Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật bậc THCS ở các trường miền núi Thanh Hóa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.97 KB, 47 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Đổi mới phương pháp giáo dục, tập chung nâng cao chất lượng giáo
dục” đó là nổ lực của toàn xã hội, đặc biệt là của chính bản thân những người
đang trực tiếp giảng dạy và cũng là những nổ lực mà Đảng và Nhà nước ta
đang phấn đấu. Cho tới thời điểm này, giáo dục Việt Nam đang và đã thu
hoạch được những tiến bộ nhất định, đã có những bước bứt phá mà từ trước
tới nay vẫn chưa tạo ra được. Điều này không chỉ có sự cố gắng hết sức của
những nhà khoa học, những nhà quản lý giáo dục đầy tâm huyết mà còn phải
kể đến một nền tảng khoa học công nghệ đã được thế giới khẳng định. Như
chúng ta được biết, xu hướng phát triển của xã hội luôn luôn gắn liền với sự
phát triển của khoa học công nghệ. Đặc biệt đối với ngành Giáo dục - Đào
tạo, công nghệ chắc chắn sẽ không thể thiếu trong thời kỳ hiện nay và trong
tương lai. Giờ đây, với những bài giảng điện tử, lớp học ảo, lớp học sử dụng
trên nền công nghệ thông tin không còn là điều xa lạ đối với các trường ở
những vùng có nhiều điều kiện thuận lợi về trang thiết bị, cơ sở vật
chất….nhưng có lẽ nó vẫn còn rất xa lạ đối với những trường ở vùng khó
khăn ở miền núi, nơi mà việc tiếp cận với công nghệ thông tin còn tương đối
chậm nếu không muốn nói là chưa có. Bản thân cũng đã từng là một giáo viên
có khoảng thời gian công tác tại trường miền núi, qua thời gian công tác tôi
không ngừng đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với học sinh nhằm
nâng cao chất lượng dạy và học.
Có thể nói, công nghệ thông tin đã thổi một luồng gió mới vào xu thế đổi
mới quá trình Dạy - Học. Từ bấy lâu nay, công nghệ thông tin đã giúp cho
giáo viên vận dụng được những phương pháp dạy học một cách linh hoạt và
đơn giản, công nghệ thông tin đã giúp giáo viên thực hiện được những bài


2



giảng phức tạp mà giáo dục truyền thống khó có thể làm được, nếu có được
thì phải rất vất vả và tốn kém, và còn nhiều điều mà công nghệ thông tin đã
giúp cho giáo viên từ việc chuẩn bị đồ dùng dạy học, đồ dùng thí nghiệm,
minh hoạ trực quan đến việc truyền đạt kiến thức tới học sinh thực sự dễ dàng
và hiệu quả.
Xét trên một phương diện nào đó thì nhờ vào công nghệ thông tin, đã
góp phần vào việc tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp học sinh hình
thành khái niệm và kiến thức một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả. Đã
có nhiều bài giảng điện tử được thực hiện và học sinh tiếp thu nó một cách
hoàn toàn tự nhiên và hứng thú. Theo quan niệm của cá nhân tôi, việc đổi mới
phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay và cả trong tương lai cần phải
kết hợp rất nhiều yếu tố. Trong đó không thể không có những yếu tố như: Gia
đình - Người thầy - Trò - Phương pháp - Công nghệ hỗ trợ…
Để đảm bảo được sự đổi mới theo xu hướng hiện đại, việc ứng dụng tốt
được công nghệ thông tin thì ngành giáo dục và đặc biệt là giáo viên cần phải
có cái nhìn với sự nhận định thật nghiêm túc và đúng mực với công nghệ
thông tin. Chúng ta cần phải làm sao không quá lạm dụng, phô trương nhưng
cũng đừng mắc phải sự tụt hậu một cách bảo thủ.
Trong thời gian gần đây, từ năm học 2008 - 2009 đến nay (2014), bản
thân tôi đã sử dụng nhiều ứng dụng của công nghệ thông tin để áp dụng trong
việc đổi mới phương pháp dạy học. Qua đó, cũng đã thu được những kết quả
đáng ghi nhận (học sinh hứng thú hơn, giáo viên chủ động trong hoạt động
gợi mở hơn, bài giảng sinh động hơn, trực quan thì giảm được chi phí rất
nhiều).
Từ những thực tế trên và qua nhận định chủ quan của cá nhân, qua trải
nghiệm trên thực tế, tôi mạnh dạn viết một đề tài này nhằm đổi mới phương
pháp dạy học môn mỹ thuật bậc THCS ở các trường thuộc khu vực miền núi



