Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Cơ sở lý luận về công tác quản lý và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.32 KB, 52 trang )

MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Giáo dục đào tạo không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để phát triển kinh
tế. Phát triển kinh tế để có một cuộc sống đầy đủ, hạnh phúc và công bằng xã hội.
Nguồn gốc của sự phát triển và thịnh vượng không chỉ là tài nguyên thiên nhiên,
vốn mà quan trọng nhất là khả năng sáng tạo của con người. Nhờ có giáo dục mà
mỗi con người có năng lực trí tuệ, có hiểu biết và có khả năng nghề nghiệp. Hầu hết
các nước trên thế giới đều đặt giáo dục ở vị trí hàng đầu trong các ưu tiên phát triển
kinh tế xã hội đất nước. Ở nước ta, điều 35 Hiến pháp cũng xác định , “Giáo dục
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”.
Sự phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá đặt ra những yêu
cầu mới đối với người lao động, do đó cũng đặt ra những yêu cầu mới cho sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ và đào tạo nguồn nhân lực. Giáo dục cần đào tạo đội ngũ
nhân lực có khả năng đáp ứng được những đòi hỏi mới của xã hội và thị trường lao
động, đặc biệt là năng lực hành động, tính năng động, sáng tạo, tính tự lực và trách
nhiệm cũng như năng lực cộng tác làm việc, năng lực giải quyết các vấn đề phức
hợp. Giáo dục được thực hiện trong những hoàn cảnh kinh tế - xã hội cụ thể và phục
vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Vì thế những yêu cầu của nền kinh tế xã hội đối với giáo dục, đối với đội ngũ lao động là những cơ sở quan trọng cho
việc xác định phương hướng phát triển giáo dục. Sự phát triển kinh tế - xã hội đặt ra
những yêu cầu đối với giáo dục trên nhiều phương diện. Bối cảnh phát triển kinh tế
xã hội của đất nước và quốc tế đặt ra những yêu cầu mới cho giáo dục. Việt Nam
đang ở trong giai đoạn công nghiệp hoá nền kinh tế và xã hội. Mặt khác Việt Nam
đã gia nhập WTO ngày 15.11.2006 (trở thành thành viên chính thức ngày
11.01.2007), tức là đã trực tiếp tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hoá, hội
nhập quốc tế. Điều đó có ý nghĩa là vấn đề toàn cầu hoá và những yêu cầu của nền
kinh tế tri thức và xã hội tri thức cũng trực tiếp tác động đến kinh tế, xã hội cũng
như thị trường lao động của Việt Nam.
Trước những thời cơ và thách thức đó, Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội
cần có những nhìn nhận xác thực về công tác quản lý và đào tạo. Trên cơ sở đó để

1




nhận biết được những điểm mạnh, điểm yếu. Từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp
để phát triển nhà trường.
Mục tiêu nghiên cứu
Tiểu luận nhằm mục đích làm rõ vai trò của quản lý giáo dục và đào tạo đối
với các trường Đại học nói chung và với trường Đại học Công nghiệp Hà Nội nói
riêng. Qua việc nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng về công tác quản lý
giáo dục đào tạo, tôi muốn đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng quản lý và đào tạo tại trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu
Các dữ liệu sử dụng trong tiểu luận này bao gồm các báo cáo tổng kết hoạt
động của Trường, các bài viết từ báo chí, internet và các ấn phẩm. Phương pháp
nghiên cứu trong tiểu luận là phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích kết hợp với
những kinh nghiệm từ các Trường Đại học, Cao đẳng đồng thời vận dụng lý luận để
làm rõ vấn đề nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào đề tài và mục tiêu nghiên cứu, tôi chỉ tập trung nghiên cứu vào
các vấn đề về quản lý, quản lý giáo dục, đào tạo nghề.
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận trong khuôn khổ những hoạt động quản lý
và đào tạo tại trường Đại học Công nghiệp Hà nội.
Bố cục tiểu luận
Với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, nội dung của đề tài này
bao gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác quản lý và đào tạo tại Trường Đại học
Chương 2: Thực trạng về công tác quản lý và đào tạo tại Trường Đại học
Công nghiệp Hà Nội
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý và đào
tạo của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội


2


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ ĐÀO
TẠO TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Khái niệm về quản lý
1.1.1. Khái niệm
Quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể (người
quản lý, tổ chức quản lý) lên khách thể (đối tượng quản lý) về các mặt chính trị, văn
hóa, xã hội, kinh tế… bằng một hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc,
các phương pháp và các biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho
sự phát triển của đối tượng. Đối tượng quản lý có thể trên qui mô toàn cầu, khu vực,
quốc gia, ngành, đơn vị, có thể là một con người, sự vật cụ thể.
Quản lý thể hiện việc tổ chức, điều hành tập hợp người, công cụ, phương tiện
tài chính,… để kết hợp các yếu tố đó với nhau nhằm đạt mục tiêu định trước.
Chủ thể muốn kết hợp được các hoạt động của đối tượng theo một định
hướng quản lý đặt ra phải tạo ra được “quyền uy” buộc đối tượng phải tuân thủ.
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội
và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục đích đã đề ra. Sự tác động
của quản lý, phải bằng cách nào đó để người chịu quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn
khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, cho tổ chức và
cho cả xã hội.
Quản lý là một môn khoa học sử dụng trí thức của nhiều môn khoa học tự
nhiên và xã hội nhân văn khác như: toán học, thống kê, kinh tế, tâm lí và xã hội
học… Nó còn là một “nghệ thuật” đòi hỏi sự khôn khéo và tinh tế để đạt tới mục
đích.
1.1.2. Các chức năng quản lý
1.1.2.1. Lập kế hoạch: Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là cái
khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình xác lập mục tiêu,
thời gian, biện pháp, dự báo trước kế hoạch và quyết định phương thức để thực hiện

mục tiêu đó. Nói cách khác lập kế hoạch là xác định trước xem phải làm gì, làm như
thế nào, khi nào làm và ai làm. Căn cứ thực trạng ban đầu của tổ chức và căn cứ vào
mục tiêu cần phải hướng tới để cụ thể hoá bằng những nhiệm vụ cử tổ chức trong

3


từng thời kỳ, từng giai đoạn. Từ đó tìm ra con đường, biện pháp đưa đơn vị đạt
được mục tiêu.
1.1.2.2. Tổ chức: Là quá trình thiết lập cấu trúc quan hệ giữa các thành viên, các bộ

phận. Từ đó, chủ thể quản lý tác động đến đốí tượng quản lý một cách có hiệu quả
bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, vật lực và tài lực. Quá
trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức phải đảm bảo các yêu cầu: Tính tối ưu,
tính linh hoạt, độ tin cậy và tính kinh tế. Trong quá trình xây dựng cơ cấu tổ chức
quản lý cần tính đến các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đó là những điều
kiện, hoàn cảnh, tình huống cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tổ chức
thực hiện.
1.1.2.3. Chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều hành tổ

chức- nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra. Lãnh đạo
bao hàm cả liên kết, liên hệ, uốn nắn hoạt động của người, động viên, khuyến khích
họ hoàn thành nhiệm vụ. Trong chức năng chỉ đạo, chủ thể quản lý phải trực tiếp ra
quyết định ( mệnh lệnh) cho nhân viên dưới quyền và hướng dẫn, quan sát, phối
hợp, động viên ... để thuyết phục, thúc đẩy họ hoạt động đạt được các mục tiêu đó
bằng nhiều biện pháp khác nhau.
1.1.2.4. Kiểm tra: Là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý

thông qua một cá nhân, nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, đánh giá, giám sát
thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai sót lệch lạc nhằm thúc

