TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VÀ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
BÀI BÁO SỐ 9 " FINANCIAL STRUCTURE AND FINANCIAL CRISIS"
Thành viên nhóm:
1. Nguyễn Thị Châu
2. Cao Thị Anh Lài
3. Bùi Thị Lý
4. Bùi Thế Hùng
5. Nguyễn Văn Bồi
I. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
1. Khái niệm vè khủng hoảng tài chính
Có thể nói : "khủng hoảng tài chính là sự đỗ vỡ trầm trọng các bộ phận của thị
trường tài chính tiền tệ kéo theo sự vỡ nợ hàng loạt các ngân hàng và các tổ chức
tài chính do sự sụt giảm nhanh về giá cả tài sản mà kết quả cuối cùng của nó là sự
đông cứng và bất lực của thị trường tài chính sự sụt giảm nghiêm trọng các hoạt
động kinh tế"
Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh
tế trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Khủng hoảng
tài chính xảy ra khi nh cầu tiền vượt quá so với nguồn cung. Nhu cầu tiền mặt của
người dân hay của nhà đầu tư nước ngoài đã gây sức ép cho hệ thống ngân hàng
và thị trường tài chính khiến hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính có thể bị
sụp đỗ. Trong nền kinh tế thế giới hiện đại sự lây lan của khủng hoảng tài chính
thường đi kèm với sự khủng hoảng kinh tế kéo dài.
2. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính
Tùy theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau
đây:
Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền
Tỷ giá hối đoái tăng đột biến và dây chuyền
Lãi suất tín dụng gia tăng
1
Hệ thống ngân hàng bị tê liệt
Thị trường cổ phiếu bị sụt giá nhanh chóng
Các hoạt động kinh tế bị suy giảm
3. Phân loại khủng hoảng kinh tế
Các loại khủng hoảng tài chính như sau:
Khủng hoảng tiền tệ (Curency crisis) còn được gọi là khủng hoảng tỷ giá hay
khủng hoảng cán cân thanh toán nổ ra khi hoạt động đầu cơ tiền tệ dẫn đến sự
giảm giá một cách đột ngột của đồng nội tệ hoặc trường hợp buộc các cơ quan có
trách nhiệm phải bảo vệ đồng tiền nước mình bằng cách nâng cao lãi suất hay chi
ra một khối lượng lớn dự trữ ngoại hối.
Khủng hoảng ngân hàng (Banking crisis) Lý thuyết khủng hoảng ngân hàng
cho rằng tính bất ổn của hệ thống ngân hàng bắt nguồn từ thông tin bất cân xứng,
là trình trạng khi một bên trong mối quan hệ kinh tế hay giao dịc có ít thông tin về
phía bên kia.
Khủng hoảng kép (Twin crisis)), khủng hoảng kép xảy ra khi khủng hoảng tiền
tệ và khủng hoảng ngâ hàng xảy ra đồng thời với nhau.
Khủng hoảng nợ nần: Là khủng hoảng xảy ra ở các nước đang phát triển vào
thập kỷ 80 của thế kỉ XX. Có nhiều khả năng đánh giá khả năng thanh toán nguồn
vay nước ngoài của một quốc gia, trong đó chỉ tiêu quan trọng nhất là tỷ lệ thanh
toán nợ nước ngoài tức là tỷ lệ giữa nguồn vay nước ngoài cả góc và lãi mà một
quốc gia đó trả trong một năm trên tổng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia trong
năm đó hoặc năm trước đó. Bình thường chỉ tiêu này nằm dưới 20%, nếu chỉ tiêu
này lớn hơn 20% chứng tỏ lượng vốn vay nước ngoài của quốc gia đó quá lớn.
4. Hệ quả và hậu quả của khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính nói chung thường gây ra tác động lớn đối với cả xã hội.