3

Thanh Hóa thông qua việc áp dụng công nghệ tin học, cụ thể là: Ứng dụng
công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật bậc THCS ở các trường miền núi
Thanh Hóa.
Đề tài này tuy mới được áp dụng thực nghiệm, khi viết thành đề tài tôi
rất hy vọng nếu thực sự giúp ích thì mong các thầy cô, đồng nghiệp cùng
tham khảo, nếu vẫn còn những hạn chế nhất định nào đó thì tôi cũng mong
muốn được các cấp lãnh đạo, đồng nghiệp bộ môn cùng tháo gỡ để đề tài này
sẽ trở thành một cẩm nang cho mỗi giáo viên dạy bộ môn Mỹ thuật ở bậc
THCS.
2. Mục đích nghiên cứu
Là một giáo viên trẻ, tôi có nhiều điều kiện để tiếp xúc, nắm bắt, tiếp
thu các phương tiện hiện đại. Với những hiểu biết của mình về máy vi tính,
các phần mềm tin học và các loại máy chiếu hiện đại, tôi thiết nghĩ nếu có thể
sử dụng những phương tiện này vào một số bài giảng thì sẽ có thể đạt nhiều
kết quả tốt. Bởi vì hiện nay trên thị trường, trên mạng Intemet, trên tivi...có
rất nhiểu các loại băng hình, tranh ảnh rất phong phú, nhiều thể loại, hình thức
thể hiện khác nhau, những trào lưu nghệ thuật mới... Nếu như các em học sinh
được xem, được biết đến thì các em sẽ mở rộng được hiểu biết của mình về
nghệ thuật hội hoạ và làm phong phú thêm trí tưởng tượng, phát huy trí sáng
tạo của mình trong suy nghĩ và vẽ tranh.
Với mục tiêu làm thế nào để đổi mới thực sự về phương pháp dạy học
Mỹ thuật ở bậc THCS nói chung, và học sinh khu vực miền núi nói riêng. Và
đặc biệt là các trường ở miền núi. Với mục đích giúp học sinh hình thành
khái niệm mỹ thuật, khái niệm về bố cục, đường nét, màu sắc, hình mảng,
tình cảm thẩm mỹ cho học sinh, đặc biệt giúp học sinh hình thành kiến thức
về ngôn ngữ tạo hình, cụ thể là ngôn ngữ hội hoạ một cách đơn giản và hiệu
quả.



4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài này tôi xác định một số đối tượng cụ thể để nghiên cứu và
thực hiện đề tài này. Cụ thể là các đối tượng chính sau:
- Đối tượng học: toàn bộ học sinh các khối lớp từ khối 6 đến khối 9.
- Phân môn để nghiên cứu cụ thể là cả bốn phân môn: vẽ theo mẫu, Vẽ
trang trí,Vẽ tranh và Thường thức mỹ thuật.
- Nội dung cần áp dụng: gồm các phần chính trong hoạt động dạy của
giáo viên đó là phần Quan sát nhận xét và phần Hướng dẫn thực hành….
- Các phần mềm tin học ứng dụng trong soạn, giảng đối với phân môn
và bộ môn.
- Phương tiện, thiết bị hiện đại tham gia vào quá trình Dạy - Học phần
quan sát và thực hành của phân môn Vẽ tranh, .
- Phương tiện, thiết bị hiện đại tham gia vào quá trình Dạy - Học phần
quan sát và thực hành của phân môn vẽ theo mẫu .
- Phương tiện, thiết bị hiện đại tham gia vào quá trình Dạy - Học phần
quan sát và thực hành của phân môn Vẽ trang trí, .
- Phương tiện, thiết bị hiện đại tham gia vào quá trình Dạy - Học phần
quan sát và thực hành của phân môn thường thức mỹ thuật, .
* Trong quá trình nghiên cứu sáng đề tài này này tôi tập trung vào những
đối tượng tiên quyết của đề tài đó là: Học sinh THCS thuộc khu vực miền núi
Thanh Hóa; Thiết bị công nghệ thông tin như: máy chiếu đa năng Projecter,
Băng hình…
3.2. Phạm vi nghiên cưú
Đề tài được nghiên cứu trênn phạm vi vùng, khu vục miền núi Thanh
Hóa và thuộc đối tượng học sinh các trường THCS.
Nội dung đó là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy.