đẩy hệ thống sớm đạt được mục tiêu đã định. Để tiến hành kiểm tra, cần phải có các
tiêu chuẩn, nội dung và phương pháp kiểm tra, dựa trên các nguyên tắc khoa học để
hình thành hệ thống kiểm tra thích hợp
Ngoài 4 chức năng quản lý trên, nguồn thông tin là yếu tố cực kỳ quan trọng
trong quản lý. Vì thông tin là nền tảng, là huyết mạch của quản lý, không có thông
tin thì không có quản lý hoặc quản lý mắc sai phạm, nhờ có thông tin mà sự trao đổi
qua lại giữa các chức năng được cập nhật thường xuyên, từ đó có biện pháp xử lý
kịp thời và hiệu quả

4


1.2. Quản lý giáo dục
1.2.1. Khái niệm quản lý giáo dục
Về nội dung khái niệm quản lý có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
Quản lý giáo dục. Tuy vậy, xét trên bình diện chung, chúng ta có thể tiếp cận một
số khái niệm Quản lý giáo dục như sau:
Tác giả Hồ Văn Liên cho rằng Quản lý giáo dục là sự tác động có ý thức của
chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống
giáo dục đạt kết quả mong muốn một cách có hiệu quả nhất.
Tùy theo việc xác định đối tượng quản lý mà Quản lý giáo dục được hiểu
dưới nhiều góc độ khác nhau:
Tác giả Trần Kiểm quan niệm Quản lý giáo dục được phân chia thành 2 cấp:
vĩ mô và vi mô.
Đối với cấp vĩ mô: “Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác
(có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý
đến tất cả mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà
trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào
tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục. “
Đối với cấp vi mô:” Quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động

tự giác( có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể
quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và
các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và
hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường.”
Quan niệm của tác giả Đặng Quốc Bảo:” Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công
tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát
triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà
cho mọi người; Tuy nhiên vẫn là giáo dục thế hệ trẻ cho nên quản lý giáo dục đựơc
hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo
dục quốc dân.

5


Như vậy Quản lý giáo dục là quản lý một quá trình kinh tế xã hội nhằm thực
hiện đồng bộ, hài hòa sự phân hóa xã hội để tái sản xuất sức lao động có kỹ thuật
phục vụ các yêu cầu phát triển KT-XH
1.2.2. Đặc trưng của quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một quá trình. Quá trình Quản lý giáo dục là hoạt động
của các chủ thể và đối tượng quản lý thống nhất với nhau trong một cơ cấu nhất
định nhằm đạt mục đích đề ra của quản lý bằng cách thực hiện các chức năng nhất
định và vận dụng các biện pháp, nguyên tắc, công cụ quản lý thích hợp.
Quản lý giáo dục nằm trong phạm trù quản lý xã hội nói chung. Tuy nhiên
Quản lý giáo dục có những đặc trưng riêng:
- Quản lý giáo dục là loại quản lý nhà nước. Các hành động quản lý trong
giáo dục dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước mà đại diện là các cơ quan Quản lý
giáo dục và đào tạo các cấp từ Bộ GD&ĐT đến các cơ sở đào tạo. Mọi hoạt động
của chủ thể quản lý và đối tượng chịu sự quản lý đều thông qua hệ thống các quy
phạm pháp luật như luật Giáo dục, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị định của Chính

phủ…
- Quản lý giáo dục là quản lý con người. Quản lý con người trong ngành giáo
dục có ý nghĩa là đào tạo con người, dạy cho họ thực hiện vai trò xã hội, những
chức năng, nghĩa vụ trách nhiệm của mình, phát triển nghề nghiệp để họ làm tròn
trách nhiệm xã hội của mình.
- Quản lý giáo dục thuộc phạm trù phương pháp chứ không phải mục đích.
Nếu chúng ta xem Quản lý giáo dục là phương pháp thì sẽ luôn luôn tìm cách đổi
mới công tác quản lý của mình sao cho đạt được mục đích đề ra mà không bị rơi
vào tình trạng độc đoán, chuyên quyền áp đặt đối với người chịu sự quản lý để đạt ý
đồ cá nhân.
- Quản lý giáo dục cũng có 2 thuộc tính chủ yếu là: tổ chức kỹ thuật và kinh
tế xã hội. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống khi đã xuất hiện quản lý thì thuộc tính
đầu tiên là tổ chức – kỹ thuật. Thuộc tính này thể hiện phải có một tổ chức để thực
hiện công tác quản lý và yêu cầu thường xuyên cải tiến đổi mới công việc nhằm

6


nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động trong một tổ chức. Quản lý giáo dục có
hiệu quả sẽ đem lại lợi ích cho xã hội đó là tính kinh tế xã hội.
- Quản lý giáo dục được xem là hệ tự quản lý nó bao hàm bởi các đặc điểm
tự điều chỉnh, tự hoàn thiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
- Quản lý giáo dục vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Quản lý giáo dục đã
trở thành một ngành khoa học, có cơ sở lý luận riêng của nó. Người cán bộ quản lý
cần có trình độ khoa học về quản lý, am hiếu các khoa học về lĩnh vực xã hội, con
người, giáo dục, triết học, luật học … và phải có nghệ thuật quản lý được tích lũy từ
những kinh nghiệm quản lý và sáng tạo của chủ thể quản lý
1.2.3. Nội dung của quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là một quá trình với các thành tố: Mục tiêu đào tạo; Nội
dung đào tạo’ phương pháp đào tạo; Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo; Lực lượng đào

tạo (thầy); Đối tượng đào tạo (trò); Kết quả đào tạo. Các thành tố của quá trình giáo
dục đào tạo là một thể thống nhất chúng có tác động tương hỗ lẫn nhau.
Nội dung Quản lý giáo dục gắn liền với từng thành tố trong quá trình giáo
dục. Đó là xác định cho được mục tiêu đào tạo. Mục tiêu đào tạo phải gắn liền với
mục tiêu phát triển con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu
này phải được thực hiện xuyên suốt cả quá trình đào tạo. Trên cơ sở mục tiêu để
xây dựng nội dung và chọn lựa phương pháp, phương tiện đào tạo. Việc quản lý nội
dung, phương pháp, phương tiện phải theo hướng đổi mới, hiện đại nhằm thích ứng
với các điều kiện tác động của bên ngoài như: tác động của khoa học công nghệ,
yêu cầu của công nghiệp hóa - hiện đại hóa, yêu cầu đổi mới, tác động của môi
trường phát triển kinh tế xã hội, Quản lý giáo dục đào tạo gắn liền với 2 thành tố
chủ đạo trong quá trình đào tạo. Làm sao phát huy vai trò chủ đạo của thầy và tính
chủ động của người học. Cuối cùng là cần tổ chức đánh giá được kết quả đào tạo so
với mục tiêu đề ra.

