong công ty. Chính vì vậy,
một số người cho rằng ngày nay người công nhân không chỉ có cổ phần mà


11
họ còn là chủ sở hữu, được hưởng lợi tức cổ phần. Chẳng hạn, ở Thụy Điển
có tới 21% dân cư có cổ phần trong các doanh nghiệp, ở Pháp có 6 triệu
người là cổ đông, ở Anh có 8 triệu người, ở Mỹ có khoảng 35- 40 triệu người.
Ngoài ra còn xuất hiện loại hình xí nghiệp do công nhân tự quản. Tuy nhiên,
những điều kiện trên là hoàn toàn có thật nhưng chúng ta cần nhận thấy rằng,
sở hữu của nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn cổ phần của người công
nhân chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ không đáng kể và được chủ nghĩa tư bản sử
dụng như một công cụ quản lý để thu hút sự quan tâm của người lao động vào
quá trình tái sản xuất để nâng cao hiệu quả sản xuất của nhà tư bản chứ không
có nghĩa là người công nhân đã trở thành người chủ tư liệu sản xuất. Theo số
liệu thống kê quốc tế, toàn bộ số cổ phần mà người lao động ở Mỹ chỉ chiếm
1% trong toàn bộ số cổ phiếu. Nhưng với sở hữu đó người công nhân chưa trở
thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất thực sự, mà chỉ mang tính hình thức nên
họ vẫn là người bán sức lao động, chứ chưa phải là vừa lao động, vừa quản
lý theo hình thức tiểu chủ. Về mặt lý luận, chúng ta cần phải phân biệt khi
là chủ sở hữu thật sự thì phải có quyền chi phối cái mà mình sở hữu (với
những mức độ nhất định). Ngoài ra nguồn gốc của giá trị cổ phiếu mà họ
có là do tiết kiệm được chứ không phải từ nguồn gốc chiếm đoạt lao động
của người khác, những phần tiết kiệm đó lại chỉ bù đắp (thậm chí không đủ
bù đắp) được phần mà họ mắc nợ do phải mua chịu tư bản cố định cho gia
đình do nhà nước đứng ra điều tiết. Trên thực tế, cái gọi là tư liệu sản xuất

mà họ sở hữu thì về giá trị của nó nằm trong hệ thống quản lý của ngân
hàng và bị khống chế của nhà tư bản tài chính chứ không được quyền tự do
sử dụng theo ý riêng của mình.
1.1.1.2 Các yếu tố của hàng hóa sức lao động
* Giá trị của sức lao động
Giá trị hàng hóa sức lao động được quyết định bởi số thời gian lao
động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Sức lao động chỉ


12
tồn tại như một năng lực con người đang sống, muốn tái sản xuất năng lực lao
động đó thì người có sức lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt
nhất định. Do đó, thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra sức lao động sẽ quy
thành thời gian lao động cần thiết sản xuất để sản xuất ra tư liệu sinh hoạt ấy.
C.Mác viết:
Giá trị của sức lao động cũng như mọi hàng hóa khác, được
quyết định bởi số thời gian lao động cần thiết để sản xuất, và do đó
để sản xuẩt ra thứ sản phẩm đặc biệt ấy. Sức lao động chỉ tồn tại
như một năng lực của con người đang sống… Nhưng sức lao động
chỉ được thực hiện bằng cách biểu hiện ra ngoài, nó chỉ được thực
hiện trong lao động. Trong quá trình thực hiện nó, trong lao động
phải hao phí một lượng nhất định về cơ, thần kinh và não, v.v. của
con người, sự hao phí đó phải được bù lại. Hao phí càng nhiều thì
bù đắp càng lớn [31, tr.255- 256].
Như vậy, là hàng hóa đặc biệt giá trị của hàng hóa sức lao động khác
với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao gồm yếu tố lịch sử và yếu tố tinh
thần. Nhu cầu của người có sức lao động không chỉ có nhu cầu về vật chất mà
còn có nhu cầu về tinh thần. Những nhu cầu này nó phụ thuộc vào hoàn cảnh
lịch sử của từng nước, từng thời kỳ và phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt
được, và lịch sử hình thành giai cấp công nhân cả điều kiện lịch sử, khí hậu.