5

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Để có cơ sở nghiên cứu chúng tôi đã tiến hành và thu thập một số tài
liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu: Bách khoa toàn thư mở Wikemidia,
Định hướng ứng dụng, đổi mới công nghệ thông tin trong giảng dạy ở trường
học phổ thông. Cách soạn thảo bài giảng bằng các phần mềm Powerpoint,
Violet...Các tài liệu khai thác trên internet theo đường dẫn: http/Google/ ......
Phương pháp này kết hợp việc thu thập tài liệu va sử lý tài liệu liên
quan đến việc áp dụng công nghệ thông tin, sủ lý thông tin thông qua hệ
thống thống phân tích, tổng hợp các thông tin về giáo dục học sinh ở miền
núi. So sánh kết quả của việc trước khi áp dụng đề tài và sau khi áp dụng đề
tài.nguồn tài liệu được lấy từ các văn bản của các ban nghành, sách giáo khoa,
giáo trình, tài liệu tham khảo, các báo cáo khoa học, tạp chí, mạng internet.
Đặc biệt kinh nghiệm qua các tiết dạy.... trên cơ sở đó phân tích lựa chọn hệ
thống hóa tài liệu để phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
4.2.Nhóm phương pháp nghiên cứu thực thực tiễn
4.2.1. Phương pháp quan sá:
Phương pháp này được áp dụng trong quá trình thực hiện việc dạy học
thực tế nhằm nắm bắt được kết quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học mỹ thuật.
4.2.2. Phương pháp điều tra:
Phương pháp này được áp dụng để điều tra thông tin thông qua học
sinh nhằm lấy kết quả thực tế. Có thể điều tra bằng miệng hoặc điều tra bằng
phiếu.
4.2.3. Phương pháp chuyên gia:
Được vận dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm lấy ý kiến các nhà

khoa học, những người có kinh nghiệm, giáo viên có kinh nghiệm về lĩnh vực


6

này để thực lựa chọn nội dung cách thức áp dụng trong dạy học. Đồng thời đề
tài còn có sự tham khảo của các nhà quản lý các ngành có liên quan.
4.3. Nhóm Phương pháp sử dụng toán thống kê
Phương pháp này được thực hiện trên cơ sở xây dựng các chỉ tiêu đánh
giá, thống kê mức độ dạt được thông qua việc áp dụng đề tài nhằm phát huy
được tính tích cực trong dạy và học. Để so sánh hiệu quả của việc áp dụng đề
tài vào thực tiễn giảng dạy tại các trường THCS trên địa bàn 2 huyện Yên
Định và Cẩm Thủy chúng tôi phân tích số liệu và đối chiếu với kết quả trước
và sau khi nghiên cứu và rút ra kết luận bằng việc tiến hành giảng dạy trực
tiếp một số tiết ở các trường THCS trên địa bàn một số xã miền núi của huyện
Yên Định và Cẩm Thủy cụ thể:
- Huyện Yên Định chúng tôi chọn trường THCS Yên Lâm với 2 lớp:
+ Lớp thực nghiệm (TN) là lớp 6A và 8B.
+ Lớp đối chứng( ĐC): 6B và8C.
- Huyện Cẩm thủy chúng tôi chọn trường THCS Yên Lâm với 2 lớp:
+ Lớp thực nghiệm (TN) là lớp7A và 8A
+ Lớp đối chứng( ĐC): 7B và 8B
Đây là các lớp có đặc điểm tương đồng và sức học ngang nhau của trường
5. Những đóng góp mới của đề tài
Đây là đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu làm thế nào để đổi mới thực sự
về phương pháp dạy học Mỹ thuật ở bậc THCS nói chung, và học sinh khu
vực miền núi nói riêng. Và đặc biệt là các trường THCS ở miền núi. Với mục
đích giúp học sinh hình thành khái niệm mỹ thuật, khái niệm về bố cục,
đường nét, màu sắc, hình mảng, tình cảm thẩm mỹ cho học sinh, đặc biệt giúp
học sinh hình thành kiến thức về ngôn ngữ tạo hình, cụ thể là ngôn ngữ hội

hoạ một cách đơn giản và hiệu quả thông qua việc ứng dụng CNTT. Cụ thể là
sử dụng CNTT trong dạy học môn mỹ thuật.


7

Đưa ra được cái nhìn tổng thể, đầy đủ về vai trò của việc sử dụng
CNTT góp phần quan trọng trong nghành giáo dục. Đặc biệt đề tài này cũng
đóng qóp không nhỏ trong việc tìm hiểu về các kiến thức CNTT trong dạy
học, trong dạy học mỹ thuật, giúp giáo viên mỹ thuật tham khảo nguồn tài
liệu về các giải pháp sử dụng công nghệ thông tin.
Trên cơ sở những giá trị đặc biệt của đề tài nhằm đề xuất những giải
pháp có khả thi phục vụ trong dạy học bộ môn mĩ thuật nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học, góp phần đưa giáo dục miền núi tiến kịp với khu vực miền
xuôi.
6. Cấu trúc đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, Phần nội dung và phần kết luận, tài liệu
tham khảo, phụ lục, được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học mỹ thuật bậc THCS ở các trường miền núi Thanh Hóa
Chương 2: Thực trạng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học mỹ thuật bậc THCS ở các trường miền núi Thanh Hóa
Chương 3: Những giải pháp thực hiện.