7


1.3. Những vấn đề cơ bản về quản lý hoạt động đào tạo
1.3.1. Khái niệm nghề
Khái niệm nghề theo quan niệm ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất
định. Cho đến nay thuật ngữ “nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác
nhau. Dưới đây là một số khái niệm về nghề.
+ Khái niệm nghề ở Nga được định nghĩa: " Là một loại hoạt động lao động đòi hỏi
có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn"
+ Khái niệm nghề ở Pháp: " Là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo
của một người để từ đó tìm được phương tiện sống".
+ Khái niệm nghề ở Anh được định nghĩa: "Là công việc chuyên môn đòi hỏi một
sự đào tạo trong khoa học học nghệ thuật".
+ Khái niệm nghề ở Đức được định nghĩa:" Là hoạt động cần thiết cho xã hội ở một

lĩnh vực lao động nhất định đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ nào đó".
Như vậy nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử rất phổ biến gắn chặt
với sự phân công lao động, với tiến bộ khoa học kỹ thuật, và văn minh nhân loại.
Bởi vậy được nhiều ngành khoa học khác nhau nghiên cứu từ nhiều góc độ khác
nhau
+ Ở Việt nam, nhiều định nghĩa nghề được đưa ra song chưa được thống nhất,
chẳng hạn có định nghĩa được nêu: "Nghề là một tập hợp lao động do sự phân công
lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính tương
đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất và nhu cầu xã
hội.
Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau song chúng
ta có thể nhận thấy một số nét đặc trưng nhất định sau:
- Đó là hoạt động, là công việc về lao động của con người được lặp đi lặp lại.
- Là sự phân công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu xã hội.
- Là phương tiện để sinh sống.
- Là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã hội đòi
hỏi phải có một quá trình đào tạo nhất định.

8


Hiện nay xu thế phát triển của nghề chịu tác động mạnh mẽ của tác động
KHKT và văn minh nhân loại nói chung và về chiến lược phát triển KT-XH của
mỗi quốc gia nói riêng. Bởi vậy phạm trù "Nghề" biến đổi mạnh mẽ và gắn chặt với
xu hướng phát triển KT-XH của đất nước.
1.3.2. Một số quan niệm cơ bản về nghề và đào tạo nghề
- Đào tạo: “Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt
các kiến thức, kỹ năng và kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để
thực hiện thành công một hoạt động nghề nghiệp hoặc xã hội cần thiết.
Như vậy, đào tạo là sự phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho

mỗi cá nhân để họ thực hiện một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt nhất.
Đào tạo được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành
vi và thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng được tiêu chuẩn
và hiệu quả của công việc chuyên môn.
- Nghề: Là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng
hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định như nghề
mộc, nghề cơ khí vv…
- Đào tạo nghề: “Đào tạo nghề là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay
nghề hay kỹ năng, kỹ xảo của mổi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương
lai”. Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau. Đó là:
+ Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực
hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục
nhất định về nghề nghiệp.
+ Học nghề: “Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành của
người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định”.
Đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao
động để họ nắm vững nghề nghiệp, chuyên môn bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo
nghề bổ sung, đào tạo lại nghề.
Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những người
đến tuổi lao động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao động

9


nhưng trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới nhằm đáp ứng tăng thêm lao
động đào tạo nghề cho Xã hội.
Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối với những người đã có nghề, có chuyên môn
nhưng do yêu cầu mới của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc thay đổi cơ cấu
ngành nghề, trinh độ chuyên môn. Một số công nhân được đào tạo lại cho phù hợp
với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới.

Đào tạo lại thường được hiểu là quá trình nhằm tạo cho người lao động có cơ
hội để học tập một lĩnh vực chuyên môn mới để thay đổi nghề.
Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật hóa
kiến thức còn thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố các kỹ năng
nghề nghiệp theo từng chuyên môn và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ
hay nâng lên bậc cao hơn.
Như vậy, xác định rõ ranh giới giữa đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nghề
hiện nay là một việc phức tạp, khó khăn. Dựa vào lý thuyết qui luật số đông, các
khái niệm trên được phân biệt theo các tiêu chí sau:
 Nội dung: Nội dung học có liên quan tới nghề chuyên môn mới hay cũ.
 Mục đích: Để tiếp tục làm nghề cũ hay đổi nghề.
 Lần đào tạo: Lần đầu tiên hay tiếp nối.
 Văn bằng: Được cấp bằng, chứng chỉ hay không được cấp sau khi học.
Đào tạo nghề là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân.
Theo qui định của Luật giáo dục, hệ thống giáo dục bao gồm: Giáo dục mầm non,
giáo dục phổ thông, giáo dục học nghề, giáo dục đại học và sau đại học.
Theo sơ đồ hệ thống khung giáo dục quốc dân thì đào tạo nghề được thực
hiện ở các cấp khác nhau, ở lứa tuổi khác nhau và được phân luồng để đào tạo nghề
phù hợp với trình độ về văn hóa, khả năng phát triển của con người và độ tuổi. Sơ
đồ trên cho thấy sự liên thông giữa các cấp học, các điều kiện cần thiết để học nghề
hoặc các cấp học tiếp theo. Nó là cơ sở quản lý giáo dục, nâng cao hiệu quả của đào
tạo, tránh lãng phí trong đào tạo (cả người học và xã hội), tránh trùng lặp nội dung
chương trình, đồng thời là cơ sở đánh giá trình độ người học và cấp các văn bằng,
chứng chỉ tốt nghiệp.

10


Tuy vậy, sơ đồ trên cũng cho thấy sự liên thông giữa các cấp đào tạo nghề
chưa rõ ràng. Bộ phận được phân luồng học nghề từ cấp học dưới khi muốn học

