Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.41 KB, 27 trang )

Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán (TTCK) chính thức của Việt Nam đã được
đưa vào hoạt động từ tháng 7 năm 2000. Việc phát triển TTCK có thể thu
hút một lượng vốn lưu động lớn đáp ứng tình trạng thiếu vốn sản xuất hiện
nay.Có thể nói đây là một thị trường tiềm năng có sức hút lớn nên việc phát
triển TTCK là một bước đi đúng đắn để phát triển kinh tế.Song hiện nay
TTCK nước ta phát triển ra sao và có những phương án giải quyết thế nào?
Thì cùng với sự yêu thích và mong muốn nâng cao những hiểu biết của mình
về TTCK em xin được nghiên cứu đề tài :”Chứng khoán và thị trường chứng
khoán Việt Nam”.
Đề án này đi sâu hơn vào những khái niệm,những phân loại các vấn đề
liên quan đến Chứng khoán(CK) và TTCK;song đồng thời cũng cập nhật
những tình hình mới nhất của CK Việt Nam cùng những giải pháp ,ý kiến
đưa ra từ các chuyên gia.

1


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

NỘI DUNG
PHẦN1: CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm:
Chứng khoán là chứng chỉ thể hiện quyền của chủ sở hữu chứng khoán
đối với người phát hành. Chứng khoán bao gồm: chứng khoán nợ (trái
phiếu), chứng khoán vốn (cổ phiếu) và các chứng chỉ có nguồn gốc chứng
khoán ( chứng quyền, chứng khế, chứng chỉ thụ hưởng …)
2. Các loại chứng khoán:


2.1.Cổ phiếu:
Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài sản
công ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính:
-Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông trong
công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm soát công
ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội đồng quản trị,
tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty.
- Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện bằng số
tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố định so với
mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức trước các cổ
phiếu thường.
2.2.Trái phiếu:
Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả lãi và
hoàn trả gốc cho những người sổ hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn:
Nếu căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành
+ Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán cố
định theo định kỳ.
+ Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu

2


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối bởi
biểu giá, chẳng hạn như goà bán lẻ.
+Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được bán
theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiết nằm dưới
dạnh lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập (nó là phần chênh lệch
giữa goá thị danh nghĩa - mệnh giá trái phiếu và giá mua ).


II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng
khoán theo các nguyên tắc của thị trường (theo quan hệ cung cầu):
1. Phân loại TTCK
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường ,thị trường chứng
khoán có hai loại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
*Thị trường sơ cấp: là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua bán
các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán) và nhà
đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các công ty thực
hiện huy động vốn thông qua việc phát hành và bán chứng khoán của mình
cho nhà đầu tư.
-Vai trò : tạo ra hàng hóa cho thị trường giao dịch và làm tăng vốn đầu
tư cho nền kinh tế.
Nhà đẩu tư trên thị trường sơ cấp bao gồm cá nhân,tổ chức đầu tư. Tuy
nhiên, không phải nhà phát hành nào cũng nắm được các kiến thức và kinh
nghiệm phát hành. Vì vậy, trên thị trường sơ cấp xuất hiện một tổ chức trung
gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, đó là nhà bảo lãnh phát hành chứng
khoán. Nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp cho nhà phát hành thực
hiện việc phân phối chứng khoán mới phát hành và nhận từ nhà phát hành
một khoản hoa hồng bảo lãnh phát hành cho dịch vụ này.
*Thị trường thứ cấp: là thị trường giao dịch. Đây là thị trường mua
bán các loại chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp thực hiện
vai trò giều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển hoá các nguồn

3


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục


vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp, những người có vốn
nhàn rỗi tạm thời xó thể đầu tư vào chứng khoán, khi cần tiền họ có thể bán
lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nghĩa là thị trường thứ cấp là nơi làm
cho các chứng khoán trở nên "lỏng" hơn. Thị trường thứ cấp là nơi xác định
giá của mỗi loại chứng khoán mà công ty phát hành chứng khoán bán ở thị
trường thứ cấp. Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp chỉ mua cho công ty phát
hành với giá mà họ cho rằng thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng
khoán này.
Xét về phương diện tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán có ba
loại:
Thị trường chứng khoán tập trung: là thị trường ở đó việc giao dịch
mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng
khoán(SGDCK).
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường chứng khoán "bậc
cao". Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm giao
dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạnh lưới điện tín, điện
thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường OTC không
trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như trong phòng giao
dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi giới giao dịch hộ
thông qua hệ thống viễn thông.
Các công ty chứng khoán trên thị trường OTC có mặt ở khắp nơi trên
đất nước, mỗi công ty chuyên kinh doanh buôn bán một số loại chứng khoán
nhất định. Các công ty chứng khoán giao dịch mua bán chứng khoán cho
mình và cho khách hàng thông qua việc giao dịch với các nhà tạo thị trường
về các loại chứng khoán đó. Các công ty cũng thực hiện các nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán như: giao dịch mua bán cho chính mình, môi giới mua
bán cho khách hàng, dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành.
Các chứng khoán mua bán trên thị trường OTC cũng phải được niêm yết
công khai cho công chúng biết để có quyết định đầu tư. Các chứng khoán
được niêm yết trên thị trường OTC tương đối dễ dàng, các điều kiện niêm