Bởi kinh tế đóng vai trò then chốt trong việc ổn định trật tự xã hội, nên khi nền
kinh tế bị tác động mạnh kéo theo những ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực trong
mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh đời sống.
2
Xét về mặt tiêu cực, khủng hoảng tài chính góp phần không nhỏ làm đảo lộn trật
tự xã hội. Trong tất cả các doanh nghiệp, tài chính luôn là vấn đề cốt lõi nhằm duy
trì sự hoạt động của doanh nghiệp và cuộc sống của người lao động. Khi gặp phải
khủng hoảng tài chính, doanh nghiệp khó có khả năng mở rộng đầu tư phát triển,
gây sự đình trệ trong công việc; thậm chí còn có thể phá sản. Sự phá sản của
doanh nghiệp này sẽ tác động đến doanh nghiệp khác, và cao hơn nữa là tác động
tới toàn bộ nền kinh tế, theo một hiệu ứng dây chuyền (tùy theo quy mô doanh
nghiệp). Không những thế, khủng hoảng tài chính còn góp phần gây ra những bất
ổn về mặt xã hội do lượng người thất nghiệp gia tăng.
5.Một số cuộc khủng hoảng tiêu biểu
Cơn sốt hoa Tulip ở Hà Lan 1637
Khủng hoảng công ty nam Dương ở Anh 1720
Đại khủng hoảng ở MỸ 192
Khủng hoảng nợ ở các nước Châu Mỹ La Tinh thập niên 1980
Ngày thứ 2 đen 1987
Khủng hoảng cơ chế tỷ giá CHâu Âu 1992 - 1993
Khủng hoảng MeXiCo 1994-1995
Khủng hoảng Đông Á 1997-1998
Khủng hoảng ở Argentina 2001-2002
Khủng hoảng tài chính ở Mỹ 2007 - 2009
II. Thực trạng khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á
Trái ngược với lí thuyết tài chính truyền thống, các hệ thống tài chính chịu ảnh
hưởng của các tác nhân thị trường sẽ dễ bị khủng hoảng theo giai đoạn. Khi xác
định xem khủng hoảng đó là các sự kiệnmang tính chất đặc tính hay có hệ thống,
ta nên xem lịch sử của chúng. các cuộc khủng hoảng tài chính như ở Đông Nam Á
thường theo sau những quả bong bóng về giá cả. Những ví dụ trong lịch sử cho
loại khủng hoảng này là cuộc khủng hoảng Tulipmania ở Hà Lan vào thế kỉ 17,
quả bóng biển phía Nam ở Anh, và quả bóng Mississippi ở pháp vào đầu thế kỉ 18
3
và cuộc khủng hoảng lớn năm 1929 tại Mỹ.
các sự kiện tương tự đã xảy ra ở Na Uy, Phần Lan, và Thụy Điển trong những năm
1980 (xem Heiskanen 1993, Drees và Pazarbasioglue 1995). Ở Na Uy, tỉ lệ nợ
ngân hàng cho GDP tăng từ 40% năm 1984 tới 68% năm 1988. Giá cả tài sản tăng,
trong khi đó đầu tư và tiêu dùng cũng tăng nhanh chóng. Giá dầu giảm làm cho
quả bóng bị vỡ và gây ra cuộc khủng hoảng ngân hàng lớn nhất từ sau chiến tranh.
Ở Phần Lan, ngân sách tăng năm 1987 đã gây ra sự bànhtrướng tín dụng lớn. Tỉ lệ
nợ ngân hàng với GDP tăng từ 55% vào năm 1984 đến 90% năm 1990. Giá nhà
tăng 67% năm 1987 và 1988. Năm 1989 ngân hàng trung ương đã tăng lãi suất và
áp đặt những yêu cầu dè dặt để bình thường hóa mở rộng tín dụng. Năm 1990 và
1991, tình hình kinh tế còn trầm trọng hơn do thụt giảm thương mại với Xô Viết.