nghề ở cấp cao hơn thì theo con đường nào hay thì lại phải tiếp tục học cấp cao hơn
thì mới chuyển được. Đây là điều hết sức lưu ý trong viêc xây dựng hệ thống
chương trình, khung giáo dục quốc dân, đảm bảo tính liên thông giữa các cấp học
nghề.
1. 3.3. Các hình thức đào tạo nghề
Một trong những nhiệm vu quan trọng của kế hoạch đào tạo là xác định các
hình thức đào tạo thích hợp. Hình thức đào tạo là cơ sở để xây dựng kế hoạch đào
tạo, đồng thời cũng là cơ sở để tính toán hiệu quả kinh tế của đào tạo. Tùy theo yêu
cầu và điều kiện thực tế có thể áp dụng hình thức đào tạo này hay hình thức đào tạo
khác. Những hình thức đào tạo nghề đang được áp dụng chủ yếu hiện nay là:
- Kèm cặp trong sản xuất: Là hình thức đào tạo trực tiếp tại nơi làm việc, chủ yếu là
thực hành ngay trong quá trình sản xuất do xí nghiệp tổ chức. Kèm cặp trong sản
xuất được tiến hành dưới hai hình thức: kèm cặp theo cá nhân và kèm cặp theo tổ
chức, đội sản xuất. Với kèm cặp theo cá nhân, mỗi thợ học nghề được một công
nhân có trình độ tay nghề cao hướng dẫn. Người hướng dẫn vừa sản xuất vừa tiến
hành dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức kèm cặp theo tổ, đội sản xuất, thợ học
nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những công nhân dạy nghề thoát
ly sản xuất chuyên trách trình độ nghề nghiệp và phương pháp sư phạm nhất định.
Quá trình đào tạo được tiến hành qua các bước:
Bước 1: Phân công những công nhân có tay nghề cao vừa sản xuất vừa hướng dẫn
thợ học nghề. Trong bước này, người hướng dẫn vừa sản xuất vừa phải giảng cho
người học về cấu tạo máy móc thiết bị, nguyên tắc vận hành, qui trình công nghệ,
phương pháp làm việc. Người học theo dõi những thao tác, phương pháp làm việc
của người hướng dẫn. Đồng thời doanh nghiệp hoặc phân xưởng tổ chức dạy lý
thuyết cho người học do kỹ sư hay kỹ thuật viên đảm nhận.
Bước 2: Giao việc làm thử, người học bắt tay vào làm thử dưới sự kiểm tra uốn nắn
của người hướng dẫn.

11



Bước 3: Giao việc hoàn toàn cho người học nghề khi người học nghề có thể tiến
hành công việc độc lập được, những người hướng dẫn vẫn thường xuyên theo dõi
giúp đỡ.
- Các lớp cạnh doanh nghiệp: Là các lớp do doanh nghiệp tổ chức nhằm đào tạo
riêng cho mình hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành, cùng lĩnh vực. Chủ yếu đào
tạo nghề cho công nhân mới được tuyển dụng, đào tạo lại nghề, nâng cao tay nghề,
chuyển giao công nghệ, kỹ thuật mới.
Hình thức đào tạo này không đòi hỏi có đầy đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật riêng,
không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào các điều kiện sẵn có của doanh nghiệp.
Chương trình đào tạo gồm hai phần: lý thuyết và thực hành sản xuất, phần lý thuyết
được giảng tập trung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách, phần thực hành được
tiến hành ở các phân xưởng do các kỹ sư hoặc công nhân lành nghề hướng dẫn.
- Các trường chính qui: Đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên cơ sở kỹ
thuật hiện đại, các Bộ hoặc Ngành thường tổ chức các trường dạy nghề tập trung,
qui mô lớn, đào tạo công nhân có trình độ cao, chủ yếu là đào tạo đội ngũ công
nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ cao. Thời gian đào tạo từ hai đến bốn năm
tùy theo nghề đào tạo, ra trường được cấp bằng nghề.
Khi tổ chức các trường dạy nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo
viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho đào tạo. Để nâng cao chất lượng đào
tạo các trường cần phải đảm bảo các điều kiện sau đây:
+ Phải có đội ngũ giáo viên đủ khả năng chuyên môn và kinh nghiệm giảng dạy.
+ Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập, các phòng
thí nghiệm, xưởng trường. Nhà trường cần tổ chức các phân xưởng sản xuất vừa
phục vụ cho giảng dạy vừa sản xuất của cải vật chất cho xã hội. Nếu không có điều
kiện tổ chức xưởng sản xuất thì nên để gần các doanh nghiệp lớn của ngành, tạo
điều kiện thuận lợi cho dạy và học. Các tài liệu và sách giáo khoa phải được biên
soạn thống nhất cho các nghề, các trường.
- Các trung tâm dạy nghề: Đây là loại hình đào tạo ngắn hạn, thường dưới một năm.
Chủ yếu là đào tạo phổ cập nghề cho thanh niên và người lao động.


12


1.3.4. Hệ thống tổ chức đào tạo nghề
Hệ thống tổ chức đào tạo dạy nghề gồm các trường chính qui và các cơ sở
dạy nghề.
Hệ thống đào tạo chính qui: Bao gồm các trường thuộc Bộ, Ngành và các địa
phương. Số học sinh đào tạo các trường này được nhà nước giao chỉ tiêu hàng năm
và cấp kinh phí cho các trường theo chỉ tiêu; qui chế thi, cấp bằng và cấp chứng chỉ
theo qui định thống nhất của Nhà nước.
Các cơ sở đào tạo nghề: Theo bộ Luật Lao động bao gồm tất cả các cơ sở
đào tạo ngoài hệ thống trường đào tạo chính qui như: các trường dạy nghề của các
tổ chức, cơ quan, Tổng công ty, doanh nghiệp; các trung tâm đào tạo nghề quận,
huyện; các trung tâm dịch vụ việc làm.
Các trung tâm đào tạo nghề quận, huyện và các trung tâm dịch vụ việc làm
đào tạo các lớp do các ngành và các thành phần kinh tế yêu cầu. Kinh phí của các
cơ sở này một phần được ngân sách nhà nước cấp, một phần do Bộ, địa phương chủ
quản và người học tự đóng góp.
Các trường dạy nghề tư thục và các lớp dạy nghề tư nhân: do các tổ chức, cá
nhân tự tổ chức theo qui định của Nhà nước. Kinh phí học tập chủ yếu do người học
phải đóng góp.
Hợp tác Quốc tế về đào tạo nghề: Sự mở của nền kinh tế, chính sách khuyến
khích tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài khiến cho nhiều quốc gia, tổ chức quốc
tế, các công ty lớn trên thế giới đã tìm đến Việt Nam hợp tác trong nhiều lĩnh vực.
Chúng ta có thể khai thác khả năng của các tổ chức nước ngoài trong việc đào tạo
bồi dưỡng nghề với hình thức đào tạo thông qua hợp đồng giữa các bên, qua các dự
án đầu tư có khoản mục đào tạo mới và đào tạo lại.
Căn cứ vào thời gian đào tạo, đào tạo dạy nghề được chia làm hai loại:
Đào tạo dạy nghề dài hạn (cả đào tạo mới và đào tạo lại): Là hình thức đào

tạo phổ biến tại các trường chính qui của Nhà nước, các Bộ, Ngành và các tỉnh.
Thời gian đào tạo nghề dài hạn thường từ một năm trở lên.
Đào tạo dạy nghề ngắn hạn: Là cách tổ chức dạy nghề trong thời gian ngắn
(từ ba đến mười hai tháng). Người học vừa học lý thuyết vừa thực hành theo hình

