I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Năm 2008 - 2009 ngành giáo dục phát động phong trào thi đua “ Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, đây là bước tiến vượt bậc của ngành,
tạo cho giáo viên làm việc trong bầu không khí tích cực. Phong trào này giúp cho
việc giáo dục học sinh chủ động thân thiện hơn, tích cực hoạt động trong học tập,
bước đầu rèn luyện kĩ năng sống cho các em như: Học để biết. Học để làm. Học để
tự khẳng định mình. Học để cùng chung sống. Phong trào đã được bộ, sở, trường
học, tổ chuyên môn triển khai sâu rộng. Toàn ngành đã ra sức thực hiện phong trào
thi đua, đến nay đã thu được những thành tích đáng kể, đóng góp một phần không
nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục học sinh, thi đua dạy tốt, học tốt, đào
tạo nguồn nhân lực có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ để xây dựng đất nước.
Trường học hiện nay không những cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học
một cách có hệ thống, mà còn rèn cho các em những kĩ xảo, kĩ năng sống cần thiết
để hình thành và phát triển những phẩm chất tốt đẹp.
Năm học 2014-2015 ngành vẫn tiếp tục chỉ đạo các trường đẩy mạnh thực
hiện phong trào này với những yêu cầu cao hơn, thiết thực hơn, phù hợp với tình
hình thực tế của nhà trường. Để phong trào thi đua “Xây dựng được trường học
thân thiện, học sinh tích cực” thực sự có bề rộng và chiều sâu, đem lại hiệu quả
cao, thiết thực trong hoạt động dạy và học, giúp các em hứng thú, chủ động, sáng
tạo, có các mối quan hệ thật sự thân thiện, tôi luôn băn khoăn, trăn trở với bao câu
hỏi tự đặt ra cho bản thân: “ Làm thế nào để HS đi chuyên cần?”; “Làm thế nào
để các em hứng thú học tập hơn?”; “ Làm sao các em có cảm giác, mỗi ngày đến
trường là một niềm vui?” “ Làm sao giáo viên nói ít mà học sinh hiểu nhiều
hơn ?” Là một giáo viên chủ nhiệm tôi thấy rằng muốn xây dựng được trường học
thân thiện, học sinh tích cực thì phải bắt đầu từ việc xây dựng lớp học thân thiện,
học sinh tích cực. Vì mỗi lớp học thân thiện, học sinh tích cực là một viên gạch
nền móng vững chắc cho một ngôi trường thân thiện, học sinh tích cực hoàn thiện
và nhanh nhất. Chính những lí do trên đã thúc đẩy tôi nghiên cứu, trải nghiệm đồng
thời tích lũy những kinh nghiệm để thực hiện tốt phong trào “Xây dựng lớp học
thân thiện, học sinh tích cực”. Góp phần vào việc đào tạo thế hệ trẻ phát triển một
cách toàn diện đáp ứng thời kì mở cửa, hội nhập và phát triển của đất nước.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Thực tế cho thấy ngành giáo dục đã từng bước chuyển mình, có những thay
đổi đáng kể để phù hợp với thời kì đổi mới. Nội dung, phương pháp, hình thức dạy
học, cách đánh giá cũng được đổi mới, trường học ngày một khang trang nhưng
chất lượng giảng dạy vẫn còn hạn chế. Vẫn còn học sinh đi học chưa chuyên cần,
vẫn còn nhiều học sinh chưa chủ động, tích cực, tự giác học tập, không khí lớp học
không phải lúc nào cũng thoải mái… Vậy “Làm thế nào để các em hứng thú học
tập hơn?” “ Làm sao để các em có cảm giác, mỗi ngày đến trường là một niềm
vui?” “ Làm sao giáo viên nói ít mà học sinh hiểu nhiều hơn ?” “ Làm sao để các
1
em lĩnh hội tri thức một cách nhẹ nhàng, chủ động? ” Làm sao để huy động sức
mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng một môi
trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế của
trường, lớp, đáp ứng nhu cầu của xã hội, khắc phục được tính thụ động của học
sinh. Đó là một vấn đề rất nan giải, không phải giáo viên nào cũng làm được hay
làm được ở tất cả các tiết học.
Cha mẹ học sinh cũng chưa nhận thấy rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong
việc học của con cái. Sự thân thiện giữa giáo viên, học sinh, cha mẹ học sinh có
phần hạn chế.
Hiện nay nền giáo dục nước nhà đang chú trọng vào giáo dục con người phát
triển toàn diện. Để góp phần vào việc thực hiện mục tiêu chung của ngành, nâng
cao chất lượng dạy và học, đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực” ta cần phải có bước đột phá trong cách
nghĩ cũng như cách làm. Tiếp tục đẩy mạnh việc trang trí lớp, tạo môi trường học
tập thân thiện. Đẩy mạnh cách dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Nắm được dấu
hiệu đặc trưng của dạy học truyền thống và dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Xác định được các hoạt động mà giáo viên và học sinh có thể tiến hành trong dạy học. Tạo ra được môi trường học tập thân thiện trong giảng dạy và giáo dục để
cuốn hút học sinh tích cực, chủ động tham gia vào học tập, rèn luyện. Tạo được cơ
hội cho học sinh tự khám phá, tìm tòi. Để làm tốt được việc đó thì giáo viên phải tự
học, tự rèn để có một số kỹ năng cơ bản, cần thiết và vận dụng linh hoạt vào quá
trình dạy học. Người dạy cần thực hiện đúng vai trò của mình chỉ là người cố vấn,
tổ chức hoạt động, giúp đỡ và hỗ trợ các em học tập. Học sinh phải phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động học tập. Tuyên truyền, động viên,
khuyến khích được cha mẹ học sinh, các lực lượng khác cùng chung tay góp sức để
giúp đỡ các em trong quá trình học tập và rèn luyện.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh và giáo viên giảng dạy ở tiểu học. Cụ thể là giáo viên và học sinh
khối lớp 5 và khối 2 trường TH Phan Bội Châu.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Học sinh và giáo viên giảng dạy ở tiểu học. Cụ thể là giáo viên và học sinh
khối lớp 5 và khối 2 năm học 2013-2014 và 2014-2015 của trường TH Phan Bội
Châu.
Đề tài này trình bày những vấn đề liên quan đến 5 nội dung của phong trào
“Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm góp phần vào việc thực
hiện tốt nhiệm vụ năm học, đào tạo con người mới phát triển toàn diện.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau :
- Phương pháp thu thập, nghiên cứu, phân tích các tài liệu như công văn chỉ
2
đạo thực hiện phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực” của
các cấp, các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học, các tài liệu liên quan.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Dự giờ, trao đổi với đồng nghiệp.
- Dạy thực nghiệm, trải nghiệm thực tế.
- Kiểm tra bằng nhiều hình thức khảo sát chất lượng bám sát vào 5 nội dung
của phong trào từ đó đánh giá học sinh không chỉ về kiến thức mà cả các kĩ năng.