4


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

yết không quá nghiêm ngặt. Như vậy, hầu như tất cả các chứng khoán không
được niêm yết trên SGDCK đều được giao dịch ở đây. Các chứng khoán
buôn bán trên thị trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn các
chứng khoán được niêm yết trên SGDCK. Song, do thị thị trường nằm rải
rác ở khắp nơi nên độ lớn của thị trường khó có thể xác định chính xác được,
thông thường khối lượng buôn bán chứng khoán trên thị trường này là lớn
hơn SGDCK. Từ điều kiện niêm yết thông thoáng hơn mà chứng khoán của
các công ty được buôn bán trên thị trường này nhiều hơn, thậm chí một số
chứng khoán được niêm yết trên SGDCK cũng được mua bán ở thị trường
này.
Hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán trên thị trường OTC cũng
diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng
khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh ra cho công ty chứng khoán đang quản
lý tài sản của mình, yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình. Thông qua hệ
thống viễn thông, công ty môi giới-giao dịch sẽ liên hệ tới tất cả các nhà tạo
thị trường của loại chứng khoán đó. Sau đó công ty này sẽ thông báo lại cho
khách hàng của mình và nếu khách hàng chấp thuận, thì công ty sẽ thực hiện
lệnh này và giao dịch của khách hàng sẽ được thực hiện.
Thị trường chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ ba.
Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiên tự do.
2. Chức năng của TTCK
2.1. Chức năng huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền
người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc mua
bán cổ phiếu và qua đó để huy động vốn cho nền kinh tế, góp phần phát triển

sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất
nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông
qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền địa phương cũng huy
động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Thị trường chứng
5


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa sang nơi thiếu vốn.
Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế.
2.2. Chức năng thông tin
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời (cho các
nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung - cầu, thị
trường giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường
chứng khoán hữu quan.
2.3. Chức năng cung cấp khả năng thạnh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi
thành tiền khi họ muốn. Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm
cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quả và năng động.
2.4. Chức năng đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá chính xác doanh nghiệp thông
qua chỉ số chứng khoán trên thị trường. Việc này kích các nhà doanh nghiệp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới.
2.5. Chức năng tạo môi trường để chính phủ thực chính sách kinh
tế vĩ mô
Chính phủ có thêu bán trái phiều chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp
thâm hụt ngân sách và quản lý thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu
tư.
3. Những mặt tích cực và hạn chế

3.1. Những mặt tích cực:
3.1.1.Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng mọi nguồn vốn
nhàn rỗi vào công cuộc đầu tư:
Muốn phát triển thì phải đầu tư. Đầu tư, bất cứ một doanh nghiệp nào,
dù là khu vực nhà nước hay khu vực tư nhân cùng đều có hai giải pháp cơ
bản:
-Bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ để đầu tư qua phân bổ lợi nhuận.
Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được ở những doanh nghiệp hiện hữu,
6


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

kinh doanh có hiệu quả, có lãi. Hoặc :
-Huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu bằng hai nguồn vốn: vay tín dụng
trung và dài hạn vủa các tổ chức tài chính, tín dụng và phát hành cổ phiếu,
trái phiếu. Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được khi dân chúng có nguồn
tiết kiệm dồi dào, và ý thức cũng như phong trào tiết kiệm trong dân chúng
tốt.
Có thị trường chứng khoán số vốn nhàn rỗi trong xã hội xẽ được thu
hút vào công cuộc đầu tư. Vốn đầu tư sẽ sinh lời, càng kích thích ý thức tiết
kiệm trong dân chúng.
3.1.2.Giúp nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh
tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện
pháp can thiệp của nhà nước. Bất cứ nhà nước nào cũng phải có ngân sách.
Ngân sách nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển kinh tế xã hội càng
dễ thành công.
Để có vốn cho chi tiêu, nhà nước phải thực hiện chính sách thuế. Thuế
là biện pháp quan trọng nhất để tạo ngân sách nhà nước. Nhưng thông

thường thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có một nguồn thu khác, đó là
trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương.
Một hình thức nhà nước vay tiền của dân.
3.1.3.Thị trường chứng khoán là công cụ giảm áp lực lạm phát
3.1.4.Thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những
nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng xó thể nhận ra rằng vốn đầu tư trong
nước (dù có huy động tối đa nguồn tiết kiệm của dân chúng) cũng chỉ có
giới hạn. Do vậy phải có vốn đầu tư nước ngoài. Trong việc thu hút vốn đầu
tư nước ngoài có nhiều chính sách và biện pháp có thể thực hiện ở nước ta.
3.1.5.Thị trường chứng khoán lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua
đi bán lại trên thị trường chứng khoán như một thứ hàng hoá. Người có vốn
7