Giá cả tài sản giảm, ngân hàng phải được hỗ trợ bở chính phù và GDP giảm xuống
7%. Ở Thụy Điển, sự mở rộng tín dụng đều đều qua những năm cuối của thập kỉ
80 đã trở thành quả bom bất động sản. Mùa thu năm 1990, tín dụng được thắt chặt
và lãi suất tăng. Năm 1991, nhiều ngân hàng phải can thiệp và một cuộc suy thoái
mạnhđã xảy ra. Ngoài khủng hoảng ngân hàng, còn xảy ra khủng hoảng tiền tệ.
Hầu hết các quốc gia OECD đều trải qua những giai đoạn tương tự mặc dù ít
nghiêm trọng hơn ở Scandinavia. Higgins và Osler (1997) đã xem xét 18 quốc gia
OECD và ghi nhận sự tăng mạnhvề Giá bất động sản và chứng khoán trong những
năm 1984-1989. những Giá này đã giảm trong những năm 1989-93. những kết quả
đi ngược trở lại này đã cho thấy rằng tăng 10% Giá nhà đất trên mức trung bình
của OECD có liên quan đến giảm 8% so với mặt bằng chung những năm 1989-93.
Tương tự như vậy, đối với vốn cổ phần thì tăng 10% ở giai đoạn trước có liên
quan đến giảm thêm 5% ở giai đoạn sau. Higgins và Osler cho rằng điều này cho
thấy sự tồn tại của bong bóng. Đầu tư và hoạt động thực tế cũng được rút ngắn đi
nhiều trong giai đoạn sau đó.
Mexico là minh họa rõ ràng cho một nền kinh tế đã phát triển bị ảnh hưởng bởi
vấn đề này. Trong đầu những năm 1990, các ngân hàng được tư nhân hóa và sự
4
mở rộng tư do tài chính đã xảy ra. Có lẽ, quan trọng nhất là dự trữ bắt buộc đã
được tháo bỏ. Mishkin (1997) ghi nhận quá trình tín dụng ngân hàng cho các công
ty phi tài chính tư nhân tăng từ khoảng 10% của GDP cuối những năm 1980 tới
40% GDP năm 1994. Thị trường chứng khoán tăng mạnhtrong những năm đầu của
thập kỉ 90. vào năm 1994, vụ ám sát Colosio và sự tăng trưởng ở Chiapas đã làm
bong bóng nổ. Giá chứng khoán và các tài sản khác giảm và khủng hoảng ngân
hàng và tỉ Giá hối đoái nước ngoàiđã xảy ra. Theo sau là một cuộc suy thoái
nghiêm trọng.
Kaminsky và Reinhart (1996, 1999) nghiên cứu nhiều cuộc khủng hoảng trong 20
quốc gia, bao gồm năm nước công nghiệp và 15 nước đang phát triển. Điềm báo
trước chung cho hầu hết các cuộc khủng hoảng này là tự do tài chính và mở rộng
tín dụng mạnhmẽ. Theo sau những điều này là mức tăng trung bình của Giá chứng
khoán khoảng 40% mỗi năm so với mức tăng tại thời điểm bình thường. Giá bất
động sản và các tài sản khác cũng tăng mạnh. Một lúc nào đó bong bóng vỡ và thị
trường chứng khoán và bất động sản sụp đổ. Trong nhiều trường hợp, ngân hàng
và các cơ quan trung gian tiếp cận quá nhiều với thị trường cổ phần và bất động
sản và trung bình 1 năm sau đó thì cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra. Điều này
thường được theo sau bở cuộc khủng hoảng tỉ Giá hối đoái vì chính phủ lựa chọn
giữa hạ lãi suất để giúp khủng hoảng ngân hàng hoặc tăng lãi suất để bảo vệ tiền
tệ. cuối cùng, đầu ra giảm mạnhvà suy thoái diễn ra trong khoảng 1,5 năm.