8

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

TRONG DẠY HỌC MỸ THUẬT BẬC THCS Ở CÁC TRƯỜNG
MIỀN NÚI THANH HÓA
1.1. Khái quát về dạy học Mỹ thuật THCS
1.1.1. Mục tiêu
* Về kiến thức:
- Giúp học sinh có những kiến thức ban đầu về mỹ thuật: hình thành
những hiểu biết cơ bản, cần thiết về bố cục, đường nét, hình khối, đậm nhạt,
màu sắc của bài vẽ tho mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh.
- Có hiểu biết sơ lược về mỹ thuật Việt Nam và mỹ thuật thế giới.
* Về kĩ năng:
- Rèn luyện kĩ năng quan sát, qua đó phát triển tư duy, trí tưởng tượng,
sáng tạo của học sinh.
- Thực hành được các bài vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh trong
chương trình và sách giáo khoa.
- Biết phân tích sơ lược một số công trình mỹ thuật, tác phẩm kiến trúc,
điêu khắc, hội họa của Việt Nam và thế giới trong chương trình sách giáo
khoa.
- Biết vận dụng các kỹ năng đã học vào cuộc sống.
* Về giáo dục:
- Giáo dục thẩm mỹ, giáo dục về cái đẹp, Bước đầu cảm nhận được vẽ
đẹp của thiên nhiên, cuộc sống, con người....
- Yêu thích và trân trọng vẽ đẹp của các tác phẩm nghệ thuât, các công
trình, di tích, văn hóa.
1.1.2. Vai trò


9

Nhằm giáo dục thẩm mỹ cho các em và tạo điều kiện cho các em sáng
tạo ra cái đẹp, nâng cao khả năng nhận thức thẩm mỹ của các em. Không

những thế mỹ thuật còn giúp cho các em hiểu về cái để sống và hoạt động
theo quy luật của cái đẹp, góp phần giúp học sinh hoàn thiện về Đức, trí, Thể,
Mỹ, Lao.
1.1.3. Chương trình dạy học mỹ thuật bậc THCS
Chương trình dạy học mỹ thuật bâc THCS dành cho tất cả các khối từ
khối 6 đến khối 9 như sau:
- Khối 6 tổng cả năm học gồm 35 tiết kể cả tiết trưng bày kết quả học
tập, 2 tiết kiểm tra định kỳ, 2 tiết kiểm tra học kỳ: Học kỳ I có 18 tiết: Học kỳ
II có 17 tiết. Trong đó phân môn vẽ trang trí 9 tiết, phân môn vẽ theo mẫu 9
tiết, phân môn vẽ tranh có 9 tiết, phân môn thường thức mĩ thuật có 7 tiết.
- Khối 7 tổng cả năm học gồm 35 tiết kể cả tiết trưng bày kết quả học
tập, 2 tiết kiểm tra định kỳ, 2 tiết kiểm tra học kỳ: Học kỳ I có 18 tiết: Học kỳ
II có 17 tiết. Trong đó phân môn vẽ trang trí 8 tiết, phân môn vẽ theo mẫu 9
tiết, phân môn vẽ tranh có 11 tiết, phân môn thường thức mĩ thuật có 6 tiết.
- Khối 8 tổng cả năm học gồm 35 tiết kể cả tiết trưng bày kết quả học
tập, 2 tiết kiểm tra định kỳ, 2 tiết kiểm tra học kỳ: Học kỳ I có 18 tiết: Học kỳ
II có 17 tiết. Trong đó phân môn vẽ trang trí 9 tiết, phân môn vẽ theo mẫu 8
tiết, phân môn vẽ tranh có 10 tiết, phân môn thường thức mĩ thuật có 7 tiết.
- Khối 9 tổng cả học kì I gồm 19 tiết kể cả tiết trưng bày kết quả học
tập, 1 tiết kiểm tra định kỳ, 1 tiết kiểm tra học kỳ; Trong đó phân môn vẽ
trang trí 6 tiết, phân môn vẽ theo mẫu 3 tiết, phân môn vẽ tranh có 5 tiết, phân
môn thường thức mĩ thuật có 4 tiết. học kỳ II không học.
1.2. Công nghệ thông tin trong dạy học
1.2.1. Khái niệm về công nghệ thông tin