C.Mác viết:
Bản thân những nhu cầu tự nhiên như thức ăn, áo quần, chất
đốt, nhà ở vv… cũng khác nhau tuỳ theo khí hậu và những đạc điểm
thiên nhiên khác của từng nước. Mặt khác quy mô của cái gọi là
những nhu cầu thiết yếu, cũng như những phương thức thoã mãn
những nhu cầu đó, bản thân chúng cũng là một sản phẩm của lịch sử
và vì thế nó phụ thuộc phần lớn vào trình độ văn minh của mỗi nước,
ngoài ra còn phụ thuộc rất nhiều vào những điều kiện, và do đó vào


13
những thói quen và những nhu cầu sinh hoạt trong đó giai cấp của
những người lao động tự do được hình thành [31, tr.256-257].
Giá trị hàng hóa sức lao động kết hợp bởi 3 bộ phận
Thứ nhất, giá trị của những tư liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống bản
thân người lao động. Sức lao động chỉ thực hiện trong lao động. Trong quá
trình lao động phải hao phí một lượng nhất định về cơ, thần kinh và não v.v…
Sự hao phí đó phải được bù đắp lại. Do đó, phải đủ tư liệu sinh hoạt để duy trì
thể lực và sức khoẻ của người lao động như trước, trong một trạng thái sinh
hoạt bình thường. Bản thân những nhu cầu tự nhiên khác như thức ăn, áo
quần, chất đốt, nhà ở v.v…cũng khác nhau tuỳ theo khí hậu và những đặc
điểm thiên nhiên khác của từng nước. Mặt khác, quy mô của cái gọi là những
nhu cầu thiết yếu, cũng như phương thức thoả mãn những nhu cầu đó lại phụ
thuộc phần lớn vào trình độ văn minh của mỗi nước, ngoài ra còn phụ thuộc
vào những điều kiện và những thói quen trong đó giai cấp của những người
lao động tự do được hình thành nghĩa là giá trị sức lao động bao gồm một yếu
tố lịch sử và tinh thần. Nhưng đối với một nước nhất định và với một thời kỳ
nhất định thì tính trung bình quy mô của những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho
người lao động là một đại lượng nhất định
Thứ hai, giá trị tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế. Người sở

hữu sức lao động sẽ phải về hưu hay chết. Những sức lao động biến khỏi thị
trường lao động ấy cần phải được thường xuyên thay thế bằng những sức lao
động mới, ít ra cũng với một con số ngang như thế. Vì vậy, tổng số những tư
liệu sinh hoạt cần thiết cho việc sản xuất ra sức lao động bao gồm cả những tư
liệu sinh hoạt cho những người thay thế đó, tức là cho con cái của những
người lao động
Thứ ba, chi phí đào tạo. Muốn cho sức lao động trở thành một sức lao
động phát triển và đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo dục
nào đó, nên phải có những chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của lao
động. Do đó, những chi phí ấy đều gia nhập vào tổng số giá trị được chi phí


14
để sản xuất ra sức lao động và tiền công cho lao động phức tạp phải cao hơn
lao động giản đơn, vì lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
Giá trị của mọi hàng hóa khác có xu hướng càng giảm càng tốt;
nhưng giá trị của hàng hoá sức lao động lại có giới hạn thấp nhất của nó; đó
chính là “Giá trị của cái khối lượng hàng hóa mà hằng ngày thiếu nó thì kẻ
mang sức lao động, tức con người, sẽ không thể khôi phục lại quá trình sống
của mình, tức là tạo thành giá trị của những tư liệu sinh hoạt không thể thiếu
được về mặt sinh lý” [31, tr.259]. Nếu vượt quá giới hạn này, người lao động
sẽ có cuộc sống thấp và việc sử dụng sức lao động của người này sẽ bị ảnh
hưởng và giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động khó phát huy tốt đuợc.
Cũng như mọi hàng hóa khác, người mua hàng hóa tuy phải thực hiện
giá trị, nhưng mục đích của họ là giá trị sử dụng của hàng hoá đó. Nhà tư bản
cũng vậy, họ bỏ tiền ra mua sức lao động chỉ vì hàng hoá này có giá trị sử
dụng rất đặc biệt. Chính tính chất đặc biệt của nó tạo ra sự hấp dẫn kỳ lạ cho
người mua cũng như cho nhà tư bản
* Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là đáp ứng nhu cầu của