Trong một nghiên cứu về mối quan hệ giữa tự do tài chính và tài chính mong
manh, Demirguc-Kunt và Detragiache (1998) nghiên cứu 53 quốc gia trong giai
đoạn 1980-95. Họ phát hiện ra rằng tự do tài chính làm tăng khả năng khủng
hoảng ngân hàng.
Bảng 1:
Phần trăm tăng trưởng tại ngân hàng cho khu vực tư nhân vay
nước
Hồng Công
Indonesia
Malaysia
1991
N/A
18
21
1992
10
12
11
1993
20
25
11
1994
20
23
16
1995
11
23
31
1996
16
21
26
1997
20
46
30
5
Phillipines
7
Singapore
12
Hàn quốc
21
Thái Lan
20
N/A: không có
25
10
13
21
41
15
13
24
26
15
20
30
45
20
15
24
49
16
20
15
29
13
22
20
Dựa trên Bảng 18 của Corsetti et al. (1998a).
Tuy nhiên, môi trường tổ chức càng mạnh, liên quan đến các yếu tố như sự tôn
trọng luật phát, ít tham nhũng và thực thi hợp đồng tốt, có thể giảm ảnh hưởng
này. Họ cũng thấy rằng tăng trưởng tín dụng nội địa thường xảy ra trước các cuộc
khủng hoảng tài chính.
Các nền kinh tế ở Đông Nam Á cũng trải qua tình trạng tương tự với các trường
hợp đã nêu ở trên. Bảng 1 cho biết tỉ lệ phần trăm tăng về khoản vay ngân hàng
cho khu vực tư nhân ở các nước xảy ra khủng hoảng. Có thể thấy rằng tình trạng
tăng các khoản vay là rất lớn ở tất cả các quốc gia. Ảnh hưởng lên Giá cả của thị
trường chứng khoán và nhà đất được trình bày tương ứng ở bảng 2, 3. Giá chứng
khoán và Giá bất động sản hoặc cả hai đều tăng mạnhvà sau đó sụp đổ vào năm
1997.
các bằng chứng ở phần này cho thấy các cuộc khủng hoảng tài chính ở các quốc
gia Đông Nam Á đã xảy ra nhiều lần ở nhiều trường hợp khác nhau. Nhiều trong
số đó xảy ra khi không có sự bảo hộ của chính phủ, khi hoạt động của ngân hàng
không được thả lỏng, khi tham nhũng và gia đình trị không xuất hiệnvà khi có cơ
cấu thị trường công nghiệp cạnh tranh. Chẳng hạn như, nước Mỹ ở cuối những
năm 1920 và đầu những năm 1930 đã chứng kiến sự tăng mạnhmẽ của Giá tài sản
và sau đó là cuộc khủng hoảng ngân hàng khi không có sự bảo hộ của chính phủ
đối với ngân hàng; tương tự đối với nhiều cuộc khủng hoảng ở Mỹ vào cuối thế kỉ
19. các hệ thống tài chính của Na Uy, Phần Lan, và Thụy Điển cũng khác rất nhiều
so với ở các nước Đông Nam Á. Tham nhũng và gia đình trị không phải là vấn đề,
hoạt động lơ là của ngân hàng cũng không. Tất cả những điều này cho thấy các
cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông Nam Á bị gây ra bởi sự thất bại của thị trường
6
do vấn đề của các cơ quant hay vì các đặc điểm riêng biệt của những nền kinh tế
đó.