10

Công nghệ thông tin ( IT – Information Technology) là ngành ứng
dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và các

phần mềm của nó để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu thông
tin. Theo Nghị quyết 49/CP của Chính phủ ngày 4 tháng 8 năm 1993 thì:
Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các
phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại- chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn
thông- nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên
thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con
người và xã hội. [7]
Như vậy, công nghệ thông tin là tập hợp các phương tiện và công cụ kĩ
thuật hiện đại như máy tính, máy chiếu Projector, mạng Internet… để cung
cấp nguồn tài nguyên vô cùng phong phú, đa dạng cho mọi lĩnh vực trong đời
sống con người và xã hội. Đặc biệt, ngày nay Internet với các kết nối băng
tầng rộng đã đi tới tất cả các trường học, giúp cho việc ứng dụng các kiến
thức, kĩ năng và hiểu biết về công nghệ thông tin vào dạy học.
1.2.2. Vai trò của công nghệ thông tin trong dạy học
Ngày nay, việc đổi mới phương pháp dạy học trong trường phổ thông
đang rất được nhà nước và xã hội quan tâm. Định hướng đổi mới phương
pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 Khóa VII
(1.1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12.1996), được thể chế hóa
trong Luật giáo dục (2005). Đặc biệt, theo Luật Giáo dục điều 82.2 đã ghi:
Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học,
môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh. [9]


11

Như vậy, theo quy định của Luật giáo dục, giáo viên phải chuyển dần
từ phương pháp dạy học truyền thống (giáo viên giử vai trò trung tâm) sang

phương pháp dạy học tích cực – lấy học sinh làm trung tâm của hoạt động dạy
và học để có thể phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
tạo cho học sinh hứng thú trong học tập. Ngoài ra, giáo viên còn phải bồi
dưỡng cho học sinh kĩ năng nhận biết bản chất vấn đề, có năng lực tư duy độc
lập và vận dụng sáng tạo kiến thức đã học vào thực tiễn. Để đạt mục tiêu trên,
giáo viên phải tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá
trình dạy học vì những lí do sau:
Thứ nhất, nó phù hợp với yêu cầu của thời đại. Trong hệ thống giáo
dục của phương Tây, công nghệ thông tin chính thức được đưa vào chương
trình học phổ thông. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về công
nghệ thông tin đã có ích cho tất cả các môn học khác nhau. Do đó, việc ứng
dụng nó vào dạy học ở trường phổ thông Việt Nam là phù hợp với quy luật
phát triển của thời đại.
Thứ hai, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chiến lược phát triển giáo dục
đào tạo đến năm 2010 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu rõ:
“Từng bước phát triển giáo dục dựa trên công nghệ thông tin…công
nghệ thông tin và đa phương tiện sẽ tạo ra thay đổi lớn trong hệ thống quản lí
giáo dục, trong chuyển tải nội dung chương trình đến người học, thúc đẩy
cuộc cách mạng về phương pháp dạy và học”. [8]
Như vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng xác định con đường phát triển
cho giáo dục Việt Nam là “Dựa trên công nghệ thông tin” và nó là phương
tiện để thúc đẩy cuộc “cách mạng về phương pháp dạy và học” nghĩa là thay
đổi phương pháp dạy học trong nhà trường.


12

Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định
“cấm sử dụng phương pháp đọc chép” trong trường phổ thông càng làm cho

việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học được đẩy mạnh hơn. Tuy
nhiên, giáo viên không nên quá lạm dụng máy chiếu để thay cho tấm bảng
đen, không nên biến đọc chép thành “chiếu-chép”. Thời gian qua, nhiều giáo
viên vẫn còn quan niệm đồng nhất giữa “ứng dụng công nghệ thông tin vào
dạy học” với giáo án điện tử. Do đó, khi soạn một bài giảng bằng Powerpoint,
giáo viên đưa tất cả những công việc của mình (ổn định lớp, kiểm tra bài cũ,
câu hỏi kiểm tra bài cũ, dặn dò…) và toàn bộ nội dung bài giảng lên các
Slides để “chiếu cho học sinh chép”. Theo chúng tôi, đây là một quan niệm
chưa thật sự chuẩn xác vì công nghệ thông tin không phải là một giáo án, nó
chỉ đóng vai trò hỗ trợ cho quá trình giảng dạy và giúp giáo viên cung cấp cho
học sinh nhiều nguồn tư liệu khác nhau về một sự vật, hiện tượng như: kênh
chữ, kênh hình, phim tư liệu…để cho học sinh tự tìm ra tri thức cho mình. Từ
đó, phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học
tập.
Thứ ba, công nghệ thông tin đã góp phần hiện đại hóa các phương tiện
dạy học, các phần mềm dạy học như Activestudio, Powerpoint…sẽ giúp giáo
viên tạo bài giảng phù hợp nhu cầu của học sinh, giúp học sinh có nhiều
phương pháp tiếp thu kiến thức. Đặc biệt, nó sẽ giúp cho giáo viên tạo ra một
lớp học mang tính tương tác hai chiều: giáo viên – học sinh và ngược lại.
Điều này phù hợp với quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo vì học là quá
trình thu nhận thông tin có định hướng, có sự tái tạo và phát triển thông
tin; dạy là quá trình phát thông tin và giúp người học thực hiện quá trình trên
một cách có hiệu quả. Do đó, ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp học sinh
tiếp nhận thông tin bài học hiệu quả hơn và sẽ biến những thông tin đó thành
kiến thức của mình. Đồng thời, nó cũng phát huy được tính tích cực, chủ