- Đúc rút kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận
Như mỗi chúng ta đã biết, một môi trường giáo dục tốt sẽ là nơi học sinh
phát triển nhân cách tốt. Các em thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui,
từ đó thêm yêu trường, yêu lớp, gắn bó với “Ngôi nhà thứ hai” của mình. Trang trí
lớp học thân thiện là một sự sáng tạo nhưng phải phù hợp với đặc điểm tâm lí của
học sinh tiểu học. Giúp học sinh cảm nhận được cái đẹp và có ý thức giữ gìn
trường lớp của mình sạch sẽ. Lớp học thân thiện phải là một lớp học không những
trang trí đẹp mà phải có ý nghĩa và mang tính giáo dục cao. Ngoài những qui định
về trang trí của ngành, giáo viên chủ nhiệm có thể sáng tạo thêm sao cho hài hòa,
đẹp. Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cũng là một việc làm hết sức quan
trọng. Việc làm này phải thực hiện thường xuyên, liên tục nhưng lại không có một
tiết học riêng biệt mà cần phải có sự linh hoạt trong việc tích hợp hài hòa của giáo
viên trong các môn học, tiết học. Giáo dục các em những kĩ năng sống cơ bản như
biết quan tâm, chia sẻ , động viên, thăm hỏi lẫn nhau...Hình thành cho các em luôn
có thái độ thân thiện trong giao tiếp với mọi người. Đối với mỗi giáo viên, để thực
hiện tốt nhiệm vụ trồng người, mỗi chúng ta cần tích cực học tập, rèn luyện, không
ngừng phấn đấu vươn lên để có cả đức và tài, thực sự là tấm gương sáng cho các
em noi theo. Vì ở lứa tuổi học sinh tiểu học khác với những lứa tuổi khác. Giáo
viên tiểu học tạo nền móng cho các em vươn lên. Nền móng có vững thì sự phát
triển của các em sau này sẽ vững chãi. Người thầy, cô ở tiểu học phải thực sự là
người cha, người mẹ thứ hai của các em để các em không có cảm giác sợ sệt mà
thay vào đó là sự kính trọng, thân thiện.
Ở tiểu học phần lớn các em rất tò mò, hiếu động, thích tham gia các trò chơi
tập thể. Chính vì vậy mà việc tổ chức cho các em tham gia vào các trò chơi tập thể
là một việc làm hết sức cần thiết. Thông qua các hoạt động“ Học mà chơi – Chơi
mà học” giúp các em dễ hòa đồng với bạn bè, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện.
Khi các lớp học đã học đã thực sự thân thiện, học sinh thực sự tích cực thì sẽ
góp phần tạo nên một trường học thân thiên – học sinh tích cực. Mối thân thiện
3
giữa thầy và trò, nhà trường với cha mẹ học sinh ngày một tăng thêm. Giúp các em
không những nắm được kiến thức một cách chủ động, nhẹ nhàng mà còn rèn cho
các em nhiều kĩ năng khác góp phần giáo dục con người mới, con người phát triển
toàn diện.
II. 2. Thực trạng
a) Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi
- Được Ban giám hiệu quan tâm trang bị tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất
như phòng học khang trang, có bảng chống loá, tủ đựng đồ dùng, thiết bị dạy học,
bàn ghế đầy đủ... Hàng năm nhà trường mua sắm bổ sung thiết bị dạy học, giáo
viên thường xuyên tự làm đồ dùng để dạy học. Đội là một tổ chức hỗ trợ tốt cho
việc thực hiện phong trào này.
- Được Phòng giáo dục, Ban giám hiệu tạo điều kiện cho tham gia lớp tập
huấn và cung cấp đầy đủ các văn bản có liên quan đến việc chỉ đạo thực hiện các
nhiệm vụ và phong trào thi đua.
- Một số cha mẹ học sinh đã quan tâm đến việc học của con, phối kết hợp
với giáo viên giúp các em học tập, rèn luyện tốt. Đóng góp đầy đủ để xây dựng
trường. Không những đóng góp kinh phí mà còn tự nguyện tham gia ngày, giờ
công để góp phần xây dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp.
- Một số học sinh đã có ý thức trong học tập, rèn luyện, tích cực hưởng ứng
phong trào thi đua.
- Đây chính là kim chỉ nam giúp tôi càng hăng say nghiên cứu đề tài này.
* Khó khăn
- Học sinh còn nhỏ nên khả năng giao tiếp còn hạn chế, bên cạnh đó só em
lại ở trọ hoặc sống với cô, dì, ông bà, sự dạy bảo, điều chỉnh các em thực hiện kĩ
năng soosngs còn hạn chế.
- Đồ dùng dạy học trong nhà trường chưa được được phong phú, đa dạng.
- Để kích thích tính tự giác, tích cực, độc lập của học sinh và tạo hứng thú
học tập cũng như tích cực hưởng ứng phong trào thi đua cho học sinh, đòi hỏi ở
người giáo viên rất nhiều điều. Trước hết phải có tay nghề vững vàng, phải biết
yêu nghề, mến trẻ, tức là phải có năng lực sư phạm, phải thực sự coi mình là người
mẹ thứ hai của các em, gần gũi để các em tâm sự, giãi bày.
- Một số đồng nghiệp không ủng hộ vì để làm được việc đó phải mất nhiều
công sức, thời gian. Một khó khăn nữa là khả năng cảm nhận cái đẹp của mỗi giáo
viên khác nhau, người thì khéo léo trong việc trang trí nhưng phần lớn giáo viên
lớn tuổi thì họ không hứng thú với điều này. Một số giáo viên vẫn còn chỉ coi trọng
việc dạy kiến thức cho học sinh mà ít quan tâm tới giáo dục kĩ năng cho các em.
Cũng có giáo viên đã quan tâm tới việc tích hợp giáo dục kĩ năng nhưng khả năng
4
tích hợp chưa linh hoạt.
- Để thực hiện được đề tài này đòi hỏi giáo viên phải tìm tòi, chịu hy sinh
thời gian của mình để học hỏi, đưa ra nhiều tình huống có thể xảy ra để có hướng
giải quyết, phải nhiệt tình, hết lòng vì học sinh. Bước đầu thực hiện nên còn gặp
nhiều bỡ ngỡ, chưa có tính linh hoạt.
- Thời gian được tập huấn nội dung này còn ít, giáo viên chưa được tham
quan mô hình thực hiện cụ thể mà chỉ mới chỉ thực hiện thông qua học lý thuyết
hiểu sao thì làm vậy.
- Học sinh chưa quen với cách học mới, một số em chưa đủ đồ dùng để tham
gia học, chưa có ý thức học tập.
- Một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến việc học và còn thờ ơ đến việc
trang bị đồ dùng học tập cho các em, đóng góp còn chậm. Một số cha mẹ còn coi
nặng việc học kiến thức, xem nhẹ việc giáo dục các kĩ năng sống cho các em.
b) Thành công, hạn chế
* Thành công
- Lớp học trang trí đẹp, hài hòa, học sinh thích đến lớp, yêu quí lớp, khơi
dậy cho học sinh phải trăn trở mình phải đóng góp gì vào đây để lớp mình thêm
đẹp từ đó các em tìm tòi và thể hiện tài năng của mình có thể là vẽ, viết, xé dán...
- Học sinh thoải mái trao đổi, thắc mắc trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến
thức mới. Nắm, ghi nhớ được chắc kiến thức ngay tại lớp.
- Không khí lớp học tươi vui, tất cả học sinh đều phải làm việc, pháp huy
được tính chủ động, tích cực của học sinh, các hoạt động của lớp có sự thay đổi rõ
rệt. Các em biết quan tâm tới nhau hơn, tự giác giúp đỡ nhau trong học tập cũng
như vui chơi. Lớp học trở thành một khối đoàn kết thống nhất, tích cực thi đua học
tập và tham gia các phong trào mà các cấp phát động.
- Giáo viên điều chỉnh được những suy nghĩ chưa đúng đắn, còn lệch lạc,
mơ hồ ở học sinh. Tạo được mối quan hệ thân thiện trong giao tiếp với học sinh
giúp khoảng cách giữa giáo viên và học sinh gần gũi hơn. Giảng dạy, giáo dục học
sinh không chỉ là kiến thức của bài mà giáo dục toàn diện cho học sinh như các kỹ
năng giao tiếp, kĩ năng ứng xử ...
- Giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc thông qua các trò chơi dân gian,
hiểu để từ đó giữ gìn và phát huy được giá trị văn hóa của dân tộc, địa phương.