Bảng 3
Chỉ số Giá thị trường bất động sản
nước
N/A: Không có
Dựa trên bảng 11 của Corsetti et al. (1998a)
III. Tác động của khủng hoảng tài chính ở các nước Đông Nam Á
1. Tác động đối với Mỹ
Cuộc khủng hoảng làm cho thị trường xuất khẩu của nước này bị co lại do
đồng đô la lên giá, nên khả năng cạnh tranh của hàng hoá Mỹ giảm xuống. Người
ta tính rằng ít nhất thị trường xuất khẩu của Mỹ giảm 25%, bao gồm phần lớn là
thị trường của các nước Đông Nam Á. Điều này làm cho tình trạng nhập siêu của
Mỹ ngày càng trầm trọng. Năm 1997, Mỹ nhập siêu là 176 tỷ USD, cao hơn nhiều
so với 148 tỷ USD của năm 1996. Trong khi đó mức thặng dư thương mại của
Nhật tăng từ 66 tỷ USD năm 1996 lên 99 tỷ USD năm 1997. Do vậy Mỹ và EU đã
7
lên tiếng tại WTO yêu cầu Nhật Bản phải có các chính sách cắt giảm xuất khẩu tự
nguyện và tạo điều kiện để hàng hoá nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào thị trường
Nhật Bản.
Đồng thời, cuộc khủng hoảng này còn gây nguy hại cho nền kinh tế Mỹ theo một
cách khác. Do đồng tiền của các nước bị phá giá so với đồng đô la Mỹ, nên hàng
nhập khẩu vào Mỹ trở nên rẻ một cách tương đối, điều đó làm cho giá cả trên toàn
bộ thị trường Mỹ phải giảm xuống theo, tức là làm cho lợi nhuận của các nhà sản
xuất ở Mỹ giảm và đầu tư kinh doanh cũng giảm. Nhiều sản phẩm của các công ty
Mỹ không thể tiêu thụ được do giá cao dẫn đến tồn kho nhiều. như vậy, các công
ty Mỹ chắc chắn sẽ không thể tiếp tục đầu tư để nâng cao sản lượng được. Rõ ràng
cuộc khủng hoảng này đã làm cho cả đầu tư lẫn xuất khẩu đều giảm, có nghĩa là
nền kinh tế Mỹ khó có thể duy trì tiếp sự hùng mạnh của mình.
Ngoài ra, do các nước Đông Á phải thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ để khắc
phục cuộc khủng hoảng theo điều kiện của IMF nên họ không có khả năng trả số
tiền mua vũ khí hoặc phải kéo dài thời hạn thanh toán cho những hợp đồng đó với
Mỹ. Tức là giờ đây, các nước và vùng lãnh thổ Đông Nam Á khó có khả năng hiện
đại hoá quân đội của mình, đặc biệt là vũ khí, khí tài. Mối hợp tác chiến lược của
Mỹ với Đông Nam Á chắc chắn sẽ bị giảm sút một cách đáng kể. Khả năng hiệp
đồng lực lượng giữa Mỹ và các nước đồng minh Đông Nam Á sẽ bị ảnh hưởng
lớn. Cuộc khủng hoảng đã làm thay đổi nhận thức về an ninh của các nước trong
khu vực và tác động tiêu cực đến hợp tác an ninh của Mỹ với các nước này. như
vậy cuộc khủng hoảng này ngoài tác động về kinh tế, đã có tác động mạnh đến
quyền lợi an ninh của Mỹ trong khu vực cả trong giai đoạn trước mắt lẫn trong
giai đoạn sau này.
2. Tác động đối với Trung Quốc
Cuộc khủng hoảng này giống như một hồi chuông cảnh tỉnh cho Trung Quốc, vì
Trung Quốc cũng có nhiều vấn đề tương tự như ở các nước Đông Nam Á nói
chung. Tức là nền kinh tế cũng có thể bị sụp đổ vì đầu tư quá nhiều vào công
8
nghiệp mà sao nhãng khu vực sản xuất nông nghiệp. Đồng thời tình trạng bong
bóng do đầu tư vào khu vực bất động sản và chứng khoán, là tình trạng tham
nhũng tràn lan, và hệ thống tài chính, ngân hàng không mấy trong sạch và vững
chắc, nợ nần chồng chất. Tình trạng này sẽ gây khó khăn lớn cho các DNNN. Nếu
như Trung Quốc đẩy nhanh cải cách các DNNN, số người thất nghiệp sẽ gia tăng
nhanh chóng (trên 100 triệu người). Khi đó, tình trạng phức tạp sẽ phát sinh nhiều
và có thể tới mức trở thành khủng hoảng chính trị. Nếu Trung Quốc sụp đổ, toàn
bộ Đông Nam Á sẽ bị khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều.