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

(có cổ phiếu,trái phiếu…) không sợ vốn của mình bị bất động tức là không
sợ bị "chôn" tại nơi mà mình không thể lấy ra được khi không vừa ý. Vì khi
cần, họ sẽ bán lại các cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán để
mua lại cổ phiếu,trái phiếu khác. Nhờ vậy, sinh hoạt kinh tế thêm sôi động.
3.1.6.Thị trường chứng khoán là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần
hoá
Cổ phần hoá là quy trình chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang công
ty cổ phần. Nó đòi hỏi phải có thị trường chứng khoán. Bởi vì thị trường
chứng khoán và công ty cổ phần như hính với bóng. Chỉ có thông qua thị
trường chứng khoán thì nhà nước mới có thể thực hiện cổ phần hoá đối với
bất cứ loại doanh nghiệp nào, dù doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay
thua lỗ. Vì thị trường chứng khoán là nơi tập trung các nhà đầu tư. Do vậy

có thể nói thị trường chứng khoán là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần
hoá.
3.1.7. Thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện đúng pháp luật
Nhờ thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp mới có thể đem bán,
phát hành các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Với sự tự do lựa chọn của người
mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu không cách nào khác là nhà quản lí các
doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàn và có hiệu quả hơn.
3.2.Những mặt hạn chế:
3.2.1.Yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người
chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu
có thể tăng giá giả tạo.
3.2.2.Mua bán nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm được
những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ phiếu của
đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình ảnh hưởng
đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường.
3.2.3.Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán: Luật về thị
trường chứng khoán cũng hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu
ngoài thị trường chứng khoán. Vì nếu để việc mua bán này được tự do thực
8


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

hiện sẽ gây ra hậu quả khôn lường.
3.2.4.Tin đồn thất thiệt: Việc phao tin đồn không chính xác hay thông
tin lệch lạc về hoạt động của một đơn vị kinh tế sẽ gây hậu quả xấu cho đơn
vị. Đây là điều cấm trong hoạt động của thị trường chứng khoán.
3.2.5.Mua bán liên tục nhằm đầu cơ: Liên tục mua một loại cổ phiếu
nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá cổ
phiếu để đầu cơ.

4. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán
Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán chia thành các nhóm:
nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan.
4.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa
phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
4.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư có thể chia làm hai loại: nhà đầu tưa cá nhân và nhà đầu tư
có tổ chức.
4.2.1.Các nhà đầu tư cá nhân
Nhà đầu tư cá nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường
chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên lợi nhuận luôn
gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy các nhà
đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
4.2.2.Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn
và xó các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để
nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các
tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định
đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính.
Bên cạnh đó các công ty chứng khoán, các nhân hàng thương mại cũng có
9


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ nua chứng khoán cho
mình.

4.3.Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
4.3.1. Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành,
môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
4.3.2.Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán
nhưng chỉ được trong giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những
biến động của giá chứng khoán.
Ngoài ra còn có 1 số các tổ chức khác có liên quan đến thị trường
chứng khoán.

10


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

PHẦN 2-THỰC TIỄN
THỰC TRẠNG TTCK VIỆT NAM

I . THỰC TRẠNG
1.NHÌN CHUNG
-Những năm vừa qua TTCK nước ta phát triển phát triển rất nhanh,đây
là một điều đáng mừng.Và trong thời gian qua thị trường đã nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà đầu tư khiến nó trở thành 1 kênh huy động vốn dài
hạn trong nền kinh tế.
-Bản thân TTCK đang phát huy tác dụng của nó với nền kinh tế nói
chung,nhiều doanh nghiệp được cổ phần hóa,được niêm yêt trên TTCK
- Thị trường đã xây dựng được một hệ thống các tổ chức trung gian,
bao gồm 55 công ty chứng khoán, 18 công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán với tổng số vốn điều lệ là 673,78 tỷ đồng; các tổ chức lưu ký,6 ngân

hàng lưu ký, ngân hàng chỉ định thanh toán đã hình thành, và 18 Công ty
quản lý quỹ đầu tư.Các trung gian tài chính đã phát huy tích cực vai trò môi
giới mua bán chứng khoán trên thị trường tập trung; tham gia bảo lãnh phát
hành và tư vấn cho các công ty trong việc niêm yết và cung cấp thông tin
cho nhà đầu tư; thực hiện tốt việc thanh toán, bù trừ các giao dịch chứng
khoán trên thị trường.
-Thời gian qua giá cả tăng nhanh,có nhiều nhà đầu tư mới tham gia,quý
11


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

IV năm 2007 số lượng nhà đầu tư mở tài khoản tại TTCK tăng 1,5 lần.
2.THỰC TRẠNG GẦN ĐÂY

Biểu đồ chỉ số VN-Index từ 9\6 đến 20\6\2008.