người mua. Trong quá trình sản xuất nhà tư bản cần có sức lao động của công
nhân kết hợp với tư liệu sản xuất của mình để tạo ra giá trị sử dụng, tạo ra các
hàng hóa có giá trị cao hơn giá trị ứng truớc. Cái có ý nghĩa quyết định ở giá
trị sử dụng của sức lao động là cái đặc tính của nó, đặc tính có ích của sức lao
động không chỉ là năng lực tạo ra các giá trị sử dụng mà là cái nguồn gốc sinh
ra giá trị, hơn nữa lại sinh ra một giá trị lớn hơn giá trị của chính bản thân nó.
Ở đây có sự thống nhất giữa quá trình tạo ra giá trị với quá trình làm tăng giá
trị. Về thực chất, quá trình làm tăng giá trị cũng chính là quá trình tạo ra giá
trị được kéo dài quá một điểm nào đó mà thôi, điểm đó ngang bằng với giá trị
sức lao động


15
Tính có ích của sức lao động chỉ thực sự được thực hiện, tức chỉ thực
sự tạo ra một giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó khi sức lao động phải hoạt
động trong những điều kiện bình thường đó là các điều kiện sau đây:
Một là, bản thân sức lao động phải là một sức lao động bình thường.
Nghĩa là, trong ngành chuyên môn sức lao động ấy được sử dụng, nó phải có
một trình độ trung bình về mặt tài nghệ, về mặt thành thục và tốc độ. Tức muốn
nâng cao giá trị sử dụng của sức lao động phải trải qua một thời kỳ đào tạo, huấn
luyện, rèn luyện chuyên môn nhất định cả kinh nghiệm tích luỹ được nữa.
Hai là, phải đảm bảo tính chất bình thường của những yếu tố vật chất
của sản xuất như tư liệu lao động, nguyên liệu, vật liệu đạt trình độ phổ biến
bình thường và các yếu tố này phải được sử dụng một cách hợp lý, phù hợp
với từng loại sản phẩm và yêu cầu của thị trường. Như vậy, giá trị sử dụng
của hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình độ phát triển
của mỗi quốc gia, năng xuất lao động, giáo dục đào tạo và nhiều yếu tố khác
* Giá cả của hàng hóa sức lao động
Cũng như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có giá trị
và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa sức lao động biểu hiện ra bên ngoài là

giá cả của nó hay tiền công. Như vậy, về thực chất tiền công là giá cả của
hàng hoá sức lao động
Tiền công là một phạm trù phản ánh mối quan hệ giữa nhà tư bản và
công nhân lao động làm thuê. Vì vậy, tiền công là một trong những căn cứ
quan trọng để nhà tư bản và công nhân làm thuê thoả thuận với nhau trên thị
trường hàng hóa sức lao động
1.1.2. Thị trường sức lao động và những nhân tố của thị trường
sức lao động
1.1.2.1. Khái niệm về thị truờng sức lao động
Trong nghiên cứu kinh tế tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị
trường sức lao động.