* Hạn chế
Một số giáo viên chưa hiểu rõ về tầm quan trọng, tính giáo dục của việc
trang trí, cứ thấy đẹp là dán lên nên việc trang trí chưa khoa học, lòe loẹt, phòng
học tối vì trang trí nhiều hoa lá trên cửa sổ. Bước đầu thay đổi cách dạy học mới,
phần đa giáo viên thấy ngại, để học sinh tự nêu câu hỏi, tự nêu kiến thức mà mình
biết được sẽ làm thì mất thời gian vì vậy chọn lối dạy học cũ là làm thay, nói giùm
5
học sinh để đảm bảo thời gian và tránh được người khác đánh giá nề nếp lớp học
không nghiêm túc. Giáo viên gặp phải tình huống sư phạm khó xử mà học sinh đưa
ra sẽ bị lúng túng, e ngại với học sinh. Một số giáo viên sợ mất thời gian nên thực
hiện việc tích hợp giáo dục kĩ năng sống còn qua loa, đại khái, chưa có hiệu quả
cao. Một số giáo viên chưa thực sự nhiệt tình, năng động thì việc hướng dẫn học
sinh tham gia trò chơi dân gian, tìm hiểu, phát huy các giá trị văn hóa ở địa phương
còn rất nhiều hạn chế.
- Một số ít học sinh nhút nhát, chưa tự tin trước tập thể thì không thích tham
gia.
c) Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
- Khơi dậy ở các em tính thẩm mĩ, sự sáng tạo trong trang trí cùng với ý thức
muốn góp sức để làm đẹp lớp. Phát huy tinh thần đoàn kết, ý thức vì tập thể của
học sinh.
- Học sinh chủ động tiếp thu kiến thức, giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ
chức cho các em tìm tòi, khám phá kiến thức vì vậy nên các em hiểu bài sâu hơn,
ghi nhớ bền lâu hơn. Tránh được tình trạng giáo viên nói nhiều, chỉ mải thuyết
trình mà không biết học sinh nắm được gì? Nắm được đến đâu để có hướng khắc
phục, điều chỉnh kịp thời. Tất cả các đối tượng học sinh đều được tham gia bày tỏ
ý kiến. Tạo cho các em có tính nhút nhát mạnh dạn hơn. Tạo môi trường thân thiên
trong quá trình giảng dạy.
- Các em nhanh nhẹn, hoạt bát hơn khi tham gia các trò chơi và các hoạt
động tập thể. Tự tin, mạnh dạn trong cuộc sống, khả năng giao tiếp tốt, có những kĩ
năng cơ bản để ứng xử kịp thời.
* Mặt yếu
Nếu giáo viên không có sự tìm tòi, sáng tạo, chuẩn bị bài chưa chu đáo,
không lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp thì tiết học dẫn đến nhàm chán. Có thể
gặp phải tình huống khó xử khi học sinh hỏi. Từ đó sẽ lúng túng, mất tự tin khi
dạy, không linh hoạt và có kỹ năng sư phạm tốt thì sẽ làm mất lòng tin tưởng ở học
sinh.
- Nếu giáo viên không khôn khéo trong việc tận dụng các nguồn lực thì sẽ
không có nguồn kinh phí để thực hiện. Cái gì cũng thuê làm thì cũng không kích
thích được sự sáng tạo của học sinh và trách nhiệm, ý thức của các em trong việc
bảo vệ, giữ gìn, thái độ tham gia sẽ không được nâng cao.
d) Nguyên nhân
- Trường học được xây dựng kiên cố, nhưng chưa được trang bị đầy đủ
các thiết bị đồ dùng dạy học cho tất cả các tiết học, phòng ngoại ngữ, phòng âm
nhạc, khu vui chơi, bãi tập...
6
- Học sinh còn nhỏ, một số em ở xa đi lại còn khó khăn, nhất là lúc trời mưa.
- Địa phương còn nhiều khó khăn, có nhiều học sinh thuộc hộ gia đình hộ
nghèo và cận nghèo.
- Một số cha mẹ các em đi làm xa nhà, để con ở trọ hoặc gửi cho họ hàng
nên việc quan tâm đúng mức tới các em còn rất nhiều hạn chế.
- Các em học sinh tiểu học còn nhỏ, còn ham chơi, chưa ý thức hết được tầm
quan trọng của việc học tập, chưa tự giác học tập. Còn nhiều em đi học muộn, đi
học chưa chuyên cần vì ngủ quên..., có em không có đủ sách vở và đồ dùng để học
tập. Vì vậy trong giờ học các em không có đồ dùng để thực hành, để trải nghiệm
nên ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt kiến thức cũng như các kỹ năng cần thiết của
tiết học.
- Phần lớn ở lứa tuổi này các em đều có tính hiếu động, tò mò, muốn được
giải thích thắc mắc hay một điều gì mà trong quá trình khám phá các em chưa hiểu.
Thích bày tỏ để các bạn và cô giáo thấy được kết quả khám phá của mình dù đúng
hay sai. Nếu không nắm được đặc điểm của lứa tuổi thì việc giáo dục gặp rất nhiều
trở ngại.
- Để đảm bảo các chỉ tiêu của trường, lớp, ngành đề ra, các áp lực công việc
về thời lượng tiết dạy, mục tiêu bài học, kết hợp giáo dục lồng ghép, phân hóa đối
tượng học sinh, hồ sơ giáo viên….Không ít giáo viên đôi khi quá nóng vội trong
việc giáo dục học sinh để đảm bảo những chỉ tiêu và hoàn tất các công việc đó.
Chính vì lí do trên, giáo viên dễ rơi vào tình trạng áp đặt, nhồi nhét kiến thức, răn
đe, hình phạt, roi vọt, gò bó học sinh, chưa lắng nghe tâm tư nguyện vọng tình cảm
của các em . Việc đánh giá sửa sai còn khắt khe, chưa dân chủ. Làm cho các em
cảm thấy mệt mỏi, chán nản, sợ học, triệt tiêu sự ngây thơ, ham học hỏi, tính tích
cực, sôi nổi của các em.
- Một số giáo viên chưa thường xuyên tự bồi dưỡng thêm những kiến thức
và kĩ năng sư phạm cũng như các kiến thức tâm sinh lí trẻ thường xuyên nên đôi
khi thấy lúng túng trong các tình huống sư phạm. Giáo viên không chuẩn bị đồ
dùng dạy học cho một tiết dạy, dạy chay, dạy một chiều tiết học không sinh động.
Sự định hướng đúng đắn của giáo viên có vai trò rất quan trọng trong mọi hoạt
động. Nếu ta chủ quan, lơ là thì kết quả không những không có tính giáo dục mà
còn làm mất đi sự hứng thú tham gia của học sinh và cha mẹ các em. Đó cũng là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng yếu kém, chán học, bỏ học, thụ động, nhút nhát,
mất tự tin, chưa thực sự yêu trường, mến lớp của học sinh.
e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra.
- Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện về sơ sở vật chất, trang thiết bị cho việc
dạy và học. Thường xuyên động viên khuyến khích giáo viên đổi mới
phương pháp, tăng cường làm đồ dùng phục vụ giảng dạy, nâng cao mối quan hệ
thân thiện giữa thầy và trò, cha mẹ học sinh với giáo viên. Thông qua việc dự giờ
7
góp ý cho giáo viên đổi mới cách dạy, cách trang trí lớp nhằm cuốn hút, tạo hứng
thú cho các em trong học tập. Tổ chức các chuyên đề để giáo viên được trao đổi,
học tập lẫn nhau. Tổ chức thi làm đồ dùng dạy học. Hàng tháng có kiểm tra việc tự
làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên và kiểm tra đột xuất việc
chuẩn bị đồ dùng của học sinh, cách trang trí lớp của các lớp.