Quan sát biên độ giao động của thị trường chứng khoán Việt Nam 6
tháng đầu năm 2008 cho thấy sự khủng hoảng của thị trường có thể đã thực
sự đến đáy của nó (giá các loại cổ phiếu đa số đã có lần kịch sàn hoặc số
âm). Tuy nhiên, vấn đề đang đặt ra là vì sao những tín hiệu phục hồi của thị
trường chưa thể hiện rõ nét, mặc dù Nhà nước đã có sự can thiệp, tác động
tích cực. Sau đây là các nét chính:
1. Độ “trễ” của thị trường chứng khoán. Chúng ta biết rằng thị trường
chứng khoán là thị trường phái sinh của thị trường tài chính - tiền tệ, là thị
trường thứ cấp của nền kinh tế, nó có tính 2 mặt: tích cực và tiêu cực, nó vừa
là cái hàn thử biểu phản ánh mức độ tăng trưởng của các doanh nghiệp, của
nền kinh tế, nó cũng cực kỳ nhạy cảm và trở thành ngòi nổ của một cuộc suy
thoái hoặc khủng hoảng kinh tế, nhưng nó cũng rất “chậm trễ” khi những
dấu hiệu phục hồi của doanh nghiệp hay nền kinh tế chưa rõ nét, vì yếu tố

12


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

tâm lý của các nhà đầu tư có vai trò cực kỳ quan trọng. Thị trường chứng
khoán nước ta đang trong giai đoạn thách thức kỳ vọng của các nhà đầu tư,
vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, năng lực thực sự của các chủ doanh
nghiệp trên cả hai lĩnh vực: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Biên độ
giao động của thị trường chứng khoán trên cả hai sàn giao dịch Thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội trong tháng 5 và quá nửa đầu tháng 6 vừa qua đã
phản ánh điều đó.
2. Các giải pháp kiềm chế lạm phát của Nhà nước đã phát huy tác dụng
nhưng hiệu quả chưa cao. Lạm phát vẫn giữ mức trên 20%, chỉ số giá tiêu
dùng (CPI) vẫn ở mức cao, tháng 6-2008 là 5,2% cao hơn so với cuối năm
ngoái. Tuy có giảm 1 điểm phần trăm so với tháng 5-2008, nhưng vẫn tăng
gấp đôi so với dự báo của Hội đồng Tư vấn thông tin Bộ Thương mại. Theo
dự báo của các nhà nghiên cứu thì mức lạm phát này còn kéo dài cho đến
quý III/2008 và đến quý IV/2008 sẽ xuống mức khoảng 18-19% và sang đầu
năm 2009 mới có thể xuống mức 9-10%, khi nền kinh tế tăng trưởng GDP
đạt mức 7,8% (năm nay phấn đấu giữ mức tăng GDP 7%, nhưng có thể vẫn
đạt mức 7,3%).
3. Tình trạng thiếu tiền trong lưu thông vẫn kéo dài, khả năng thanh
khoản của nền kinh tế vẫn hạn chế. Chính sách thắt chặt tiền tệ của Nhà
nước là đúng đắn, tuy nhiên các biện pháp cụ thể như phát hành 20.000 tỉ tín
phiếu trong 3 tháng và các biện pháp khác đã tạo sức ép lớn cho hệ thống
ngân hàng. Cuộc chạy đua lãi suất và hai lần thay đổi mức trần lãi suất ngân
hàng, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa Việt Nam đồng với đồng USD...
cũng là những tác nhân càng làm tăng độ “trễ” của thị trường chứng khoán.
Một ví dụ điển hình về giải pháp hút tiền trong lưu thông, tăng thanh khoản

cho thị trường tài chính: Ngày 11-6, các ngân hàng thương mại đồng loạt
tăng lãi suất huy động VNĐ, đỉnh điểm lên đến 19,2%/năm; lãi suất cho vay
cũng có điều kiện để lên tới 21%/năm. Và cùng ngày, chỉ số HASTC-Index
13


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

chính thức cắt cơn 28 phiên giảm điểm liên tiếp, đảo chiều tăng 0,78 điểm;
VN-Index chưa quay đầu nhưng giao dịch đã tạo một bước đại nhảy vọt so
với chuỗi ảm đạm trước đó và màu xanh đã ngập tràn trên bảng điện tử. Mối
quan hệ “bình thông nhau”- sự đảo chiều đó không được bao lâu, thì mấy
phiên của tuần gần đây, các ngày 18 đến 20-6-2008 “mầu đỏ” trên các sàn
giao dịch lại trở về với tính quy luật của nó.
4. Các thị trường: vàng, USD, tín dụng, địa ốc... đã tự phát hình thành
các kênh thu hút vốn của các nhà đầu tư. Trong sự tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới hiện nay, ở nước ta xuất hiện tình trạng các nhà đầu tư
có sự lựa chọn giữa các thị trường chứng khoán, vàng, USD, tín dụng và bất
động sản là lẽ đương nhiên. Mặc dù cả các loại hình thị trường này đều quan
hệ khăng khít và tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính. Theo đánh giá
của các nhà nghiên cứu thì các thị trường này đều chưa có vai trò quyết định
chủ yếu đến sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong năm 2008. Tuy
nhiên, nó đang làm tăng tính biến động và rủi ro ngoài ý muốn của các nhà
đầu tư buộc họ toan tính trên bàn cân chiến lược đầu tư vốn của mình.
5. Sự tác động của cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới khởi nguồn từ
Mỹ hồi đầu năm 2008 vẫn còn lớn. Chúng ta biết rằng, Mỹ là nền kinh tế lớn
nhất hành tinh, chiếm hơn 30% GDP thế giới. Với tiềm lực tài chính mạnh,
Mỹ đã áp dụng hàng loạt biện pháp nhằm kích thích nền kinh tế. Trong 6
tháng đầu năm nay, Cục dự trữ Liên bang (FED) đã 4 lần cắt giảm lãi suất từ
4,25% (đầu năm 2008) xuống còn 2% (tháng 5.2008), đồng thời “bơm” hàng