16
* Theo quan niệm của các học giả nước ngoài và các tổ chức quốc tế:
Lịch sử phát triển của các tư tưởng kinh tế đến nay tồn tại rất nhiều
định nghĩa khác nhau về thị trường sức lao động. Chẳng hạn như Ađam smith,
nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh cho rằng: Thị trường lao động là
không gian trao đổi dịch vụ lao động giữa một bên là người mua sức lao động
và người bán sức lao động. Với quan niệm trên cho thấy, Ađam smith nhấn
mạnh đến đối tượng trao đổi trên thị trường là dịch vụ lao động.
- Theo tổ chức lao động quốc tế ILO thì : “ Thị trường lao động là thị
trường trong đó có các dịch vụ lao động được mua bán và thông qua quá trình
để xác định mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ của tiền
công”. Khái niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định
thông qua việc làm và tiền công.
Quan điểm của các nhà khoa học kinh tế Nga thì cho rằng: “ Thị
trường lao động được hiểu như là một hệ thống quan hệ xã hội, những định
mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật) đảm bảo cho việc tái sản
xuất, trao đổi và sử dụng lao động”. Với quan niệm trên coi thị trường lao

động trên cơ sở đánh giá sự vận động của thị trường sức lao động dưới tác
động của hệ thống những quan hệ xã hội, thể chế và pháp luật của một xã hội
nhất định.
Các nhà khoa học Mỹ thì cho rằng : Thị trường lao động là một cơ
chế mà với sự trợ giúp của nó hệ số giữa người lao động và số lượng chỗ làm
vịêc được điều tiết hay thị trường mà đảm bảo việc làm cho người lao động và
kết hợp giải quyết những lĩnh vực việc làm được gọi là thị trường lao động.
Ngân hàng thế giới cho rằng: Thị trường sức lao động xét về lý thuyết
kinh tế được coi là một vị trí mà tại đó cung và cầu về lao động tác động qua
lại với nhau. Đồng thời, khi nhấn mạnh bản chất của thị trường sức lao động,
ngân hàng thế giới còn đưa ra khái niệm chi tiết mô tả nội dung và các yếu tố
cơ bản cấu thành thị trường sức lao động gồm:


17
- Các chủ thể của thị trường sức lao động là hộ gia đình, cá nhân
người lao động (thuộc về phía cung người lao động); hãng, công ty, chủ
doanh nghiệp (thuộc về phía cầu người lao động).
- Quy mô gồm: số lượng người lao động làm công, số giờ làm
việc(thời gian làm việc)
- Giá cả: mức tiền công; tỷ lệ tiền công
- Thể chế: chính phủ, cơ chế điều tiết
Theo tiến sĩ Leo Maglen, chuyên gia tư vấn của dự án giáo dục kỹ
thuật dạy nghề của tổng cục dạy nghề Do ngân hàng phát triển châu Á thì
quan niệm thị trường lao động được tiếp cận dưới góc độ việc làm và được
xác định như sau: Thị trường lao động là một hệ thống trao đổi giữa người có
việc làm hoặc người đang tìm việc làm (cung lao động) với những người đang
sử dụng lao động hoặc đang tìm kiếm lao động để sử dụng (cầu lao động).
Theo quan niệm này, sự trao đổi và thoả thuận giữa những người sử dụng lao
động và người lao động trên thị trường lao động liên quan đến các nội dung quan

hệ lao động như tuyển dụng lao động, sử dụng lao động, tiền công, tiền lương,
bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động…trong lĩnh vực thuê mướn lao động.
* Các quan niệm về thị trường sức lao động của các học giả Việt Nam:
Ở Việt nam từ khi chấp nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa thì sức lao động được coi là hàng hóa và thị trường hàng hóa sức
lao động từng bước được hình thành và phát triển. Từ đó, việc nhận thức và
quan niệm về thị trường hàng hóa sức lao động cũng ngày càng hoàn thiện và
rõ hơn, có thể đưa ra các quan niệm sau đây:
Theo quan niệm từ Viện quản lý kinh tế Trung ương: Thị trường sức
lao động là nơi thực hiện các quan hệ xã hội giữa người bán sức lao động và
người mua sức lao động thông qua các hình thức thỏa thuận về giá cả, tiền
công, tiền lương và các điều kiện làm việc khác, trên cơ sở một bản hợp đồng
bằng văn bản, bằng miệng hoặc thông qua các thoả thuận khác. Quan niệm