- Một số giáo viên ngại đổi mới cho rằng kiến thức đơn giản, xưa nay vẫn
dạy vậy mà học sinh vẫn lên lớp, vẫn trưởng thành nên cứ thế mà làm, không cần
phải mất thời gian nghiên cứu chuẩn bị, vừa tốn kém thời gian nghiên cứu, thời
gian làm đồ dùng, tốn kinh phí. Họ chưa hiểu được rằng kiến thức đó sẽ đọng lại
trong đầu các em bao lâu, giúp ích gì cho các em trong cuộc sống. Bên cạnh việc
nắm kiến thức đó học sinh còn có thêm các kỹ năng gì để vận dụng vào cuộc sống,
góp phần giáo dục con người mới phát triển toàn diện phù hợp với tình hình đất
nước thời kỳ đổi mới.
- Đồ dùng dạy học và các thiết bị dạy học được nhà trường bảo quản tốt,
hàng năm được mua sắm thêm. Mỗi năm giáo viên lại làm thêm nhiều đồ dùng để
phục vụ dạy học. Phần lớn vẫn là đồ dùng mong hỏng, rẻ tiền.
- Phương pháp dạy học cũ đã ăn sâu vào một số giáo viên lớn tuổi, ngại đổi
mới. Để thay đổi được quả là một vấn đề khó khăn. Qua tập huấn, chuyên đề, dự
giờ, góp ý họ cũng một phần nào nắm được phương pháp mới song sự vận dụng
còn gò bó, chưa linh hoạt, chưa thường xuyên nên kết quả giảng dạy chưa cao.
- Cha mẹ học sinh của một số em thường xuyên quan tâm, kết hợp với giáo
viên để giúp con học tập thì các em đó tiếp thu tốt bài. Bên cạnh đó có một số cha
mẹ học sinh do điều kiện kinh tế khó khăn lo lao vào làm kinh tế nên chưa có thời
gian quan tâm đến sát sao đến con cái. Không cần qua tâm đến thái độ, hành vi,
cách ứng xử của các em. Đồ dùng học tập, sách vở của các em còn thiếu, đi học
còn quên đồ dùng. Vì vậy trong giờ học các em không có đồ dùng để thực hành, để
trải nghiệm nên ảnh hưởng lớn đến việc nắm bắt kiến thức cũng như các kỹ năng
cần thiết của tiết học. Trong cuộc sống các em chưa mạnh dạn, tự tin, ứng xử chưa
thân thiện trong giao tiếp, chưa có kĩ năng ứng xử, đối phó kịp thời khi gặp tình
huống trong đời sống hằng ngày.
- Học sinh phần lớn rất thích học theo phương pháp dạy học mới vì các em
được thoải mái hơn, thích thú hơn, hiểu bài hơn nên càng có hứng thú học tập. Bên
cạnh đó một số em tính nhút nhát thì không thích giao lưu, tiếp xúc với bạn, với
giáo viên. Một số em không có đồ dùng thì lo sợ khi nghe yêu cầu mang đồ dùng
ra học. Trước những vấn đề đó giáo viên cần có biện pháp kết hợp với cha mẹ các
em tốt hơn, tham mưu với hội cha mẹ học sinh của trường, lớp và các đoàn thể để
giúp đỡ các em. Tạo cho các em không những nắm tốt nội dung kiến thức mà còn
có được những kỹ năng cơ bản của tiết học, mạnh dạn hơn trước tập thể.
III. 3. Giải pháp, biện pháp
a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
8
- Nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà
trường xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với
thực tế của trường, lớp. Tạo cho các em thực sự yêu trường, mến lớp thấy được
mỗi ngày đến trường thực sự là một ngày vui.
- Giúp học sinh có hứng thú trong học tập, thu hút được tất cả học sinh vào
quá trình học. Học sinh chủ động, tích cực học tập, ghi nhớ kiến thức sâu hơn, kĩ
hơn, tiết học không nặng nề, đơn điệu. Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, thân thiện
nhưng vẫn đảm bảo được việc giáo dục toàn diện cho học sinh về thái độ, tình cảm,
thẩm mĩ...Cập nhật được những vấn đề xung quanh gắn với đời sống thực tế của
học sinh. Phát huy được tính năng động, sáng tạo trong các em.
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp.
Qua những năm thực tế giảng dạy, tìm tòi học hỏi trên các phương tiện và
qua trao đổi với đồng nghiệp tôi rút ra được một số kinh nghiệm để “ Xây dựng lớp
học thân thiện, học sinh tích cực” như sau:
* Công tác tham mưu
- Làm tốt công tác tham mưu với lãnh đạo nhà trường để nâng cao về chất
lượng sơ sở vật chất, thiết bị dạy học. Mua sắm thêm tài liệu tham khảo, máy
chiếu, đồ dùng phục vụ tốt cho việc dạy và học. Tổ chức có chất lượng các chuyên
đề để học tập, trao đổi kinh nghiệm dạy học. Tổ chức dự giờ tập trung để cùng góp
ý cho nhau tiến bộ. Triển khai các sáng kiến kinh nghiệm có chất lượng để cùng
học tập. Đăng kí mua báo, tập san về giáo dục thời đại...
- Tham mưu tốt với Ban tự quản thôn nơi học sinh cư trú để tuyên truyền,
vận động tốt việc đưa con em đến trường học đúng độ tuổi và trách nhiệm của cha
mẹ đối với việc học của con cái.
- Tham mưu với Ban chấp hành hội cha mẹ học sinh, cùng với họ vận động,
tuyên truyền, giúp học sinh, phụ huynh tháo gỡ, khắc phục khó khăn tạo điều kiện
giúp các em học tốt.
- Kết hợp tốt với các đoàn thể trong nhà trường để giáo dục các em.
- Kết hợp chặt chẽ với cha mẹ học sinh để có biện pháp điều chỉnh, giúp đỡ
các em kịp thời.
* Tìm hiểu lí lịch của học sinh
Khi nhận lớp tôi bắt đầu ngay vào việc tìm hiểu lí lịch của học sinh cũng
như lực học và sự rèn luyện của các em. Nhận xét mối quan hệ của các em trong
lớp từ đó phân chia các đối tượng vào các tổ, các nhóm có đủ các thành phần giỏi,
yếu, có hoàn cảnh khó khăn, hoàn cảnh tốt. Cũng từ đây mà các em có mối quan hệ
ràng buộc lẫn nhau vì vậy các em sẽ quan tâm và giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện tốt
nhiệm vụ giáo viên giao.
* Tổ chức họp cha mẹ học sinh đầu năm
9
Nhằm báo cáo tình hình lớp, vận động sự hỗ trợ của cha mẹ học sinh vào
việc dọn vệ sinh trường lớp đầu năm, việc hỗ trợ lớp thời gian để lau mạng nhện,
lau nhà đối với học sinh lớp 2. Tuyên truyền, vận động cha mẹ các em tham gia
xây dựng “ Thư viện thân thiện” của lớp để giúp đỡ các bạn có hoàn cảnh khó khăn
có sách, vở, đồ dùng để học tập. GV đưa ra mục tiêu, lấy ý tưởng của cha mẹ học
sinh, thảo luận, thống nhất việc đóng góp và trang trí lớp cùng với việc giáo dục
các em phát triển toàn diện.
* Tăng cường công tác trang trí lớp học
- Không khí lớp học xanh, sạch, đẹp, an toàn thân thiện là yếu tố rất quan
trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học một luồng
không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ
năng sống cho học sinh. Các khẩu hiệu trong lớp mang ý nghĩa quan trọng, mang
tính giáo dục cao “ Dạy tốt, học tốt”, “Mỗi ngày đến lớp là một niềm vui”, nội qui
học sinh, bảng ghi năm điều Bác Hồ dạy. Vì thế giáo viên cần phải giải thích để
các em hiểu được nội dung, ý nghĩa của mỗi bảng, mỗi khẩu hiệu. Di ảnh Bác Hồ
được treo nơi trang trọng nhất, dễ thấy. Giáo dục lòng kính yêu nhớ ơn Bác Hồ,
lòng yêu nước.
- Thường xuyên nhắc nhở học sinh giữ gìn tài sản chung của nhà trường từ
chỗ ngồi, cửa sổ, lớp học, hành lang cho đến sân trường, “ Hãy giữ gìn tài sản
chung của chúng ta”.
- Lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng lại đạt được kết quả cao như: “Cho tôi xin
rác!” hay “Tắt đèn, tắt quạt bạn nhé!” nhằm nhắc nhở các em có ý thức tự giác
giữ vệ sinh trường lớp, tiết kiệm điện.
- Lớp có đủ ánh sáng, quạt, lọ hoa, cây xanh, tạo không khí thật sự thoải
mái, thân thiện gần gũi với thiên nhiên hơn. Bàn giáo viên có khăn trải bàn, lọ hoa,
tủ đồ dùng phải gọn gàng sắp xếp khoa học, sạch đẹp, dễ đưa vào sử dụng.
- Huy động học sinh và cha mẹ các em cùng tham gia xây dựng “ Tủ sách
thân thiện”của lớp, tạo điều kiện cho các em ham đọc sách, mở rộng hiểu biết, phát
triển khả năng đọc cho các em. Rèn kĩ năng và trách nhiệm bảo quản tài sản chung,
gọn gàng, ngăn nắp.
- Vườn hoa học tập, bảng danh dự, phản ánh rõ ràng, chính xác, công khai
kết quả học tập của mỗi em tư đó kích thích học sinh tích cực học tập để đạt được
kết quả cao hơn.(như hay có tên mình trên bảng danh dự, tên mình có nhiều bông
hoa hơn..)
- Sử dụng cuối lớp làm Bảng tin lớp em được trang trí đẹp, nội dung phong
phú, phù hợp lứa tuổi của các em.
10
HÌNH ẢNH TRANG TRÍ LỚP CỦA LỚP
11
- Chuyên mục: “Người tốt việc tốt” đưa tên các bạn đã làm được những việc
tốt trong tuần, tháng), tạo động lực cho học sinh làm nhiều điều tốt hơn, lớp ngày
càng thân thiện hơn.
- Ai tài thế ? Đây là nơi trưng bày những sản phẩm đẹp của các em trong
môn thủ công( Kĩ thuật), Mĩ thuật. Nội dung trưng bày này nhằm kích thích khả
năng sáng tạo của các em.
- Mục văn hay chữ đẹp( lưu lại các bài văn hay, chữ viết đẹp của học sinh).
Tạo động lực cho các em có gắng viết chữ đẹp hơn, làm văn hay hơn.
- Góc ôn luyện nè! ( Bảng cộng, trừ, nhân, chia các qui tắc môn toán...). Rèn
các em có ý thức chủ động trong học tập, ôn tập kiến thức vào thời gian đầu giờ và
giờ ra chơi.
- Ca dao, tục ngữ là mục dành cho học sinh sưu tầm, GV trình bày lại theo
các chủ điểm của tháng) nhằm mở rộng vốn từ, vốn hiểu biết.
- Bức ảnh do HS sưu tầm về cảnh đẹp, di tích lịch sử, làng nghề của các dân
tộc nơi mình sinh sống được bố trí vào mục “Đăk Lăk mến yêu!” Mục này có tác
dụng giúp các em hiểu thêm về quê hương con người quê mình, đồng thời các em
cũng giúp các em tự tin vào bản thân, yêu lao động, yêu quê mình hơn.
- Tưởng là bình thường nhưng lại góp phần quan trọng là mục“Điều em
muốn nói !” Mục này dán một cái hộp giấy để HS viết ý kiến, tâm tư của mình để
vào đó. Tạo điều kiện cho các em mạnh dạn nói lên những suy nghĩ của mình về
thầy cô, bạn bè, các mối quan hệ hằng ngày, góp phần thực hiện tốt quyền trẻ em,
GV hiểu HS của mình hơn, giúp giải quyết những khó khăn trong suy nghĩ của các
em. Cải thiện tốt mối quan hệ thầy - trò, trò - thầy.
- Tùy theo từng khối lớp, GV có thể biến đổi bản tin này phù hợp lứa tuổi
HS lớp mình.
* Đầu tư vào công tác giảng dạy
- Tập trung đầu tư cao cho công tác giảng dạy tích cực hóa hoạt động dạy
học, GV chủ động, sáng tạo, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học.
Chuyển từ chủ yếu cung cấp những kiến thức sang trang bị những năng lực cần
thiết cho các em. Tạo điều kiện cho HS phát huy mọi năng lực, phát hiện khả năng
của mình giúp các em tích cực, chủ động, tự giác, tự tin, có niềm vui trong học tập.
Từ đó hoạt động học tập trở nên nhẹ nhàng thoải mái, thiết thực, có hiệu quả hơn.
- Một tiết dạy để đạt được hiệu quả cao cần đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Đối với giáo viên:
- Tích cực tự học, tự rèn để nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với thời
kỳ đổi mới. Thường xuyên đọc sách báo, các tạp chí, học tập mọi nơi, mọi lúc trên
các thông tin đại chúng để có thêm kiến thức và kỹ năng sư phạm.
- Mỗi giáo viên phải thực sự là tấm gương sáng về đạo đức, tự học cho HS
12
noi theo. Nghiên cứu kĩ bài, sưu tầm tài liệu phục vụ tốt cho bài dạy, soạn bài có
chất lượng, xác định được mục tiêu, trọng tâm kiến thức của bài học. Bám sát
chuẩn kiến thức kĩ năng, phân hóa đối tượng học sinh để dạy. Lựa chọn các hình
thức, phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Đối
với học sinh các biệt, những em chậm tiến thì làm tốt công tác chủ nhiệm đối với
giáo viên quả là thử thách lớn. Vì vậy người giáo viên phải có “cái tâm với nghề”
phải kiên trì, hiểu được tâm lí lứa tuổi ở trẻ, khéo léo trong ứng xử, đặt biệt là yêu
trẻ. Giao việc phải phù hợp với khả năng của các em ( VD: HS yếu mỗi ngày luyện
đọc 4 câu trong bài tập đọc rồi đọc cho cả lớp nghe. Có thể tăng dần số câu lên,
nên khen khi các em đó đã có chút tiến bộ như: “Em đã có tiến bộ hơn rồi, cố gắng
lên chút nữa em nhé !”. Câu nói nhẹ nhàng như thế nhưng mang lại hiệu quả cao.
- Tổ chức mô hình đôi bạn học tập, để các em đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ. Tạo cơ hội để các em này phát huy hoàn thành nhiệm vụ, tin tưởng vào bản
thân. Hướng các em có niềm tin: “Mình cũng có thể học giỏi như các bạn khác”.
Tạo động lực để các em cố gắng.
- Nếu GV có phương pháp giáo dục hợp lí thì HS dù có cá biệt đến đâu cũng
sẽ vươn lên thành một học trò ngoan được. GV cần có cái nhìn thiện cảm với HS
cá biệt để các em mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ, khó khăn của mình. Nếu vì hoàn cảnh
gia đình khó khăn, không cha, mất mẹ, không được gia đình quan tâm đúng
mức.Tôi vận động nhà trường, địa phương, các bạn trong lớp tặng sách vở, dụng cụ
học tập, quần áo, cặp để các em giảm bớt khó khăn, có niềm vui. Từ đó thắt chặt
tình nghĩa thầy trò, bè bạn. Vận động gia đình tiếp tục động viên khuyến khích con
em mình cố gắng học tập. Đối với những HS bị lôi kéo, có suy nghĩ lệch lạc, trốn
học đi chơi, chọc phá bạn, có những biểu hiện lệch lạc về đạo đức. Tôi đã tìm hiểu
HS đó qua người thân, bạn bè. Kết hợp với gia đình, Đội, động viên, hướng dẫn,
phân tích những điều lợi hại nhằm dẫn dắt các em có suy nghĩ, việc làm đúng đắn
hơn, hòa nhập lại với môi trường giáo dục.
- Chuẩn bị tốt hệ thống câu hỏi cho bài học và cho từng đối tượng học sinh.