trăm tỉ USD để “cứu nguy” cho thị trường tài chính. Chính phủ Mỹ cũng đã
thông qua khoản kích thích phát triển kinh tế trọn gói trị giá 168 tỉ USD, chi
290 tỉ trong vòng 10 năm để trợ cấp nông nghiệp, thực hiện chính sách đồng
USD yếu để tăng xuất khẩu, siết chặt quản lý các công ty tài chính, ngân
hàng... Tuy nhiên, các biện pháp “cứu nguy” nền kinh tế của Mỹ vẫn chưa
phát huy tác dụng, nền kinh tế nước Mỹ vẫn chưa phục hồi và vẫn còn nằm
14


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

trong chu kỳ khủng hoảng. Theo dự báo, GDP 6 tháng đầu năm của Mỹ chỉ
đạt khoảng 0,6%, thất nghiệp 6,2%, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng Mỹ
giảm xuống còn 57,2% (tháng 5-2008). FED dự báo, mức thâm hụt ngân
sách của Mỹ năm 2008 sẽ tăng đột biến, lên khoảng 410 tỉ USD (năm 2007
là 163 tỉ USD), tỷ lệ thất nghiệp khoảng 5,2%-5,3%. Cựu Chủ tịch Ngân
hàng Dự trữ Liên bang Mỹ, ông A.Gri-xpan cho rằng, “nguy cơ kinh tế Mỹ
rơi vào suy thoái là lớn” và “còn quá sớm để cho rằng cuộc khủng hoảng tài
chính ở Mỹ đã chấm dứt”.
Theo dự báo của các nhà nghiên cứu thì kinh tế thế giới chỉ có thể phục
hồi vào đầu năm 2009 sau khi biên độ khủng khoảng chu kỳ của nền kinh tế
Mỹ đã chạm đáy. Theo đó, thị trường chứng khoán cũng như nền kinh tế
nước ta cũng chỉ có thể phục hồi vào quý IV/2008 và tiếp tục tăng trưởng
vào đầu năm 2009.
II.ĐÁNH GIÁ VỀ TTCK VIỆT NAM HIỆN NAY,ĐƯỢC VÀ CHƯA
ĐƯỢC
1.Mặt được
-Về tổ chức và phát triển thị trường:TTCK phát triển nhanh về quy
mô,tổng mức vốn hiện nay đã đạt mức 38% GDP,khoảng 22 tỉ
USD,nếu kể cả trái phiếu đạt mức 46% GDP,doanh nghiệp và chính

phủ đã sử dụng TTCK như 1 kênh huy độngvốn đầu tư dài hạn cho nền
kinh tế;tổng mức vốn huy động qua cổ phiếu,trái phiếu,chứng chỉ
quỹ,đấu giá cổ phần hóa trên 2 TTGDCK là khoảng 36.8 tỉ đồng năm
2007 tăng 3,93 lần so với năm 2006.
-Hệ thống tổ chức trung gian đã hình thành và phát triển cho đến nay dã
có 55 công ti chứng khoán,18 công ti quản lý quỹ,6 ngân hàng hoạt
động lưu ký chứng khoán.
-Tính công khai minh bạch của các tổ chức niêm yêt được tăng
cường,hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức niêm yết có bước
15


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

phát triển khá cả về quy mô và doanh số lợi nhuận.
-Khung pháp lý(luật,nghị định,quy chế),chính sách cho hoạt độngvà
phát triển TTCK(chính sách thuế,phí,đầu tư nước ngoài) từng bước
được hoàn thiện.
2.Hạn chế
-Tuy quy mô thị trường đã tăng cao,song quan hệ cung và cầu chứng
khoán cũng nhiều lúc mất cân đối gây nên những biến động thị
trường,nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn.
-Mặc dù mức vốn hóa thị trường tăng nhanhvào những tháng cuối năm
nhưng nhìn chung quy mô TTCK Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các
nước.Mức tăng vốn hóa thị trường trong thời gian qua ngoài yếu tố do
đưa 1 lượng cổ phiếu mới niêm yêt còn có yếu tố tăng giá.Chỉ số VNIndex chưa thực sự trở thành phong vũ biểu của nền kinh tế.
-Hoạt động thị trường tự do còn rộng.
-Hệ thống cơ sở hạ tầng,đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của
các trung tâm GDCK,công ti chứng khoán cho thấy có bất cập trước sự
phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có sự đầu tư,nâng

cấp hệ thống theo hướng trước mắt và lâu dài.
-Khả năng giám sát,cưỡng chế thực thi còn hạn chế 1 phần do công
nghệ tin học,một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn
mỏng.Sự phối hợp giữa tài chính chứng khoán,ngân hàng trong chính
sách điều chỉnh quản lý thị trường còn hạn chế.
-Song các công ty chứng khoán mới chỉ có mặt ở các tỉnh thành phố
lớn, chủ yếu là triển khai nghiệp vụ môi giới; các hoạt động nghiệp vụ
khác như bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư còn hạn chế. Do quy mô
nhỏ nên các công ty chưa thể sử dụng nghiệp vụ như một công cụ tăng
tính thanh khoản cho giao dịch cổ phiếu niêm yết. Công tác công khai
hóa thông tin thị trường nói chung và công ty niêm yết nói riêng còn
chưa đáp ứng được mong đợi của nhà đầu tư ảnh hưởng đến lòng tin
của công chúng. Phạm vi và nội dung tuyên truyền, phổ cập kiến thức
16


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

về chứng khoán và TTCK còn hạn chế, chưa thực sự phù hợp với các
đối tượng đào tạo tuyên truyền rất đa dạng hiện nay.