13


thức kèm cặp tại nơi sản xuất, chủ yếu là rèn luyện kỹ năng thực hành nghề, chuyển
giao công nghệ… Nhằm tạo cơ hội cho người học tìm được việc làm hoặc tự tạo ra
việc làm.
1.3.5. Những vấn đề cơ bản về chất lượng đào tạo nghề, các yếu tố ảnh hưởng
đến chất lượng đào tạo nghề
1.3.5.1. Một số quan niệm về chất lượng, chất lượng đào tạo nghề
a. Quan niệm về chất lượng
Chất lượng là gì? Có rất nhiều định nghĩa và cách lý giải khác nhau. Có ý
kiến cho rằng chất lượng là sự xuất chúng, tuyệt hảo, là giá trị bằng tiền, là sự biến
đổi về chất và là sự phù hợp với mục tiêu.
Các quan niệm về chất lượng chúng ta có thể thấy qua 6 định nghĩa sau:
+ Chất lượng là “tổng thể những tính chất, thuộc tính cơ bản của sự vật (sự việc)…
làm cho sự vật (sự việc) này phân biệt với sự vật (sự việc) khác” (Từ điển tiếng Việt
phổ thông).
+ Chất lượng là “cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật” hoặc là “cái tạo nên bản
chất sự vật, làm cho sự vật này khác sự vật kia” (Từ điển tiếng Việt thông dụng –
Nhà xuất bản Giáo dục - 1998).
+ Chất lượng là “mức hoàn thiện, là đặc trưng so sánh hay đặc trưng tuyệt đối, dấu
hiệu đặc thù, các dữ kiện, các thông số cơ bản” (Oxford Poket Dictationary - 2009).
+ Chất lượng là “tiềm năng của một sản phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu
người sử dụng” (Tiêu chuẩn Pháp – NFX 50-109).
+ Chất lượng là “tập hợp các đặc tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể

(đối tượng) đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn”
(TCVN- ISO 8402).
Tóm lại: Chất lượng là khái niệm trừu tượng, phức tạp và là khái niệm đa
chiều, nhưng chung nhất đó là khái niệm phản ánh bản chất của sự vật và dùng để
so sánh sự vật này với sự vật khác.
b. Quan niệm về chất lượng đào tạo nghề
Khái niệm “chất lượng” đã trừu tượng và phức tạp thì khái niệm về “chất
lượng đào tạo nghề ” càng phức tạp hơn bởi liên quan đến sản phẩm là giá trị của

14


con người, một sự vật, sự việc. Như vậy có thể hiểu chất lượng là để chỉ sự hoàn
hảo, phù hợp, tốt dẹp. Chất lượng đào tạo nghề là khái niệm đa chiều, không thể
trực tiếp đo đếm được và cảm nhận được.
Chất lượng đào tạo nghề phản ánh trạng thái đào tạo nghề nhất định và trạng
thái đó thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố tác động đến nó. Sẽ không thể biết được
chất lượng đào tạo nếu chúng ta không đánh giá thông qua một hệ thống các chỉ tiêu
và các yếu tố ảnh hưởng. Khái niệm chất lượng đào tạo nghề là để chỉ chất lượng
các công nhân kỹ thuật được đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo mục
tiêu và chương trình đào tạo xác định trong các lĩnh vực ngành nghề khác nhau,
biểu hiện một cách tổng hợp nhất ở mức độ chấp nhận của thị trường lao động, của
xã hội đối với kết quả đào tạo. Chất lượng đào tạo nghề còn phản ánh kết quả đào
tạo của các cơ sở đào tạo nghề, của cả hệ thống đào tạo nghề. Chất lượng đào tạo
nghề biến đổi theo thời gian và theo không gian dưới tác động của các yếu tố.
1.3.5.2. Các yếu tổ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo nghề
Để đo lường chất lượng đào tạo nghề chúng ta thường tập trung vào 2 khối
đối tượng: bản thân người công nhân kỹ thuật và cơ sở đào tạo nghề (Chất lượng cơ
sở đào tạo)
Quá trình đào tạo nghề có một số đặc trưng khác với giáo dục phổ thông và

giáodục đại học. Đó là quá trính đào tạo trên cơ sở thiếp thu kết quả giáo dục phổ
thông để đào tạo về nghề nghiệp cho học sinh học nghề. Việc đào tạo để hình thành
năng lực nghề nghiệp giữ vai trò then chốt, chủ đạo. Quá trình đào tạo chú trọng
đến một hệ thống các kỹ năng thông qua thực hành, luyện tập. Đó chính là những
yêu cầu, vị trí công tác, haọt động nghề nghiệp của người công nhân kỹ thuật.
Chất lượng đào tạo nghề phụ thuộc vào các yếu tố:
- Chất lượng đầu vào: (bản thân người học nghề): Trình độ văn hóa, sở trường
nguyện vọng, sức khỏe, tình trạng kinh tế … của người học nghề.
- Quá trình đào tạo (hoạt động đào tạo nghề của cơ sở đào tạo nghề)
+ Mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo;
+ Đội ngũ giáo viên, phương pháp đào tạo và cán bộ quản lý; ( phẩm chất, năng lực)

15


+ Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học phù hợp đáp ứng nghề đào tạo (số lượng,
chất lượng, hiệu quả hoạt động)
+ Tài chính (kinh phí định mức đào tạo, vật tư thực hành, chi phí quản lý, thù lao
giáo viên …)
+ Dịch vụ đào tạo (cư xá, tư vấn việc làm, thông tin thị trường lao động …)
- Học sinh tốt nghiệp: Năng lực và phẩm chất đạt được sau khi đào tạo theo mục
tiêu đào tạo; Sức khỏe đáp ứng nghề nghiệp; Kỹ năng sống (giao tiếp, hoạt động xã
hội)
- Tham gia thị trường lao động (từ 6 đến 12 tháng kể từ khi ra trường): trình độ
chuyên môn đáp ứng yếu cầu làm việc (năng suất, tổ chức hoạt động); Mức độ hoàn
thành nhiệm vụ công nhân kỹ thuật; Tính sáng tạo và thích nghi trong công việc.
Việc đánh giá kết quả giáo dục cần phản ánh được chất lượng nhân cách có
phù hợp hay không với yêu cầu đề ra. Cần phải xem xét chất lượng đầu vào (tuyển
sinh học sinh học nghề), chất lượng của quá trình đào tạo và chất lượng đầu ra (tốt
nghiệp và tham gia vào cuộc sống). Đánh giá chất lượng đào tạo không chỉ nhiệm

vụ của các đơn vị đào tạo nghề mà còn là của xã hội. Đặc biệt là sự đánh giá trực
tiếp của những người sử dụng sản phẩm đào tạo (các doanh nghiệp, các nhà sản
xuất …)
1.3.5.3. Yêu cầu đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu khách quan đối với nước ta
nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội cao hơn cả hai mặt”
trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất gắn liền với thành tựu của cách mạng khoa học
- công nghệ hiện đại.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa còn đòi hỏi phải có một cơ cấu lao động hợp
lý, nghĩa là phải có một tỉ lệ phù hợp giữa các thành tố của nguồn lực lao động. Phải
chú ý đến công nhân lao động lành nghề, nâng cao năng lực thực hành và tăng hàm
lượng chất xám sao cho đội ngũ công nhân lành nghề và các kỹ nghệ gia, kỹ thuật
gia phải chiếm tỉ trọng chủ yếu. Đây là một tiêu chí đòi hỏi sự phấn đấu không
ngừng của cả nước, toàn Xã hội, toàn ngành Giáo dục, giáo dục chuyên nghiệp và