Cuộc khủng hoảng tiền tệ Đông Nam Á hiện nay vẫn tiếp tục tác động tới nền kinh
tế Trung Quốc và có khả năng còn trầm trọng hơn Trung Quốc dự đoán rất nhiều.
Ví dụ, một số nhà máy ở tỉnh Sơn Đông từ cuối năm 1997 đã xuất hiện tình trạng
tăng trưởng âm, thậm chí có một số nhà máy tuyên bố phá sản. Từ đầu năm 1998
đến nay, nhiều công ty ngoại thương của Thượng Hải đã huỷ đơn đặt hàng, có một
số kéo dài thời hạn thanh toán, thậm chí có một số phải giảm giá để bán hàng. Gần
đây một quan chức của tổng công ty xuất nhập khẩu hàng dệt của Trung Quốc tiết
lộ rằng một số mặt hàng dệt của Trung Quốc năm nay không nhận được đơn đặt
hàng, một số tuy nhận được đơn đặt hàng nhưng bên mua lại yêu cầu ngừng thực
hiện. Điều này rất dễ hiểu vì thị trường, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Trung
Quốc cũng giống như của những nước Đông Nam Á. nhưng do đồng tiền của các
nước này bị phá giá nên đã nâng khả năng cạnh tranh của hàng hoá các nước này
lên so với của Trung Quốc. Điều đó đã đặt ra một thách thức lớn đối với hàng xuất
khẩu của Trung Quốc trên thị trường Mỹ và Tây Âu. Các mặt hàng công nghiệp
nhẹ như dệt túi da, giầy dép, điện da dụng đều bị hàng từ các nước Đông Nam Á
uy hiếp.
Về đầu tư, khả năng nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Trung Quốc sẽ giảm đi, vì
nguồn đầu tư vào Trung Quốc chủ yếu là từ các nước Đông Nam Á. Nay các nước
này đều đang bị khủng hoảng nên khả năng đầu tư ra nước ngoài của họ đều giảm
đi. Hơn nữa, chính bản thân các nước này đang không ngừng đưa ra những chính
9
sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài từ các
khu vực khác nhiều hơn nữa để nhanh chóng phục hồi nền kinh tế của mình. Điều
này đặt ra thách thức rất lớn cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp vào
Trung Quốc. như vậy, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của Đông Nam Á đã gửi
một thông điệp cảnh báo Trung Quốc rằng nếu họ không có những biện pháp kịp
thời, hữu hiệu thì họ chắc chắn sẽ sa lầy vào cuộc khủng hoảng tài chính như các
nước Đông Nam Á khác.
3. Tác động đối với Việt Nam
Có một số ý kiến cho rằng vì đồng tiền Việt Nam chưa chuyển đổi được, chưa
có thị trường chứng khoán và mới đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc
tế nên mức độ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam sẽ là rất nhỏ hoặc không có.
nhưng trái lại, cuộc khủng hoảng đã có nhiều tác động tiêu cực đến nền kinh tế
nước ta, chủ yếu tập trung vào những điểm sau :
Theo các số liệu ước tính thì khoảng 70% kim ngạch mậu dịch của Việt Nam
là với các nướcĐông Nam Á và chủ yếu được thanh toán bằng USD hoặc vàng.