18
trên đã bám sát quá trình hình thành và phát triển thị trường sức lao động ở
Việt Nam hiện nay.
Trong giáo trình kinh tế lao động của trường đại học kinh tế quốc dân
Hà Nội, khi luận giải về thị trường sức lao động nhấn mạnh ở ba khía cạnh.
Một là, thời gian, không gian, địa điểm diễn ra các hoạt động mua bán sức lao
động. Hai là, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động. Ba
là, những mối quan hệ kinh tế khác được hình thành trong lĩnh vực thuê mướn
lao động.
Theo tiến sĩ khoa học Phạm Đức Chính thì thị trường sức lao động đó
là một cơ chế hoạt động tương hỗ số người sử dụng lao động và người lao
động trong một không gian kinh tế xác định, thể hiện những quan hệ kinh tế
pháp lý giữa họ với nhau. Mặc dù còn có những điểm khác biệt, song có thể
thấy các định nghĩa về thị trường lao động nêu lên đều thống nhất với nhau về
nội dung cơ bản để hình thành nên thị trường lao động, đó là không gian,

người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động ngoài
và những ràng buộc giữa các bên
Tổng hợp các quan niệm khác nhau ngay cả trong nước cũng như ở
nước ngoài nêu trên. Có thể hiểu thị trường sức lao động như sau:
Thị trường sức lao động theo nghĩa hẹp chỉ giới hạn trong một khu
vực không gian nhất định nơi diễn ra các quan hệ xã hội giữa người bán sức
lao động và người mua sức lao động bằng hình thức hợp đồng thoả thuận về
giá cả, tiền công, và các điều kiện làm việc khác.
Thị trường sức lao động theo nghĩa rộng là nơi cung và cầu lao động
tác động qua lại với nhau, hay là nơi trao đổi hàng hóa sức lao động trong đó
người bán sức lao động và người mua sức lao động bình đẳng với nhau để xác
định giá cả (tiền công, tiền lương) và các điều kiện lao động khác thông qua
một hình thức hợp đồng lao động nhất định.
- Về thuật ngữ “ thị trường sức lao động” và “ thị trường lao động”


19
Trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường, khi nghiên cứu
các vấn đề lý luận về thị trường lao động thường xuất hiện hai thuật ngữ là “
thị trường lao động” và “ thị trường sức lao động”. Hầu hết được thể hiện
trong các công trình nghiên cứu, sách báo và các bài viết đều không có sự
thống nhất. Ở đây, điểm xuất phát của hai thuật ngữ nêu trên chủ yếu là sức
lao động là hàng hóa hay lao động là hàng hóa. Hiện nay, tồn tại hai loại ý
kiến khác nhau: Đối với các nhà kinh tế theo lý thuyết của kinh tế thị trường
hiện đại như tiến sĩ Leo Maglen của tổ chức lao động quốc tế ILO và trong
“Đại từ điển kinh tế thị trường”(xuất bản năm 1988) cho rằng, trên thị trường
sức lao động chỉ mua bán dịch vụ lao động, do đó thiên về cách gọi là thị trường
lao động. Ở Việt Nam, những năm đầu của thời kỳ đổi mới, thuật ngữ “ thị
trường lao động” được sử dụng rộng rãi trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là
trong bộ luật lao động; Mặt khác, các nhà nghiên cứu lý luận theo lý thuyết kinh