16


dạy nghề nói riêng trong giai đoạn trước mắt cũng như lâu dài mà nghị quyết Đại
hội IX đã xác định: “Nâng tỉ lệ lao động qua đào tạo lên 30% vào năm 2005”. “Số
học sinh công nhân kỹ thuật tăng 11-12%/ năm”. Trên thực tế, trong nhiều năm qua
chúng ta mới đầu tư chú ý đến phát triển giáo dục phổ thông, giáo dục đại học chưa
coi trọng giáo dục nghề nghiệp, dẫn đến giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đạo tạo
công nhân mất cân đối. Qui mô đào tạo nghề hiện nay vẫn quá nhỏ bé, manh mún,
thiết bị đào tạo lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại
hóa.
Chính những vấn đề nêu trên đòi hỏi phải không ngừng đẩy mạnh công tác
đào tạo nghề, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Nâng cao chất lượng đào tạo nghề còn phụ thuộc yêu cầu phát triển nền kinh

tế, thực hiện liên doanh liên kết với nước ngoài, chuyển giao công nghệ mới cho các
khu công nghiệp, khu chế xuất. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đồng thời với phát triển kinh tế trong doanh nghiệp, cần hình thành các khu chế
xuất, khu công nghiệp, liên doanh liên kết với nước ngoài. Từ đó phát sinh tăng yêu
cầu về mặt lao động có kỹ năng, kỷ xảo, có chuyên môn cao. Đặc biệt là trong quá
trình công nghiệp hóa, số lao động dôi dư với chất lượng nghề nghiệp không đáp
ứng kịp thời nhu cầu tuyển dụng ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. Một số lớn
đã qua đào tạo nhưng không đáp ứng được yêu cầu người sử dụng lao động.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chất lượng lao động phải cao không
những để đáp ứng nhu cầu lao động trong nước mà còn để đáp ứng nhu cầu xuất
khẩu lao động, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Việc phân công lao động và hợp
tác quốc tế là xu hướng ngày càng phát triển. Xuất khẩu lao động là chiến lược lâu
dài, thường xuyên của các quốc gia phát triển. Đối với nước ta, xuất khẩu lao động
không những vừa giải quyết việc làm cho lao động, tăng thu nhập cho ngân sách
nhà nước, tăng thu nhập cho bản thân gia đình người lao động, mà còn tiếp thu học
tập chuyên môn kỹ thuật hiện đại của các nước có nền công nghiệp phát triển.
Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ lao động xuất khẩu của ta mặc dù được cải
thiện nhưng nhìn chung còn hạn chế. Yếu nhất là khâu ngoại ngữ, tay nghề chưa
đáp ứng được nhu cầu của công nghệ sản xuất hiện đại, nhận thức về chủ thợ chưa

17


rõ ràng, ý thức kỹ luật và chấp hành hợp đồng đã kỹ kết của một số bộ phận lao
động còn kém, Không ít người lao động quan niệm đi làm việc ở nước ngoài là để
kiếm tiền nhiều, khi không đạt được thì vô kỷ luật, bỏ hợp đồng đi làm việc khác,
gây ảnh hưởng đến uy tín lao động Việt Nam.
Tóm lại, nước ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, tài nguyên
khoáng sản không nhiều… Do đó, để có thể tiếp cận được với nền khoa học - kỹ

thuật đang tiến nhanh như vũ bão của thế giới, từng bước rút ngắn khoảng cách và
đuổi kịp với sự phát triển của các nước, Đảng ta đã xác định phát triển nguồn lực
nói chung, nâng cao chất lượng đội ngũ lao động nói riêng là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong suốt quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Vấn đề cấp bách hiện nay là phải khẩn trương bồi dưỡng về mọi mặt cho số
công nhân, số lao động chưa qua đào tạo đầy đủ, tăng nhanh về qui mô với chất
lượng cao. Muốn vậy phải nâng cao chất lượng dạy nghề, bởi những năm qua cùng
với sự suy giảm về số lượng, chất lượng dạy nghề cũng đã có những giảm sút
nghiêm trọng. Nguyên nhân của sự giảm sút đó là:
- Trang thiết bị hiện nay ở các cơ sở dạy nghề thiếu thốn, lạc hậu.
- Đội ngũ giáo viên dạy nghề chuyên nghiệp bị phân tán, giảm về số lượng. Trình
độ không được nâng cao cho phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ. Trình độ sư phạm và quản lý nhiều năm qua ít được chú ý, bổ sung, bồi
dưỡng, đào tạo lại.
- Chương trình nội dung đào tạo, hệ thống giáo trình vẫn trong tình trạng lạc hậu,
thiếu thống nhất, không theo một chuẩn mực nào, vì vậy không theo kịp sự tiến bộ
của khoa học - công nghệ mới.
Tổng hợp những ý kiến trên, dẫn đến chất lượng đào tạo đặc biệt là đào tạo kỹ năng
nghề của người học nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, nên rất khó
tìm việc làm; thiếu công nhân lành nghề, công nhân bậc cao, không đáp ứng được yêu cầu
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Có thể nói rằng, bắt đầu sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước là quá trình phát triển theo chiều sâu, trong đó chất lượng lao động
có ý nghĩa quyết định. Cùng với việc mở rộng qui mô đào tạo, nâng cao chất lượng dạy

18


nghề là một đòi hỏi khách quan, cấp bách nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.3.6. Vai trò của đào tạo nghề đối với sự phát triển nguồn nhân lực

1.3.6.1. Một số khái niệm:
- Nguồn lao động: là tổng số nhân khẩu có khả năng lao động, bao
gồm nhân khẩu ở độ tuổi lao động và nhân khẩu ở ngoài độ tuổi lao động có tham
gia vào quá trình lao động.
- Nguồn nhân lực: là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước
hay một địa phương, tức là nguồn lao động, những người lao động có kỹ năng được
chuẩn bị sẵn sàng tham gia một công việc nào đó trong cơ cấu lao động xã hội
1.3.6.2. Vai trò của đào tạo nghề đối với sự phát triển nguồn nhân lực:
Với mục tiêu "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài"
nhằm đáp ứng đòi hỏi sự phát triển kinh tế - xã hội. Cùng với các hệ thống giáo dục,
hệ thống dạy nghề có chức năng chủ yếu thực hiện các mục tiêu giáo dục nói trên.
Đào tạo nghề góp phần quan trọng vào mục tiêu đào tạo nhân lực: " Mục tiêu của
dạy nghề là đào tạo con người lao động có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các
trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong
công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người lao động có khả năng tìm
việc làm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội củng cố quốc phòng an ninh".
Dạy nghề trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao hàm nội dung rất
phong phú từ "Dạy chữ, dạy người" tới dạy nghề, dạy đạo lý nghề nghiệp, dạy pháp
luật, tác phong công nghiệp. Dạy nghề phải gắn liền với giải quyết việc làm, với sử
dụng người lao động có tay nghề, với phát triển nhân lực bồi dưỡng và trọng dụng
nhân tài. Để đảm bảo phát triển nguồn nhân lực, Nghị quyết Đại hội IX đã chỉ rõ"
Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy và phương thức
đào tạo đội ngũ lao động, có chất lượng cao, đặc biệt là trong các ngành kinh tế mũi
nhọn, công nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu công nghiệp, khu công nghệ cao,
với hệ thống các trường đào tạo nghề. Phát triển nhanh và phân bố hợp lý hệ thống
trường dạy nghề trên địa bàn cả nước. Mở rộng các hình thức đào tạo nghề đa dạng,
linh hoạt, năng động"