13

động, sáng tạo của học sinh, khai thác nhiều giác quan của người học để lĩnh

hội tri thức.
Thứ tư, ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học cũng giúp giáo viên
rút ngắn thời gian giảng dạy, có thời gian đầu tư cho quá trình dẫn dắt, tạo
tình huống có vấn đề để kích thích tư duy sáng tạo của học sinh. Học sinh có
thể dễ dàng hình dung và có khái niệm chính xác về các hình ảnh, sự vật, hiện
tượng khi tiếp xúc với chúng bằng những hình ảnh trực quan (hình tư liệu,
bản đồ, những đoạn phim tư liệu …)
Như vậy, ngày nay việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học có
vai trò giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để dẫn dắt học sinh nắm bắt vấn
đề, tạo tình huống có vấn đề để kích thích sự tư duy sáng tạo của học sinh.
Mặt khác, nó cũng sẽ giúp học sinh chủ động hơn trong quá trình lĩnh hội tri
thức khi được tiếp xúc với nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Từ đó, hình thành
cho người học kĩ năng tự tiếp thu tri thức, độc lập trong tư duy và hứng thú,
hăng say trong học tập. Do đó, công nghệ thông tin ngày càng chiếm giử vị trí
quan trọng trong dạy học và nó càng có vai trò quan trọng hơn đối với việc
dạy và học môn Mĩ Thuật.
1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật ở THCS
1.3.1. Khái niệm về công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật.
Công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ
thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả
các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú phục vụ cho dạy học môn mỹ
thuật.
Như vậy cụ thể hơn công nghệ thông tin trong dạy học mĩ thuật là tập
hợp các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại như máy tính, máy chiếu
Projector, mạng Internet… để cung cấp nguồn tài nguyên vô cùng phong phú,


14


đa dạng cho bộ môn mỹ thuật trong trong công tác giảng dạy. Đặc biệt, ngày
nay Internet với các kết nối băng tầng rộng đã đi tới tất cả các trường học,
giúp cho việc ứng dụng các kiến thức, kĩ năng và hiểu biết về công nghệ
thông tin vào dạy học.
1.3.2. Ưu điểm, hạn chế
1.3.2.1. Ưu điểm:
Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin so
với một số phương pháp giảng dạy truyền thống mà lâu nay vẫn áp dụng là:
- Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh vedeo, camera …
với âm thanh, văn bản, biểu đồ … được trình bày qua máy tính theo kịch bản
vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau
và với người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có thể được
khai thác để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi không thể
thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự giác, phát huy
được tính tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.
- Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh
hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và
bằng suy luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những
quy luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền
thông trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng,
môi trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích
cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý
thuyết học tập mới giúp học sinh tiếp thu dễ dàng và áp dụng vào bài làm.
1.3.2.2. Hạn chế:
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì có thể nói việc đưa công
nghệ thông tin và truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo


15


bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt
được vẫn còn hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức
vẫn còn ở phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học
nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ
trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả
đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều
nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều
kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn
cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên một mặt
bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà không cần
phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy tính điện tử. Những mạch kiến
thức “ vận dụng” đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với phấn trắng bảng đen và
các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ năng cho học
sinh.
- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số giáo
viên vẫn còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo, thậm chí
còn né tránh. Mặc khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn
khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được trong một thời gian
tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương
pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết, cách làm,
cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối với giáo
viên và đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng
thời phát huy ưu điểm của phương pháp dạy học này làm hạn chế những
nhược điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Điều đó làm cho công
nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa thể phát huy
tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó.