Chú ý phát triển bồi dưỡng HS khá giỏi bộ môn. Dự kiến những sai lầm của
HS(nếu có)và cách khắc phục, có kế hoạch bồi dưỡng HS yếu trong từng tiết dạy.
- Ví dụ: Môn tập đọc: HS Khá giỏi đọc phân vai, thi đua đọc diễn cảm đoạn,
toàn bài, trả lời các câu hỏi khó trong và ngoài bài. Còn HS yếu đọc câu, đoạn
ngắn và trả lời các câu hỏi dễ hơn trong bài. Có thể chẻ nhỏ các câu hỏi cho phù
hợp với khả năng của các em. Chỉ cần các em này đọc được một lần được GV và
các bạn tuyên dương lần sau các em này sẽ có tiến bộ rõ rệt.
+ Đồ dùng dạy học không chỉ truyền thụ thông tin mà còn là quá trình của
truyền thụ tri thức, giáo dục tư cách, rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS. Nó điều
khiển mọi hoạt động nhận thức của HS từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng. Góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, khắc phục tình trạng dạy học một
chiều, gây hứng thú, khuyến khích tư duy cho HS, hiểu bài, khắc sâu kiến thức. Vì
vậy đồ dùng dạy học phải phát huy hết tính sư phạm, rõ ràng, bắt mắt, đủ lớn, phù
13
hợp nội dung bài học, bao gồm(Tranh ảnh, vật thật, bản đồ, biểu đồ, dụng cụ sắm
vai..). Đồ dùng không chỉ được sử dụng trong hình thành kiến thức mới mà còn
được sử dụng ở các tiết ôn tập, trò chơi củng cố.
Ví dụ: Kể chuyện: “Chuyện bốn mùa”(Lớp 2) với nhân vật là bốn nàng tiên,
bà Đất, nếu không có dụng cụ sắm vai, các em sẽ khó phân biệt được bạn nào đóng
vai nào? Hoạt động sắm vai khuyến khích HS mở rộng vốn từ, phát huy khả năng
sáng tạo của HS.Nếu dụng cụ sắm vai đẹp, phù hợp, thì hoạt động này không chỉ
dành riêng cho các bạn khá, giỏi mà cho cả HS trung bình yếu nữa. Vì HS những
em này cũng muốn được thành những nàng tiên xinh đẹp nên các em cố gắng nhớ
lời thoại của nhân vật qua việc đọc tập đọc nhiều lần. Giúp HS tự tin vào bản thân
mình, ngày càng thân thiện hơn.
+ Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để tạo không khí học tập sôi
nổi vì hình ảnh, màu sắc, âm thanh, sinh động đẹp. Dễ dàng thu hút tất cả các em
vào hoạt động học tập.
+ Phiếu giao việc trong các tiết dạy có tác dụng nhằm hướng tới mục tiêu: “
GV nói ít, học sinh hiểu được nhiều”. Giảm bớt bệnh nói nhiều, giảng nhiều của
GV, tăng thời gian tư duy luyện tập của HS. Phối hợp nhịp nhàng giữa thầy và trò,
trò và trò, tìm ra kiến thức mới.
+ Lựa chọn hình thức và phương pháp dạy học đặt trưng của môn học:
- Việc lựa chọn hình thức và phương pháp giảng dạy cũng tùy thuộc vào nội
dung và mục đích cụ thể của bài. Nghiên cứu, lựa chọn phương pháp dạy học sao
cho phù hợp sẽ giúp tiết dạy không quá nặng nề nhưng lại sôi nổi, thân thiện và đạt
được hiệu quả cao nhất.
- Những kiến thức mà các em có ích nhiều kinh nghiệm hoặc chứa đựng các
hiểu biết khác nhau, chúng ta tổ chức theo nhóm để rèn luyện khả năng trình bày,
đi đến thống nhất ý kiến. Qua đó HS dễ nhớ kiến thức,nhớ sâu sắc và bền vững
hơn. Cần thường xuyên thay đổi nhóm trưởng để mỗi em có cơ hội phát huy bản
lĩnh, năng lực tự tin hơn. GV nhận xét sửa sai nhẹ nhàng, đừng quá khắc khe mà
kịp thời động viên, tuyên dương các em HS nhút nhát, chậm tiến ở khía cạnh khác.
+ Tổ chức các trò chơi học tập để GV và HS thân thiện nhau hơn, giảm bớt
căng thẳng mệt mỏi, tăng khả năng tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức, giáo dục kĩ
năng sống.
+ Việc đánh giá học sinh phải được thực hiện tường xuyên, kịp thời, chính
xác, công tâm, phản ánh đúng sức học, những tiến bộ, năng khiếu của HS qua từng
tháng, từng phân môn. Kiểm tra phải được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo khách
quan, công bằng. Thường xuyên liên hệ với cha mẹ các em để trao đổi những ưu
điểm và hạn chế của HS để có hướng giúp đỡ các em phát huy ưu điểm, khắc phục
kịp thời tồn tại.
+ Đối với học sinh:
14
- Giúp HS nhận ra được: “Mỗi ngày đến trường là một niềm vui, nhưng vui
để học”, có trách nhiệm với mọi người.
- Đến lớp có đủ sách vở, dụng cụ học tập.
- Chuẩn bị bài trước khi đến lớp.
- Tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, địa phương như: Múa
hát sân trường, sinh hoạt Sao Nhi đồng. Thi vẽ tranh về nhà giáo, về môi trường,
về an toàn giao thông… Thi làm báo ảnh chào mừng ngày 20/11.Thi kể chuyện về
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thi viết chữ đẹp cấp trường, cấp huyện. Nhặt
rác, trồng cây xanh trong lớp học, sân, vườn trường. Tham gia đi thăm viếng nghĩa
trang liệt sĩ và tặng quà cho bộ đội phục viên và các gia đình có công với cách
mạng, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
* Tổ chức các hoạt động tập thể
Lứa tuổi Tiểu học các em rất ham chơi, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trốn học của HS. Vì thế, tạo một sân chơi lành mạnh, bổ ích thân thiện
cho HS là điều cần thiết nhằm hướng tới mục tiêu: “Thầy trò cùng học, cùng vui”.
Mỗi tuần 2 lần vào tiết sinh hoạt tập thể, dưới sự hướng dẫn của GV, phụ trách
Sao, HS lại được vui chơi thoải thích, biết thêm các trò chơi dân gian như: kéo co,
rồng rắn lên mây, tập tầm vông. Thi đố vui để học, thi tìm cao dao tục ngữ, hò, vè
dân gian. Tìm hiểu về An toàn giao thông, về các ngày chủ điểm trong tháng. Kể
chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể
thao. Ngoài ra còn kết hợp với Đội tổ chức cho các em thi văn nghệ, dự triển lãm
tranh tuyên truyền về chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Thi làm báo tường đối với
học sinh lớp 5.
* Rèn kĩ năng sống cho học sinh
- GV cần lồng ghép tích hợp các nội dung theo hướng dẫn của ngành qui
định. Ngoài ra cần linh hoạt trong giảng dạy để lồng ghép phù hợp với địa phương,
đối tượng HS của lớp.
- Giáo dục các em có thói quen biết quan tâm, chia sẻ, động viên, thăm hỏi
lẫn nhau trong học tập và cuộc sống. Các thành viên trong lớp đối xử với nhau một
cách công bằng.
- Rèn luyện các kĩ năng ứng xử hợp lí với các tình huống trong cuộc sống,
sinh hoạt. Xây dựng kĩ năng ứng xử văn hóa.
- Qua phiếu giao việc giáo dục HS tinh thần đoàn kết, tự phân công và điều
khiển công việc, giải quyết vấn đề, xử lí tình huống, ra quyết định, đảm nhận trách
nhiệm, hợp tác…Qua hệ thống câu hỏi giáo dục tư tưởng, kĩ năng sống, tình cảm,
tính thẩm mĩ, tình yêu quê hương, yêu người thân, bạn bè, yêu lao động. Biết bảo
vệ môi trường, phòng chống một số bệnh thông thường, phòng tránh tai nạn thương
tích, tai nạn giao thông…Thấy được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ Biển
đảo quê hương, bảo vệ đất nước.