tế thị trường của chủ nghĩa Mác thì cho rằng trên thị trường này sức lao động là
hàng hóa và thống nhất quan điểm thị trường hàng hóa sức lao động. Cơ sở luận
giải cho vấn đề này dựa vào lý luận của C.Mác về Mua bán sức lao động. C.Mác
và Ăng ghen đã chỉ ra rằng: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động
là toàn bộ năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con
người đang sống và được người đó vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó” [31, tr.251]. Như vậy, sức lao động bao gồm năng lực thể chất và
tinh thần tồn tại trong một con người đang sống và khả năng vận dụng thể lực và
trí lực để sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó. Còn lao động là hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người tác động vào tự nhiên để cải biến những vật
thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người.
Như vậy, sức lao động là khả năng lao động tiềm ẩn bên trong con
người, còn lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động. Khi bàn về tiền công
C.Mác đã chỉ ra sự nhầm lẫn tiền công là giá cả của lao động, lao động không
phải là hàng hóa và không có giá trị. Bởi vì, nếu lao động là hàng hóa thì phải


20
có trước, phải được vật thể trong một hình thức cụ thể nào đó. Tiền đề để lao
động có thể vật hóa được là phải có tư liệu sản xuất. Và nếu người lao động
có tư liệu sản xuất thì họ không còn là người vô sản nữa, họ bán những sản
phẩm do họ sản xuất ra, chứ không bán sức lao động. Đồng thời thừa nhận lao
động là hàng hóa thì dẫn đến mâu thuẩn về mặt lý luận là: nếu lao động là
hàng hóa thì nó được trao đổi ngang giá thì lúc đó nhà tư bản sẽ không thu
được lợi nhuận, điều đó phủ nhận quy luật giá trị thặng dư, và phương thức
sản xuất không còn là cơ sở tồn tại nữa. Và nếu hàng hóa lao động được trao
đổi không ngang giá thì nhà tư bản sẽ thu được giá trị thặng dư, điều đó phủ
nhận quy luật giá trị. Ngoài ra, hàng hóa sức lao động còn có một đặc điểm
nữa là nó không bao giờ tách khỏi người bán; hơn nữa nó chỉ nhận được giá
cả sau khi cung cấp giá trị sử dụng cho người mua. Giá trị sử dụng mà người

công nhân cung cấp cho nhà tư bản lại không phải là sức lao động mà là việc
sử dụng cái sức ấy tức là lao động. Do đó, nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản
chỉ trả giá trị cho cái công dụng mà công nhân đã cung cấp cho nhà tư bản tức
là trả giá trị cho lao động. Đối với công nhân thì lao động là phương tiện sinh
sống của anh ta, toàn bộ lao động trong cả ngày lao động là phương tiện để có
tiền công sinh sống. Do đó, công nhân tưởng rằng mình bán là bán lao động.
Còn nhà tư bản bỏ tiền ra mua là để có lao động, cho nên họ cũng lầm tưởng
là họ mua lao động. Số lượng tiền công nhiều hay ít tuỳ theo ngày lao động
dài hay ngắn, hoặc tuỳ theo kết quả lao động nhiều hay ít. Vì vậy, dẫn đến
hiểu lầm là tiền công là trả cho kết quả lao động.
Tóm lại, từ cách luận giải trên sức lao động là hàng hóa và hàng hóa
sức lao động được mua bán trên thị trường. Đó là thị trường hàng hóa sức lao
động. Đại hội đảng lần thứ X đã khẳng định và thống nhất thuật ngữ: “Phát
triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cungcầu lao động” [19, tr.81].
1.1.2.2. Những yếu tố cấu thành thị trường sức lao động


21
Thị trường sức lao động được cấu thành từ các yếu tố: cung, cầu, giá cả
sức lao động, cơ chế điều tiết quan hệ cung cầu và cạnh tranh trên thị trường sức
lao động. Giữa các nhân tố này có mối liên hệ, ảnh hưởng lẫn nhau. Nói đến sự
vận động của thị trường sức lao động là nói đến sự vận động của các yếu tố cung,
cầu lao động, giá cả sức lao động theo các quy luật khách quan và chịu sự tác
động của các chính sách, thể chế do nhà nước ban hành.
* Cung sức lao động
Cung sức lao động được hiểu là tổng nguồn sức lao động do người
lao động tự nguyện đem ra tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội, tức là
tổng số nhân khẩu trong độ tuổi lao động có khả năng lao động kể cả số nhân
khẩu không nằm trong độ tuổi lao động nhưng thực tế vẫn tham gia vào quá
tái sản xuất xã hội.