16

- Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học
nếu chúng ta chưa được nghiên cứu kỹ thì chắc chắn sẽ dẫn đến việc ứng
dụng CNTT không đúng chỗ, không đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn lúng
túng, chưa xác định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng bộ trong
thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp
dạy học bằng phương tiện chiếu projector, … còn thiếu và chưa đồng bộ và
chưa hướng dẫn sử dụng nên chưa triển khai rộng khắp và hiệu quả.
- Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có
chiều sâu; sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường
truyền. Công tác đào tạo, Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo viên
chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức, mất
nhiều thời gian và công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp học một
cách có hiệu quả
1.3.3. Yêu cầu
Đảm bảo được tính giáo dục, tính thực tế về điều kiện cơ sở vật chất,
trang thiết bị trong nhà trường. Chương trình ứng dụng phải phù hợp với nội
dung bài học.
Đảm bảo tính hệ thống về số liệu, hình ảnh....Tránh sử dụng những tư
liệu không phù hợp, hoăc quá trừu tượng, không liên kết,liên quan đến bài
dạy.
Khi thiết kế Bài giảng điện tử cần chuẩn bị trước kịch bản, tư liệu
(Vedeo, hình ảnh, bảng đồ), chọn giải pháp cho sử dụng công nghệ, sau đó
mới bắt tay vào soạn giảng. Nếu sử dụng PowerPiont làm công cụ chính cần
lưu ý về Font chữ, màu chữ (Xanh(đen)- trắng, vàng/đỏ) và hiệu ứng thích
hợp (hiệu ứng đơn giản, nhẹ nhàn tránh gây mất tập trung vào nội dung bài



17

giảng)
Nội dung bài giảng điện tử cần cô động, xúc tích, hình ảnh, các mô
phỏng cần xác chủ đề (trong 1 slide không nên có nhiều hình hay nhiều chữ),
những nội dung học sinh ghi bài cần có qui ước (có thể dùng khung hay màu
nền) sẽ khắc phục được việc ghi bài của học sinh; Nội dung bài giảng chứa
nhiều liên kết nhất là liên kết đến hệ thống câu hỏi để khắc phục những tình
huống sư phạm phát sinh (như nhắc lại kiến thức, dàn bài, hết giờ, … các liên
kết nầy có thể đặt trong slide chủ), cần khai thác thế mạnh của CNTT trong
kiểm tra đánh giá một cách triệt để và kiểm chứng kết quả thông qua học
sinh.
Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá
trình dạy học và sự phát triển của học sinh, công nghệ mô phỏng nếu không
phản ánh đúng nội dung, giá trị nghệ thuật và thực tế thì không nên sử dụng
1.3.4. Các phân môn ứng dụng công nghệ thông tin trong môn mỹ thuật
Chương trình được ứng dụng cho bốn phân môn chính: Phân môn vẽ
tranh, phân môn vẽ theo mẫu, phân môn vẽ trang trí, phân môn thường thức
mỹ thuật. Hệ thống của một bài giảng chủ yếu gồm 4 phần chính:
+ Phần quan sát nhận xét (tìm hiểu bài). Thông qua quan sát nhận xét
giúp học sinh tìm hiểu được khái niệm đặc điểm của nội dung bài từ đó nắm
chắc được kiến thức trong giờ thực hành.
+ Phần hướng dẫn cách vẽ. phần này là phân mấu chốt của bài học,
phần này nếu giáo viên sử dụng trực quan linh hoạt kết hợp áp dụng công
nghệ giúp học sinh nắm chắc được kiến thức sâu hơn.
+ Phần hướng dẫn học sinh cách quan sát, phân tích tranh.
+ Phần thực hành của học sinh giúp học sinh áp dụng những hiểu biết ở
phần quan sát, cách vẽ vào bài thực hành được thành thạo và hợp lý.



18

Tiểu kết chương 1
Như vậy có thể thấy từ những cơ sở khoa học về tình hình dạy học, cũng
như việc dạy học mĩ thuật có ứng dụng CNTH và dựa vào chương trình dạy
học của bộ môn mỹ thuật Vì vậy tôi quyết định lựa chọn đề tài nay.
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy môn mỹ thuật ở Trường THCS Yên
Lâm huyện Yên Định, và trường THCS cẩm thủy. Đây là hai trường mà tôi đã
nghiên cứu thực nghiệm, bản thân cá nhân tự nhận thấy ngoài các bài học đã
được hướng dẫn giảng dạy thông thường thì cần phải sử dụng nhiều thêm các
tiết dạy có áp dụng CNTT như trình chiếu, nghe các kênh hình, kênh tiếng để
nâng cao chất lượng bài học.