19



Trước yêu cầu phát triển nguồn nhân lực thực hiện sự nghiệp công nghiệp
hóa - hiện đại hóa, công tác đào tạo nghề cần phải được đẩy mạnh cả về số lượng và
chất lượng theo 2 hướng đào tạo nghề dài hạn và ngắn hạn, trong đó đào tạo nghề
dài hạn giữ vai trò chủ đạo. Chính vì vậy giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo
nghề nói riêng có tầm quan trọng góp phần quyết định chất lượng nguồn nhân lực
đáp ứng sự nghiệp đổi mới và hội nhập của đất nước. “ Để đáp ứng yêu cầu về con
người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, cần tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về giáo dục đào tạo”.
1.3.7. Quản lý đào tạo nghề
Quản lý đào tạo nghề là một trong những vấn đề cụ thể của QLĐT, quản lý
đào tạo nghề được hiểu là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch và
hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống đào tạo nghề phát triển,
vận hành theo đường lối chủ trương của Đảng và thực hiện được những yêu cầu của
xã hội, đáp ứng sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Quản lý đào tạo nghề bao gồm các loại hoạt động trong quá trình đào tạo như sau:
- Xác định mục tiêu, nội dung, chương trình, kế hoạch đào tạo nghề.
- Xây dựng các điều kiện cần thiết khả thi: Đội ngũ giáo viên, cán bộ kỹ thuật, cơ sở
vật chất, trường, xưởng, nguồn tài chính, môi trường sư phạm ...
- Xác định quy mô phát triển số lượng, chất lượng của từng ngành nghề đào tạo.
- Tổ chức chỉ đạo hoạt động dạy và học của thày và trò.
- Hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý.
- Phát triển cơ chế cộng đồng, phối hợp trong và ngoài
- Tổ chức đánh giá chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề
1.4. Các đặc trưng của quản lý đào tạo nghề tại các cơ sở có đào tạo nghề
1.4.1. Quản lý các mục tiêu đào tạo nghề:
Quản lý mục tiêu đào tạo nghề là quản lý việc xây dựng và thực hiện mục
tiêu của tổ chức trong quá trình đào tạo nghề, là quản lý một hệ thống những yêu
cầu lâu dài và trước mắt của xã hội đối với sự phát triển nhân cách của người được


20


đào tạo, đối với những phẩm chất và năng lực cần có của người học sau từng giai
đoạn học tập
+ Quản lý việc xây dựng mục tiêu đào tạo thực chất là xây dựng bản kế hoạch đào
tạo theo chu trình: Chuẩn bị - Lập kế hoạch - Tổ chức thực hiện - Chỉ đạo - Kiểm
tra.
-

Chuẩn bị: Thu thập thông tin về ngành nghề

-

Lập kế hoạch: Kế hoạch nhân lực, vật lực, tài lực

-

Tổ chức thực hiện: Quản lý tiến độ thực hiện mục tiêu

-

Chỉ đạo: Đôn đốc, giám sát phối hợp với các đơn vị

-

Kiểm tra: Kiểm tra từng phần, kiểm tra tổng thể

+ Quản lý mục tiêu đào tạo trong quá trình đào tạo được thực hiện theo chu trình
tương tự như quản lý xây dựng mục tiêu đào tạo

1.4.2. Quản lý nội dung chương trình đào tạo nghề:
Là quản lý việc xây dựng nội dung đào tạo, kế hoạch đào tạo và nội dung
chương trình giảng dạy, quản lý quá trình đào tạo thực tế của giáo viên và học sinh
sao cho kế hoạch, nội dung, chương trình giảng dạy được thực hiện đầy đủ và đảm
bảo về thời gian, quán triệt được các yêu cầu của mục tiêu đào tạo.
Khi xác định nội dung đào tạo cho một nghề cụ thể phải lựa chọn nội dung
phù hợp với mục tiêu đề ra, phát huy được tài nguyên, tiềm năng mà con người
đang có cần khai thác, phù hợp với phương hướng và chính sách phát triển kinh tế
xã hội của quốc gia, của địa phương, phản ánh và tiếp thu được tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Để thích ứng với nền kinh tế thị trường, nội dung chương trình đào tạo cần
xây dựng theo hướng đào tạo công nhân kỹ thuật có diện nghề rộng, kiến thức hiện
đại, sáng tạo và linh hoạt trong công việc sản xuất và kinh doanh, dịch vụ.
Quản lý nội dung, chương trình đào tạo cũng được thực hiện theo chu trình: Chuẩn
bị; Lập kế hoạch; Tổ chức thực hiện; Chỉ đạo;  Kiểm tra.
- Chuẩn bị: Thu thập thông tin, phân tích ngành nghề, chú trọng cập nhật bổ sung
kiến thức mới, quán triệt kế hoạch, nội dung, chương trình đào tạo, chuẩn bị tài liệu,
chuẩn bị cơ sở vật chất trang thiết bị, chuẩn bị đội ngũ giáo viên

21


- Lập kế hoạch: Kế hoạch về nhân lực, điều kiện, lịch trình tiến độ quy trình, kế
hoạch dự giờ kiểm tra, Kế hoạch tài chính vật tư, phương tiện
- Tổ chức thực hiện: Xem xét nội dung chương trình các môn học, tiến độ thực hiện,
triển khai các khoá đào tạo.
- Chỉ đạo: Đôn đốc giám sát phối hợp các đơn vị, giữa giáo viên với phòng ban, bộ
môn, phối hợp nhà trường với đơn vị sử dụng lao động
- Kiểm tra: Kiểm tra từng phần, từng bộ phận, tổng thể, kiểm tra kết quả, chất
lượng, hiệu quả thực hiện chương trình đào tạo.
1.4.3. Quản lý đội ngũ giáo viên:

Bao gồm công tác tuyển chọn, sử dụng, đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng đối với
đội ngũ giáo viên. Quản lý đội ngũ giáo viên bao gồm cả cả việc quản lý thực hiện
nhiệm vụ giảng dạy của đội ngũ giáo viên, của từng giáo viên qua các nội dung:
- Quản lý kế hoạch giảng dạy, việc đổi mới phương pháp giảng dạy, quản lý sinh
hoạt chuyên môn, theo dõi chỉ đạo việc hoàn thiện các hồ sơ sổ sách chuyên môn
nghiệp vụ.
- Theo dõi đôn đốc việc thực hiện, đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ giảng
dạy.
- Theo dõi chỉ đạo thực hiện và đánh giá kết quả thực hiện việc học tập, bồi dưỡng
nâng cao trình độ chuyên môn và sư phạm của đội ngũ giáo viên , của từng giáo
viên.
- Nắm được các ưu điểm, khuyết điểm, đánh giá được sự tiến bộ các mặt về chính
trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức của từng giáo viên.
- Tự đánh giá của giáo viên được xem là nội dung quan trọng, tự đánh giá sẽ tạo cơ
sở cần thiết để đánh giá tổng thể về hiệu quả hoạt động của giáo viên
- Đánh giá giáo viên thông qua học sinh.
- Kiểm tra đánh giá giáo viên thông qua đồng nghiệp và người quản lý được xem là
cần thiết.
- Kiểm tra đánh giá được tiến hành theo định kỳ và đột xuất thông các hình thức:
Kiểm tra việc lên lớp, hội giảng, dự giờ, sinh hoạt sư phạm.