15
- Qua hoạt động tập thể giúp cho HS có sức khỏe, nhanh nhẹn, hoạt bát, rèn
kĩ năng sống, tính kỉ luật, hợp tác, giáo dục tình cảm yêu thầy cô,bạn bè, gia đình,
quê hương, đất nước, nhớ ơn Bác. Đây chính là dịp để các em phát huy sở trường
và vốn hiểu biết của mình: Hát, múa, kể chuyện, đọc thơ….
- Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm phải nắm được ngày sinh của học sinh trong
lớp thông báo trên bảng tin của lớp để lớp tổ chức sinh nhật cho bạn một cách đơn
giản nhưng có ý nghĩa. Quà sinh nhật có thể là những lời chúc hay lời ca, tiếng hát
của các bạn trong lớp. GV có thể chuẩn bị một món quà nhỏ tự tay mình làm để
tặng cho các em như một chú thỏ, một con chim do mình gấp…Từ đó giúp các em
tự tin trong học tập và rèn luyện cũng như tham gia các hoạt động tập thể.
- Phát động phong trào “ Nói lời hay, làm việc tốt” để hình thành cho các em
thái độ thân thiện với nhau trong giao tiếp.
* Tổ chức cho HS tham gia tìm hiểu, chăm sóc và phát huy giá trị các di
tích lịch sử, văn hóa, cách mạng ở địa phương:
Điều kiện trường còn nhiều khó khăn, HS còn nhỏ nhưng tôi đã tham mưu
với nhà trường, Đội tổ chức cho các em đi viếng nghĩa trang liệt sĩ. Giao lưu, tặng
quà cựu chiến binh và gia đình có công với cách mạng tại địa phương. Tham gia
đóng góp xây dựng công trình măng non tại nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Qua đó
giáo dục các em truyền thống, uống nước nhớ nguồn, lòng tự hào dân tộc, biết ơn
các thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng. Tổ chức sinh hoạt chủ điểm
ngày 10/3 hướng dẫn học sinh tìm hiểu về truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh
thần chiến đấu bất khuất của ông cha ta từ đó phát huy huy truyền thống vẻ vang
của ông cha, bản sắc của dân tộc. Tổ chức cho các em thi kể chuyện tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh để thấy được tính giản dị, cần cù, chịu khó, lòng yêu nước
thương dân, sự hi sinh của Bác …từ đó học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Tổ chức cho các em tìm hiểu văn hóa của dân tộc qua lễ hội cồng
chiêng, hội đua voi, hội đua thuyền….
c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên phải thật sự có tâm huyết với nghề, có năng lực sư phạm (Năng
lực sư phạm gồm: Năng lực khoa học; hiểu học sinh; ngôn ngữ; tổ chức; phân phối
chú ý; trình bày bài giảng; óc tưởng tượng sư phạm). Ngoài ra, muốn phát huy tính
tích cực, tự giác, độc lập của học sinh cần phải biết lựa chọn phương pháp và hình
thức tổ chức linh hoạt, thích hợp, trong đó có các phương pháp thuyết minh; đàm
thoại; quan sát; thảo luận; thí nghiệm; hỏi đáp; nêu vấn đề…Ngoài ra còn phải óc
thẩm mĩ, tính sáng tạo trong việc trang trí lớp cũng như trong giảng dạy. Giáo viên
phải thực sự cởi mở, thân thiện, thái độ ân cần đối với học sinh, luôn gần gũi,
động viên, nhắc nhỏ các em làm cho các em có cảm giác thầy cô như người cha,
người mẹ thứ hai của mình để không có cảm giác sợ sệt. Mỗi lời nói, cử chỉ, việc
làm của giáo viên phải hết sức thận trọng vì nó đều có ảnh hưởng lớn tới các em.
d) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
16
Các giải pháp và biện pháp trong đề tài có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Mỗi giải pháp, biện pháp đều có những ưu điểm riêng nếu ta biết kết hợp linh hoạt,
hài hoà sẽ giúp cho việc “ Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực” đạt hiệu
quả cao. Khi đó tiết học sẽ phong phú, đa dạng, thu hút được sự chú ý của học
sinh, phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở các em, nâng cao được mối
quan hệ thầy trò. Học sinh thực sự cảm nhận được “ Mỗi ngày đến lớp là một ngày
vui” góp phần tích cực vào việc “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”. Giúp cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ năm học, việc giáo dục học sinh
một cách toàn diện đạt hiệu quả cao. Nhằm đào tạo con người mới có đủ kiến thức,
kĩ năng phục vụ cho thời kì phát triển của đất nước.
e) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
* Kết quả khảo nghiệm
Trước khi thực hiện đề tài
Sau khi thực hiện đề tài
- Học sinh nhút nhát, hạn chế kỹ
năng giao tiếp, không thân thiện với
bạn bè và thầy cô giáo, thiếu tính
đoàn kết.
- Học sinh mạnh dạn hơn, có kỹ năng giao
tiếp tốt hơn, luôn thân thiện với thầy cô và
bạn bè, biết quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ
nhau, đoàn kết thực hiện nhiệm vụ với thái
độ phấn khởi, hăng hái.
- Yêu trường, mến lớp, thấy vui khi được
- Nhiều em chán không muốn đi đến trường, tích cực đi học, đi học đúng
học, tình trạng nghỉ học không lí do, giờ.
đi học trễ vẫn còn.
- Thiếu trách nhiệm trong việc xây - Có ý thức giữ gìn vệ sinh, bảo vệ tài sản
dựng trường, lớp xanh, sạch, đẹp, an của trường lớp, cố gắng tìm tòi, sáng tạo có
được sản phẩm mang tên mình để trang trí
toàn.
lớp. Linh hoạt, sáng tạo trong trang trí.
Tích cực chăm sóc, trồng cây xanh trong
lớp. Không bẻ cành, hái lá cây trong
- HS ngồi học không tập trung, hay trường, lớp.
nghịch ngợm, làm việc riêng, ngủ - Học sinh hăng say thực hành, thảo luận,
gật trong giờ học, không nắm được tranh luận để tìm ra kiến thức, nhớ kiến
nội dung bài hoặc nắm bài nhưng thức tốt hơn, hiểu nội dung bài học sâu
ngày mai lại quên. Tiếp thu thụ hơn, chủ động nắm bắt kiến thức.
động.
- Khi được gọi tới thì hay giật mình.
- Tích cực phát biểu xây dựng bài, có ý
thức trong việc học và chuẩn bị bài cũng
như đồ dùng trước khi đến lớp.
17
- Giáo viên phải giảng giải, thuyết - Giáo viên truyền thụ kiến thức nhẹ nhàng
hơn.
trình nhiều.
- Các kỹ năng nghe, nhìn, ...khả - Bên cạnh nắm kiến thức các em còn lĩnh
hội được rất nhiều kỹ năng cần thiết cho
năng phản xạ chậm.
cuộc sống như quan sát, phân tích, tổng
hợp, giao tiếp....
- Nhiều cha mẹ bỏ mặc việc dạy cho - Cha mẹ phải chung tay cùng nhà trường
nhà trường hoặc chỉ chú ý tới kiến để giáo dục các em....
thức mà không chú ý đến kĩ năng
sống của các em...
- Chất lượng giáo dục hạn chế hơn.
- HS không hứng thú trong các - Chất lượng giáo dục được nâng lên rõ rệt.
phong trào thi đua.
- Đạt kết quả cao trong các phong trào thi
đua của trường nhất là phong trào giúp đỡ
bạn nghèo vượt khó, uống nước nhớ
- HS nhút nhát, tự ti, không thích nguồn...
tham gia trò chơi...