PHẦN 3 GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN TTCK TẠI VIỆT
NAM HIỆN NAY
1.GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN TTCK VIỆT NAM
A. Cổ phần hoá doanh nghiệp
1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư
tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn
nhất, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hoá ở bất cứ một doanh nghiệp
nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho cán bộ công nhân viên trong doanh

nghiệp cũng như những người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan
trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi cổ phần hoá được tiến hành.
Bởi vì chủ trương cổ phần hoá ở nước ta hiện nay là ưu tiên cho cán bộ
công nhân viên trong doanh nghiệp cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ
biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt:
-Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phải ý thức rõ ràng cổ
phần hoá là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải
thực hiện. Và thực hiện càng sớm thì càng có lợi do nhà nước vẫn còn dành
nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá.
- Họ cũng cần biết rằng, cổ phần hoá trước hết là vì lợi ích của các
doanh nghiệp, của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Sau khi trở
thành công ty cổ phần, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất
kinh doanh, song tất nhiên họ cũng phải biết tự chống đỡ với những cạnh
tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không tránh khỏi nhưng
cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp có thực lực khẳng định mình; còn
những doanh nghiệp yếu thì đã đến lúc phải cải tổ lại, thay đổi chính mình.
-Không chỉ làm rõ những lợi ích mà người lao động được hưởng khi đã
17


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

cổ phần hoá mà còn phải làm cho họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ
phải gánh vác, những rủi ro có thể xảy ra, làm cơ sở cho nỗ lực quyết tâm
của họ.
-Phân định rạch ròi giữa quyền của một cổ đông với quyền của một
người lao động trong doanh nghiệp.
- Trước khi cổ phần hoá,việc các doanh nghiệp phải thực hiện là cung
cấp cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp những văn bản, có nội
dung liên quan trực tiếp đến chủ trương cổ phần hoá. Tổ chức những buổi

nói chuyện với cán bộ công nhân viên để giải đáp những thắc mắc của họ.
- Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài doanh nghiệp thì không có
biện pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại
chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và truyền
hình.
-Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ
trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như vậy
vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được bảo đảm, trên cơ sở đó
tiến hành đẩy nhanh các công đoạn qui trình cổ phần hoá.
2.Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính và
quản lý
Theo tin từ ban cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thì nhà nước có
chủ trương phân loại doanh nghiệp nhà nước thành 4 nhóm:
-Nhóm doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
-Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính.
-Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên
cao.
-Nhóm doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện cổ phần hoá, còn nhóm thua lỗ kéo dài, nhà
nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi cổ phần hoá,
đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoài
doanh nghiệp, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
18


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Đối với các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính thì việc
thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ
và vai trò của quỹ cổ phần hoá không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các

doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ về tài chính cho
các doanh nghiệp vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này.
Giá thành sản xuất cao có thể do nhiều nguyên nhân song suy cho cùng
nguyên nhân vẫn nằm ở khâu quản lý. Người quản lý tốt có đủ năng lực,
trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do
nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó cần
tìm cách chuyển hướng sản xuất kinh doanh hoặc tuyên bố phá sản. Với
những doanh nghiệp không đủ khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4.
Những doanh nghiệp có khả năng khắc phục nhưng do quản lý tồi, người
quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm chất thì cách giải quýêt
duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong ban quản lý doanh nghiệp.
Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là vịêc dễ dàng, song nên đưa
ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được phương án
sản xuất kinh doanh có hiệu quả và khả thi trên sơ sở của máy móc, công
nghệ, lao động của doanh nghiệp hiện tại. Một số tiêu chí nữa kể đến là uy
tín của người đó đối với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, khả
năng tổ chức nhân sự.
3.Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong doanh nghiệp sau khi tiến
hành cổ phần hoá
Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển chọn
lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả sản xuất kinh
doanh trong nhiều doanh nghiệp nhà nước. theo ước tính, tổng số lao động
đang làm tại 5790 doanh nghiệp nhà nước vào khoảng 1.8 triệu người. Song
chất lượng lao động rất thấp: tỉ lệ lao động được đào tạo nghè chỉ chíêm 1012% số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản
ánh phần nào những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đế lao động dôi dư
sau khi tiến hành cải cách doanh nghiệp cũng như cổ phần hoá.
19