22


1.4.4. Quản lý học sinh học nghề:
Quản lý học sinh thực chất là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập,
rèn luyện của học sinh trong quá trình đào tạo, nội dung quản lý chủ yếu sau:
- Quản lý quá trình học tập trên lớp và ở nhà.
- Quản lý việc thực hành cơ bản ở xưởng và thực hành tại cơ sở sản xuất.
- Theo dõi, tìm hiếu để nắm được những biểu hiện tích cực và tiêu cực trong việc

thực hiện nhiệm vụ hoạ tập, rèn luyện của học sinh.
- Theo dõi thúc đẩy, khuyến khích học sinh phát huy các yếu tố tích cực, khắc phục
những yếu tố tiêu cực để phấn đấu vươn lên đạt kết quả học tập và rèn luyện.
Công cụ để người quản lý kiểm tra, đánh giá theo định kỳ và đột xuất thông qua:
Kiểm tra đầu vào (Tuyển sinh). Kiểm tra việc lên lớp, kiểm tra miệng, kiểm tra viết,
thi học kỳ, thi cuối năm học và kiểm tra đầu ra ( Thi tốt nghiệp ).
1.4.5. Quản lý cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề:
Trong hệ thống giáo dục, nhất là dạy nghề, phương tiện dạy học, máy móc
thiết bị và cơ sở vật chất, nguồn tài chính là điều kiện quan trọng góp phần quyết
định chất lượng dạy học. Việc đảm bảo cơ sở vật chất, tài chính phục vụ đào tạo
nghề nhằm:
- Đảm bảo cung cấp đầy đủ máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cho đào tạo.
- Đảm bảo đầy đủ nguồn tài chính cho việc xây dựng cơ sở vật chất và các hoạt
động khác phục vụ cho quá trình dạy học.
- Đảm bảo lớp học, xưởng thực hành, phòng thí nghiệm, thư viện, đáp ứng nhu cầu
giảng dạy, học tập.
- Cung cấp đầy đủ giáo trình tài liệu giảng dạy và học tập.
1.4.6. Quản lý công tác lập kế hoạch khóa học nghề
Công tác lập kế hoạch cho hoạt động đào tạo nghề nói chung và kế hoạch
khóa học là thật sự cần thiết. Kế hoạch đào tạo là văn bản pháp quy xác định danh
mục và khối lượng nội dung các nghề đào tạo, các hoạt động chính của trung tâm về
đào tạo được phân chia theo thời gian và các nguồn lực đáp ứng cho việc đào tạo.

23


Lập kế hoạch là nhiệm vụ thiết yếu, nó được coi là cơ sở pháp lý để lãnh đạo
nhà trường theo dõi tiến độ thực hiện các khóa học nghề. Các bước lập kế hoạch
tuân thủ tuần tự sau:
- Xác định các chuyên đề


- Xác định trọng tâm giảng dạy

- Lựa chọn các chuyên đề

- Lựa chọn phương pháp

- Viết tên khóa học

- Xác định tiêu chí đánh giá

- Viết thông tin khóa học

- Xác định tài nguyên dạy học

- Xác định mục tiêu

- Hiệu chỉnh kế hoạch

1.4.7.Quản lý công tác tuyển sinh hợp tác đào tạo nghề:
Chất lượng tuyển sinh có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng nhận thức, tiếp thu
các kiến thức lý luận và kỹ năng nghề nghiệp mà nhà trường trang bị. Học sinh với
tư cách vừa là một chủ thể trong quá trình đào tạo vừa là đối tượng của quá trình
đào tạo sẽ có tác động tới chất lượng của quá trình đào tạo mà chủ thể và đối tượng
đó cùng tham gia trong một quá trình. Trong thực tế, quá trình đào tạo còn là quá
trình trong đó học sinh tự học hỏi lẫn nhau thông qua các phương pháp làm việc
theo nhóm, thảo luận, trao đổi … nên chất lượng tuyển vào và tính đống nhất về
trình độ của học sinh cũng được quan tâm. Công tác quản lý tuyển sinh bao gồm:
- Tổng số học sinh tuyển mới cho khóa học phân theo ngành và hệ đào tạo.
- Cách thức tuyển sinh của nhà trường và các tiêu chuẩn chấp nhận.

- Điểm trung bình các môn học ở phổ thông và xếp hạng học tập.
- Điểm trung bình các môn thi tốt nghiệp phổ thông.
- Kết quả rèn luyện đạo đức.
- Động cơ học tập.
- Năng khiếu cá nhân.
- Sức khỏe thể chất và tinh thần của học sinh khi nhập học.
1.4.8. Quản lý thông tin trong đào tạo nghề:
Có thể nói chức năng thông tin là phương tiện để thống nhất hoạt động của
hệ thống giáo dục và hệ thống quản lý giáo dục. Nó là phương tiện cung cấp đầu
vào cho hệ thống quản lý, đồng thời cũng là phương tiện để thay đổi cách cư xử và
để tác động lên sự thay đổi. Do đó có thể định nghĩa thông tin là bộ phận tri thức

24


được sử dụng để định hướng, để tác động tích cực, để điều khiển, nghĩa là nhằm
duy trì tính đặc thù về chất, hoàn thiện và phát triển hệ thống. Thông tin là quá trình
hai chiều, trong đó mỗi bộ phận, mỗi người vừa là người nhận thông tin vừa là
người phát tin. Trong tổ chức thông tin là hệ thống đan chéo nhau: thông tin giữa
bộ phận cùng cấp và giữa bộ phận cấp trên với bộ phận cấp dưới. Đối với giáo dục
thông tin nhằm những mục đích cụ thể sau:
- Xây dựng và phổ biến các mục tiêu phát triển giáo dục cũng như các mục
tiêu quản lý giáo dục.
- Lập các kế hoạch giáo dục, kế hoạch quản lý để đạt được các mục tiêu giáo
dục vầ mục tiêu quản lý giáo dục.
- Tổ chức nguồn nhân lực và các nguồn lực khác theo cách có hiệu quả nhất
nhằm đạt mục tiêu giáo dục và mục tiêu quản lý giáo dục.
- Lựa chọn, phát triển và đánh giá các thành viên của tổ chức
- Lãnh đạo, hướng dẫn, điều khiển, thúc đẩy và tạo môi trường thuận lợi cho
việc phát huy tính chủ động, sáng tạo của những tổ chức hoặc cá nhân trong và

ngoài ngành giáo dục tham gia xây dựng giáo dục.

25


×