Cung sức lao động cũng có thể được hiểu là khả năng cung cấp cả thể
lực và trí lực của người lao động làm thuê cho người sử dụng lao động trong
một thời gian nhất định với mức tiền công xác định.
Khi xem xét cung sức lao động trên thị trường cần phân biệt rõ hai
phạm trù cung thực tế và cung tiềm năng.
Cung thực tế về sức lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở
lên đang làm việc hoặc chưa có việc làm nhưng đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Cung tiềm năng về sức lao động: bao gồm tất cả những người đủ 15
tuổi trở lên chưa có việc làm hoặc đang đi học, đang làm việc nội trợ hoặc
chưa có nhu cầu tìm kiếm việc làm
Cung sức lao động chịu tác động của nhiều yếu tố có thể khái quát sau đây:
- Cung sức lao động phụ thuộc vào số lượng dân số có khả năng lao
động cụ thể là số lượng dân số hoạt động kinh tế thường xuyên
Dân số kinh tế thường xuyên gồm tất cả những người trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động đang làm việc hoặc đang tích cực tìm kiếm


22
việc làm. Chính lực lượng này quyết định đến mức cung sức lao động và nó
mang tính chất tỷ lệ thuận với mức cung sức lao động.
- Cung sức lao động phụ thuộc vào định mức giờ làm việc.
Trong thực tế luôn tồn tại các bộ phận người lao động khác nhau về
nhu cầu thời gian làm việc. Trong đó, một bộ phận có khả năng về kinh tế tài
chính họ cần có thời gian nghỉ ngơi, giải trí không muốn làm việc với thời
gian dài. Một bộ phận khác do khó khăn về mặt kinh tế yêu cầu tăng giờ làm
việc; cũng có một số lao động nữ phải nuôi con nên muốn giảm thời gian làm
việc trong ngày. Vì vậy, việc xác định định mức thời gian làm việc sẽ tác
động đến các bộ phận người lao động kể trên và sẽ làm tăng hay giảm nguồn
cung lao động. Hơn nữa, cũng cần chú ý sức lao động là một loại hàng hóa
đặc biệt chịu sự tác động của các yếu tố tinh thần và lịch sử nên phải xem xét

cung trong điều kiện lịch sử cụ thể.
- Cung sức lao động phụ thuộc vào tiền lương
Đối với hàng hóa thông thường, sự biến động giá cả của hàng hóa tác
động trực tiếp đến tình hình cung cầu hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên tình
hình này lại không diễn ra như vậy đối với hàng hóa sức lao động. Việc tăng
giá sức lao động không nhất thiết đi cùng với tăng cung của nó. Cung sức lao
động phụ thuộc vào tiền công trên thị trường. Một mặt, tiền công và cung sức
lao động tác động cùng chiều nghĩa là, khi tiền công cao ảnh hưởng trực tiếp
đến tăng cung. Trong nền kinh tế thị trường, số đông người lao động có thu
nhập thấp trong khi nhu cầu về những tư liệu sinh hoạt cao nên họ sẵn sàng
cung ứng lượng lao động lớn hơn, vì vậy, tăng tiền công tác động rất lớn đến
tăng cung về hàng hóa sức lao động. Mặt khác, tiền công và cung sức lao
động tỷ lệ nghịch với nhau nghĩa là, tăng tiền công tác động giảm cung ở chỗ,
thu nhập tăng lên, người lao động sẽ có điều kiện mua sắm hàng hóa và dịch
vụ để thoả mãn nhu cầu tốt hơn. Nhưng khi độ thoả mãn đạt đến một giới hạn
nhất định thì số lượng hàng hóa và dịch vụ thêm vào có giá trị rất ít, người lao


×