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục


Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết
vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là doanh nghiệp và
nhà nước cụ thế hơn là chính phủ và các cấp bộ, nghành có liên quan.Sau
đây là 1 số giải pháp hiêụ quả:
- Đối với doanh nghiệp:phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao
động dôi dư trên cơ sở đề án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với nội
dung chính là:
+Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các
hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu có
thể trợ cấp để đảm bảo chế độ hưu trí cho họ. Đối với lao động còn lại có
nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ
chuyển sang nghành nghề mới.
+Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại doanh
nghiệp có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, trợ cấp
mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo
của đơn vị (nếu có).
-Đối với nhà nước : nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián
tiếp.
+Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: hỗ trợ một phần kinh
phí cho doanh nghiệp. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy từ quỹ cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào
tạo lại nghề nghiệp cho người lao động: Hỗ trợ bổ sung cho người lao động
nghèo tại doanh nghiệp để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị
mất việc (khoảng từ 6 tháng đến 1 năm).
+Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về chơ chế và chính sách lập nghiệp đối với
lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về
thuế sản xuất kinh doanh.
Đây là giải pháp có tác dụng kích thích sưc sáng tạo tự chủ của người
lao động. Đã đến lúc người lao động phải chủ động, sáng tạo vươn lên đối

mặt với những khó khăn, thách thức để có những bước phát triển vững vàng.
20


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

Tư tưởng cầu an, ỷ lại vào nhà nước cần phải được khắc phục. Có như vậy
nền kinh tế đất nước mới phát triển.
B.

Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Chính phủ

Cải cách quy trình đầu thầu trái phiếu
Từ nhiều năm nay, Sở Giao dịch, Ngân hàng nhà nước Việt Nam làm
đại lý cho Bộ Tài chính trong việc đấu thầu trái phiếu kho bạc loại kỳ hạn
dưới một năm. Khách hàng thương mại và công ty bảo hiểm, ai trong số các
khách hàng bỏ thầu với lãi suất thấp nhất, số lượng trái phiếu mua cao nhất
thì sẽ trúng thầu. Tuy nhiên, quá trình đấu thầu lại có những điểm không hợp
lý. Bộ Tài chính là cơ quan phát hành đáng lẽ phải công bố lãi suất trái phiếu
trước, sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất. Nhưng
đấu thầu đã làm ngươc lại: các khách hàng tuyên bố lãi suất trái phiếu phát
hành. Lãi suất của khách hàng nào sát cận với lãi suất của Bộ Tài chính thì
sẽ trúng thầu.
Với phương thức đấu thầu như trên, Nhà nước khó huy động được
nguồn vốn với lãi suất thị trường phù hợp. Không ít thời điểm lãi suất tiền
gửi và lãi suất cho vay của ngân hàng đã được han thấp, nhưng lãi suất trái
phiếu kho bạc vẫn cao. Chưa kể trong trường hợp ngân sách nhà nước cần
tiền gấp để đầu tư cho một công trình, dự án nào đó, phải phát hành trái
phiếu, nhưng khách hàng "cấu kết" với nhau, bỏ thầu lãi cao, thì các phiên
đấu thầu sẽ thất bại. Và trên thực tế đã có những lần đấu thầu mà không có

một trái phiếu nào được phát hành .
Tóm lại, ta phải cải cách lại hình thức đấu thầu : Bộ Tài chính là cơ
quan phát hành phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng
và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất và số lượng.
C. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu doanh nghiệp
Giải pháp để đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu của doanh nghiệp
là nhà nước phải có văn bản luật cụ thể về vấn đề phát hành trái phiếu doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp có đủ điều kiện phát hành trái phiếu đều được
phát hành thông qua một cơ quan phát hành trái phiếu như các công ty
21


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

chứng khoán. Vấn đề phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ trở nên vô cùng
đơn giản khi phát hành thông qua các công ty chứng khoán, mà hiện nay và
sắp tới , số lượng các công ty chứng khoán sẽ tăng lên đáng kể .
D. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Qua thực tiễn ở các nước cho thấy cơ quan quản lý độc lập. Đối với
Việt Nam về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước độc lập là một
bước đi đúng đắn và để hỗ trợ cho sự hoạt động của Uỷ ban chứng khoán,
nhà nước cần có sự tài trợ về ngân sách, đồng thời giải quyết thoả đáng chế
độ lương bổng cho cán bộ uỷ ban trong thời gian đầu.
E. Hệ thống pháp lý
Trong thời gian qua, những đạo luật có bản cho hoạt động của thị
trường chứng khoán đã được ban hành nhưng vẫn còn nhiều xung đột mâu
thuẫn giữa các văn bản. Do vậy, các nhà làm luật phải tìm ra một khung
pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán đảm bảo tính linh hoạt
tối đa và những bước phát triển đồng bộ.
F. Về sự tham gia của nước ngoài