- Tích cực, chủ động, tự tin, mạnh dạn khi
tham gia trò chơi, thể hiện tinh thần đoàn
kết cao trong nhóm, lớp.
- HS tự giác kiểm tra bài, ôn luyện, đố nhau về kiến thức đã học được trong
giờ ra chơi. Giúp nhau làm vệ sinh lớp, giúp nhau trong học tập, phụ đạo cho các
bạn học yếu trong lớp vào đầu giờ và giờ giải lao.
- Hình thành sở thích đọc truyện, đọc sách trong giờ giải lao.
- HS trong lớp tự quản lí, nhắc nhở nhau thực hiện tốt nội qui của trường,
của lớp, tự tiến hành sinh hoạt lớp dưới sự cố vấn của GV, tích cực tham gia vào
bản tin lớp em. Tự giác tham gia ủng hộ người nghèo, người khuyết tật.
* Giá trị khoa học
Góp phần vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy và giáo dục con người
mới phát triển toàn diện tạo tiền đề cho một xã hội, một tương lai tươi sáng có
những con người hội tụ đầy đủ những phẩm chất và năng lực đáp ứng được thời kì
mới của đất nước.
II. 4. Kết quả
- Bản thân ngày một tự tin, linh hoạt hơn trong việc thực hiện tốt phong
trào” Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
- Sử dụng triệt để đồ dùng dạy học trong nhà trường, có sự sáng tạo trong
làm đồ dùng. Do phải tự học, tự rèn nhiều nên trình độ nhận thức cũng như chuyên
môn cũng được nâng lên.
18
- Được các em và phụ huynh yêu quý, gần gũi, thân thiện, tin tưởng hơn.
- Phụ huynh có trách nhiệm hơn đối với việc học của con cái.
- Học sinh mạnh dạn, tự tin, nắm vững kiến thức đã học, nhanh nhẹn, hoạt
bát hơn, có các kỹ năng cơ bản để vận dụng vào cuộc sống.
- Với các giải pháp, biện pháp đã nêu trên đã tạo cho HS học tập một cách
tích cực, tự giác, độc lập và sáng tạo. Mặt khác còn kích thích được phong trào thi
đua học tập trong lớp, trong trường. Do đó, kết quả mang lại rất khả quan; nhiều
em rụt rè nay đã hăng hái phát biểu xây dựng bài, lớp học sôi nổi, học sinh hứng
thú, tiếp thu kiến thức nhanh chóng. Giáo viên không phải nói thay, làm thay, nói
nhiều mà học sinh vẫn hiểu bài. Học sinh tự giác, hứng thú đi học mà không cần
phải cha mẹ dùng roi vọt đưa đi. Các em cảm thấy thật sự mỗi ngày đến trường là
một ngày vui, thấy được nhiều điều lí thú trong học tập, tránh được sự nhàm chán,
căng thẳng.
III . PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận
- Đây là một việc làm mà trước đây chúng ta cũng đã từng làm, tuy nhiên nó
chưa đầy đủ, cụ thể, chưa mang lại hiệu quả cao mà thôi.
- Bác Hồ đã dạy: “Dù khó khăn đến đâu cũng tiếp tục thi đua dạy tốt, học
tốt”. Mặc dù còn nhiều khó khăn trong việc giảng dạy và giáo dục học sinh nhưng
tôi tin rằng: “Mỗi giáo viên đều có thể vượt qua được những khó khăn đó và hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao bằng chính sự tận tâm của mình. Bản thân tôi thấy
mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, học
tập nghiên cứu tìm hiểu, nâng cao kiến thức. Từ đó đúc kết kinh nghiệm cho bản
thân và tìm ra những giải pháp để hướng tới mục tiêu chung của toàn ngành đã và
đang thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.
- Động cơ học tập là cái chi phối, thúc đẩy, kích thích người học chủ động
học tập, sáng tạo. Vì vậy yếu tố chính chi phối, thúc đẩy người học tích cực, chủ
động học tập là mục đích của việc học tập. Do đó, giáo viên tạo động cơ học tập
cho học sinh là một việc làm vô cùng có ý nghĩa, cần được quan tâm đúng mức và
thường xuyên.Việc làm này cần được nhân rộng trong các giáo viên và cần có sự
hỗ trợ đắc lực của Ban lãnh đạo nhà trường.
- Đề tài này là kết quả của sự miệt mài tìm tòi, học tập, trải nghiệm của bản
thân trong quá trình dạy học. Mong rằng đây sẽ là những kinh nghiệm bổ ích cho
tất cả những ai thực hiện công tác trồng người. Góp phần thực hiện đúng đường
lối, chủ trương của Đảng và mục tiêu giáo dục con người mới phát triển toàn diện
năng động, sáng tạo đáp ứng thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
quốc tế của đất nước.
III. 2. Kiến nghị
19
- Xây dựng được hoàn thiện một lớp học thân thiện, HS tích cực không phải
ngày một, ngày hai mà là cả một quá trình lâu dài cần phải được tiến hành đồng
thời ở các lớp, có sự ủng hộ giúp đỡ của các ban ngành địa phương, gia đình, nhà
trường và các đoàn thể trong nhà trường.
- Đối với xã hội cần đẩy mạnh hơn nữa việc kết hợp cùng nhà trường làm
lành mạnh môi trường sống, không còn các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng không tốt đến
nhận thức và lối sống của HS.
- Phòng Giáo dục tạo điều kiện cho giáo điều kiện cho GV dự nhiều hội
thảo, chuyên đề, để nâng cao chuyên môn.
- Nhà trường cùng cha mẹ HS triển khai thực hiện qui tắc gia đình thân
thiện, để mỗi HS đều được sống trong môi trường thân thiện. Chú trọng đến môi
trường học tập tại các lớp, thường xuyên kiểm tra, tổ chức thi cách tạo môi trường
học tập ở các lớp để giáo viên và học sinh buộc phải tìm tòi, có những sáng tạo
trong việc trang trí lớp đây là việc làm góp phần không nhỏ vào quá trình dạy học.
- Đẩy mạnh việc xây dựng mô hình lớp học thân thiện, học sinh tích cực ở
mỗi lớp học. Tổ chức thêm nhiều hoạt động ngoại khóa như: Trồng cây nhớ Bác,
trò chơi dân gian, tìm hiếu an toàn giao thông,..…để các em có sân chơi thật sự,
vui, khỏe, an toàn.
- Khuyến khích giáo viên tự học tập và bồi dưỡng kiến thức thường xuyên,
dạy theo hướng phân hoá đối tượng và thường xuyên cải tiến nội dung và các hình
thức tổ chức dạy học trong mỗi tiết học.
- Dạy học cho học sinh tiểu học, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay quả là
không phải dễ dàng. Đòi hỏi giáo viên không những phải biết lựa chọn phương
pháp phù hợp mà còn phải có lòng nhiệt tình, có kiến thức, có vốn kinh nghiệm
ứng xử phong phú. Đặc biệt giáo viên phải là tấm gương mẫu mực trong tự học và
sáng tạo để học sinh noi theo.
- Ngoài ra cần bám vào đối tượng học sinh, hoàn cảnh của nhà trường để lựa
chọn và sử dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức và phương pháp dạy học cho phù
hợp.
- Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong thời gian qua và đã
thấy có hiệu quả trong việc “ Xây dựng lớp học thân thiện, học sinh tích cực”. Tôi
rất mong nhận được sự ủng hộ đóng góp ý kiến để đề tài này ngày càng hoàn thiện.
Điều tôi mong muốn nhất là những biện pháp này phù hợp với thực tế giảng dạy ở
các nhà trường và sẽ trở thành công việc quen thuộc của mỗi giáo viên.
Buôn Trấp, ngày 18 tháng 2 năm 2015
Người viết
Nguyễn Thị Hoài
20
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Ký tên, đóng dấu)
21