nhưng khi đồng tiền ở Đông Nam Á bị phá giá mạnh sẽ tác động xấu tới các doanh
nghiệp có quan hệ làm ăn với các nước Đông A'. Ngoại trừ đồng đô la Singapore
và đồng Yên Nhật mới bị mất giá trên dưới 20%, còn các đồng tiền khác trong khu
vực đã bị phá giá từ 80% đến 250% so với đồng USD. Trong khi đó đồng tiền Việt
Nam mới chỉ mất giá chút ít, khoảng trên 10% so với đồng USD. Điều đó sẽ làm
cho hàng nhập khẩu từ các nước Đông Nam Á vào Việt Nam với mức rẻ gần như
tương ứng với mức phá giá của đồng tiền các nước. Do đó hàng nhập từ Đông
Nam Á sẽ lấn át hàng nội của chúng ta ngay tại thị trường Việt Nam. Chính điều
này đã khuyến khích các nhà xuất khẩu của Đông Nam Á tăng lượng hàng bán
sang Việt Nam, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam nhập hàng từ
Đông Nam Á do giá rẻ hơn bằng cả hai con đường chính ngạch và tiểu ngạch
(buôn lậu qua biên giới). Hiện nay, các doanh nghiệp trong cả nước ta còn tồn kho
nhiều hàng của Đông Á sẽ bị lỗ nặng vì giá các hàng hoá này giảm nghiêm trọng.
10
Đồng thời, do các đồng tiền Đông Nam Á bị phá giá ở mức cao, đã tạo sức ép đối
với hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Đông Á phải giảm giá, nếu
không họ sẽ không nhập hàng của ta. Do vậy nguồn thu vì xuất khẩu sẽ giảm vì
hai lẽ :
Thứ nhất, giá xuất khẩu hạ thì doanh nghiệp nhỏ sản xuất hàng xuất khẩu có thể
phải ngừng sản xuất vì doanh thu không đủ trang trải cho các yếu tố đầu vào.
Thứ hai, những doanh nghiệp lớn có thể tìm được thị trường khác khi bị ép giá,
nhưng lượng xuất khẩu giảm đi, đồng thời doanh thu cũng giảm xuống do giá xuất
khẩu hạ.
Riêng sáu tháng cuối năm 1997, lợi tức của Việt Nam chỉ tính từ xuất khẩu của
mặt hàng nông sản đã bị mất khoảng 500 triệu USD. Đồng thời, do giá cả dịch vụ,
sinh hoạt hiện nay ở Việt Nam đã cao tương đối,nên lượng khách du lịch vào Việt
Nam cũng bị giảm mạnh. Do đó, hệ số sử dụng phòng khách sạn chỉ đạt xấp xỉ
50%, kể cả các khách sạn cao cấp cũng trong tình trạng như vậy.
Do các đồng tiền Đông Nam Á bị phá giá với tỉ lệ lớn, nên đã tạo ra tình trạng
đầu cơ, găm giữ ngoại tệ ở nước ta. Tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương
mại luôn muốn vượt trần gây sức ép phá giá đồng tiền Việt Nam. Tình trạng mua
bán USD chuyển khoản theo tỷ giá vượt trần đã xảy ra. Đồng thời, khủng hoảng
đã làm cho lượng tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng chậm, tiền gửi bằng ngoại tệ
tăng nhanh kể cả tiền gửi tiết kiệm của dân chúng. Trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng và thị trường ngoại hối nói chung cầu luôn luôn cao hơn cung, do đó có
lúc thị trường gần như đóng băng, doanh số mua bán ngoại tệ giảm mạnh. Ngoại tệ
có nguy cơ tăng giá bất ngờ đã làm tăng nhu cầu vay vốn bằng đồng Việt Nam để
tránh rủi ro về tỷ giá và do vậy làm tăng lãi suất đồng Việt Nam. Ngoại tệ tăng giá
mạnh đã làm cho nhiều doanh nghiệp không mua được USD hoặc phải mua với
giá cao chịu lỗ nặng.
Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
vào Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng. Năm 1997, FDI chỉ bằng 70% so với
11
năm 1996. Đó là do 70% FDI vào Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông
Nam Á, là những nước đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Cho
nên cũng giống như đối với Trung Quốc, họ không muốn đầu tư vào nước ta vì
nhu cầu khắc phục kinh tế của bản thân nước họ.
Sự giảm sút của FDI cùng với nguy cơ phá sản đối với các công ty của Việt
Nam do khả năng xuất khẩu giảm hoặc do chi phí đầu vào tăng vì lãi suất vay vốn
tăng và do giá hàng nhập tăng đã tạo ra nguy cơ thất nghiệp tăng ở nước ta. Chỉ
tính trong 3 tháng cuối năm 1997, riêng các xí nghiệp liên doanh ở thành phố Hồ
Chí Minh đã sa thải 4000 công nhân vì họ phải thu hẹp các hoạt động hoặc bị giải
thể do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Năm 1997, cả nước có 47 dự án với
nước ngoài bị giải thể, tăng 162% so với năm 1996
Bài viết này vừa miêu tả một mô hình bong bóng và các cuộc khủng hoảng tài
chính xảy ra sau đó, điều thường thấy ở Đông Nam Á, Scandinavia và nhiều nước
khác. Người ta vẫn cho rằng một hệ thống tài chính, cho dù là dựa vào ngân hàng
hay thị trường, đều có thể dẫn đến chuyển đổi rủi ro và bong bóng về giá tài sản.
Điều này có thể lan tỏa tới nền kinh tế thực sự và dẫn đến khủng hoảng ngân hàng.
Chính sách nên trực tiếp để đảm bảo bong bóng giá tài sản không xảy ra bằng việc
giữ tăng trưởng tín dụng ở mức độ thích hợp và tránh không chắc chắn về chính
sách tài chính tương lai. Tuy nhiên, nếu bong bóng xảy ra và sự sụp đổ không thể
tránh khỏi trong bong bóng giá tài sản dẫn đến khủng hoảng ngân hàng, can thiệp
nhanh cóng để xóa bỏ vấn đề nợ treo là việc cần làm.
Trái với phân tích truyền thống, các tranh luận được trình bày bên trên cho thấy
rằng cơ cấu tài chính không quan trọng trong việc xảy ra khủng hoảng tài chính.
Chúng xảy ra ở cả hệ thống dựa vào ngân hàng hay dựa vào thị trường. Điều quan
trọng trong ngăn chặn khủng hoảng tài chính là các ngân hàng trung ương và
chính phủ tránh mở rộng tín dụng nhanh và sự giới thiệu về không chắc chắn trong
mức độ tín dụng tương lai.
Điều này ý muốn nói rằng cơ cấu tài chính không quan trọng. Các hệ thống dựa
12
vào ngân hàng có thể có tác dụng trong kích thích tăng trưởng ở các nền kinh tế
mà hầu hết các ngành công nghiệp đều liên quan đến sản xuất truyền thống và các
các chiến lược công nghệ và kinh doanh được biết đến rộng rãi. Chuyển đổi sang
hệ thống dựa vào thị trường không có tác dụng ở khía cạnh này.
Tóm lại có thể thấy cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á đã có những ảnh
hưởng nghiêm trọng không những đối với nền kinh tế của các nước trong khu vực
mà đối với cả các nước khác trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc và Việt Nam ta.
Trong thời đại toàn cầu hoá, rõ ràng rằng nếu một vấn đề dù là nhỏ của một nước
nào mà không được cộng đồng quốc tế cứu chữa kịp thời thì hậu quả của nó có thể
sẽ lan toả rất rộng và thiệt hại sẽ không thể đánh giá hết được. Đối với cuộc khủng
hoảng này, nếu Mỹ và các nước khác ngoài khu vực thờ ơ, không tích cực cứu
chữa, khi nó lan toả tới Trung Quốc và Hồng Kông, khó có thể dự đoán được mức
độ nghiêm trọng sẽ là như thế nào.
13