Chúng ta cần có sự mở cửa thị trường một cách thích hợp nhằm thu hút
vốn và công nghệ nước ngoài, cho phép nước ngoài sở hữu một tỷ lệ phần
trăm nhất định và các công ty chứng khoán nước ngoài được liên doanh với
các công ty chứng khoán Việt Nam.
G. Các tổ chức trung gian
Việt Nam nên cho phép các công ty chứng khoán Việt Nam phát triển
các hình thức hoạt động kinh doanh : bảo lãnh, môi giới , tự doanh, tư vấn
đầu chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Riêng hình thức quản lý danh
mục đầu tư phải hoạt động tách rời dưới hình thức công ty con nhằm bảo vệ
lợi ích của quỹ.
2.GIẢI PHÁP CHO TÌNH HÌNH TTCK VIỆT NAM HIỆN NAY
Để có thể ngăn chặn sự suy giảm hơn nữa và tạo những tiền đề cho sự
phục hồi, phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam, chúng ta có thể
và cần phải quan tâm đến các giải pháp chủ yếu sau:
22


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

- Phấn đấu bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 7% (như Nghị quyết của
Quốc hội) bằng cách đẩy mạnh đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, các ngành
hàng xuất khẩu mà Việt Nam đang có thế mạnh nhất là lương thực, thực
phẩm và hàng tiêu dùng: dệt, da, may mặc, đặc biệt coi trọng gạo là mặt
hàng chiến lược có tính nhạy cảm cao trên thương trường quốc tế có thể so
sánh với mặt hàng xăng dầu của OPEC; tích cực giải ngân thu hút vốn đầu
tư nước ngoài (FDI), không để tái diễn tình trạng “bội thực” vốn đầu tư nước
ngoài như năm 2007, vì năm nay mới chỉ đến tháng 6 đã có 31,6 tỉ USD vốn
đầu tư nước ngoài được đăng ký (cả năm 2007 có 21,3 tỉ USD); tiếp tục điều
hành tỉ giá đồng nội tệ với đồng USD sát với giá trị thực trên thị trường
trong nước, khu vực và quốc tế. Khắc phục nguy cơ USD hoá nền kinh tế

bằng cách tăng uy tín của đồng nội tệ (lãi suất bảo đảm bằng vàng như một
số ngân hàng đã thực hiện), tạo thói quen của thị trường tài chính trong quan
hệ với các đồng tiền mạnh khác trên thế giới như: đồng ơ-rô của EU, đồng
Yên của Nhật Bản... tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường tiền tệ tại
Việt Nam. Thúc đẩy các nước ASEAN đẩy nhanh quá trình hình thành đồng
tiền chung ASEAN tạo ra tính độc lập tương đối của thị trường khu vực hạn
chế sự phụ thuộc vào đồng USD như hiện nay.
-Kiên trì các chủ trương, chính sách ổn định lâu dài khuyến khích thị
trường chứng khoán phát triển. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với
thị trường chứng khoán. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính
sách, luật pháp tạo sân chơi bình đẳng đối với tất cả các nhà đầu tư chứng
khoán trong và ngoài nước; khắc phục tình trạng mất cân đối cung cầu trên
thị trường chứng khoán bằng các dự báo có cơ sở thực tế trên các góc độ
thông tin thị trường trong nước, trong quan hệ với thị trường chứng khoán
quốc tế, nhất là các thị trường chứng khoán có tính nhạy cảm cao như Mỹ,
thị trường dầu mỏ ở Trung Đông và thị trường vàng, đá quý Nam Phi...
Chính phủ cần sớm nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Tư vấn,
23


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

bên cạnh Ủy ban Chứng khoán nhà nước (vừa qua có những thông tin dự
báo của Hội đồng Tư vấn sai số tới 50% so với thực tế). Đây là lĩnh vực mới
mẻ đối với cả chủ thể và khách thể tham gia thị trường chứng khoán và càng
mới đối với các cơ quan làm chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực này,
nên cần đầu tư thoả đáng để thu hút các chuyên gia có kinh nghiệm cả trong
và ngoài nước nhằm tăng hiệu quả tư vấn cho công tác quản lý nhà nước đối
với thị trường chứng khoán.
-Cần sử dụng các biện pháp tổng hợp, bao gồm cả các biện pháp kinh tế

và phi kinh tế nhằm bảo đảm an ninh tài chính trên thị trường chứng khoán,
chống lạm phát, đẩy mạnh đầu tư nước ngoài, tăng cường thực hiện chức
năng giám đốc bằng đồng tiền của các cơ quan tài chính, ngân hàng đối với
các hoạt động của các công ty chứng khoán, các nhà đầu tư, sàn giao dịch và
các hoạt động khác của thị trường chứng khoán, thị trường vàng, đá quý,
USD, tín dụng và thị trường bất động sản...
Có như vậy mới tạo được những tiền đề để sớm ổn định thị trường
chứng khoán, hạn chế được sự tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới và đưa thị trường chứng khoán nước ta tiếp tục phát triển ổn định,
góp phần giữ vững an ninh tài chính, an ninh kinh tế và an ninh quốc gia của
đất nước.

24


Ket-noi.com diễn đàn công nghệ, giáo dục

KẾT LUẬN
Trên đây là những kiến thức sơ lược về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, TTCK (ưu, nhược điểm…),tình hình chứng khoán Việt hiện
nay cùng những giải pháp cơ bản nhất nhằm thúc đẩy TTCK Việt Nam .
Việc phát triển và ngày càng hoàn thiện TTCK ở Việt Nam là hết sức cần
thiết để thực hiện các mục tiêu đề ra cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nước.

25


×