19

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG DẠY HỌC MỸ THUÂT BẬC THCS Ở CÁC TRƯỜNG
MIỀN NÚI THANH HÓA
2.1. Khái quát về các trường miền núi ở thanh hóa
Thanh hóa là một địa bàn có 11 huyện thuộc khu vực miềm núi, và
cũng là nơi có số lượng các trường phổ thông chiếm phần nhiều. Những năm
gần đây việc các trường thuộc khu vực miền núi được hưởng những chính
sách cũng như sự hỗ trợ nhiều của các tổ chức, đoàn thể...Bên cạnh sự quan
tâm đầu tư hơn cho giáo duc miền núi về việc xây dựng cơ sở vật chất nhằm
đáp ứng nhu cầu về giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy và học.
- Về cơ sở vật chất: Nhiều trường được xây dựng khang trang về cơ sở
vật chất, phương tiện phục vụ cho giảng dạy, nhưng vẫn còn nhiều huyện việc

đầu tư về cơ sở vật chất còn rất hạn chế, cơ sở vật chất còn quá nghèo nàn,
thiếu thốn...
- Về số lượng lớp học trong các trường miền núi nhìn chung vẫn con
thiếu song cũng đã đáp ứng được phần nào cho về chỗ ngồi cho học sinh, và
việc dạy học của giáo viên.
- Về đội ngũ giáo viên: Nhờ vào chính sách ưu tiên cho cán bộ, giáo
viên giảng dạy và công tác tại các trường miền núi, và sự tăng cường đội ngũ
giáo viên Trẻ, khỏe và nhiệt tình trong công tác, nên số lượng giáo viên dần
đã được đáp ứng tương đối đầy đủ. Song việc bố trí chưa hợp lý nên dẫn đến
việc thiếu thừa cục bộ ở các bộ môn.
* Thuận lợi: Hiện nay, một số trường miền núi đã có máy chiếu đa năng:
máy chiếu Prorector. Đây là những thiết bị chiếu hình ảnh và vật thể hiện đại
nhất hiện nay. Nếu có những thiết bị này thì coi như chúng ta đã tìm được một
giải pháp tốt cho việc dạy môn Mỹ thuật ở trường THCS.


20

Một điều thuận lợi không kém là hiện nay các huyện ở khu vực miền
nuí dang được quan tâm khá nhiều, được đầu tư về mọi mặt nhằm phát triển
cân bằng để dần theo kịp các huyện miền xui về kinh tế,văn hóa....đặc biệt về
giáo dục luôn luôn được quan tâm hàng đầu với những chính sách,dự án nhằm
hỗ trợ cho cho việc dạy và học được tốt hơn như: Hỗ trợ về cơ sở vật chat,
trang thiết bị dạy học, chế độ cho giáo viên và học sinh.... Dặc biệt là việc cán
bộ giáo viên đươc cử di học chuyên đề, học nâng cao trính độ chuyên môn
thường xuyên, liên tục, nên việc tiếp cận phương pháp giảng dạy mới, công
nghệ trong giạy học dễ dàng hơn.
Mặc dù là trường miền núi nhưng trường THCS Yên Lâm, THCS Cẩm
Tâm nơi tôi giảng daỵ thực nghiẹm là các trường luôn luôn tiếp cận sớm khoa
học, CNTT, sử dụng và đưa vào công tác giảng daỵ chính quyền địa phương

luôn tạo điều kiện thuận lợi giúp nhà trường thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục.
Phòng giáo dục huyện Yên Định, Cẩm Thủy thường xuyên tổ chức các
buổi học chuyên đề theo định kỳ để giáo viên có điều kiện thuận lợi trong
viêc trao đổi kinh nghiệm với nhau, giúp giáo viên có được kết quả dạy học
được tố hơn đó là nhưng nguồn thuận lợi không nhỏ cho giáo dục ở các huyện
miền núi.
* Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi dã nêu ở trên thì việc dạy và học ở
các trường miền nui cũng gặp phải những khó khăn, vướng mắc cần phải khắc
phục để tìm ra những giải pháp cho phù hợp.
- Thứ nhất: Đa số các trường ở khu vực miền núi vẫn chưa có phòng
dạy máy chiếu riêng, số lượng máy chiếu phục phục vụ cho tiết dạy còn rất
hạn chế vì vậy rất bất cập trong việc lắp đặt máy chiếu, hơn thế nữa giờ nghỉ
giữa các tiết chỉ có 5 phút nên viêc chuẩn bị cho tiết dạy bằng máy chiếu gặp
rất nhiều khó khăn. Cơ sở vẫn chưa thể tự trang bị đủ thiết bị máy móc để
phục vụ cho việc triển khai bài dạy điện tử. Đối với vấn đề này chúng ta có


21

thể hy vọng trong thời gian tới nhà trường, ngành giáo dục và các cấp có thẩm
quyền có thể hỗ trợ và trang bị để giáo viên được thực hiện bài dạy điện tử,
giáo án điện tử, đồ dùng điện tử.
- Thứ hai : Các môn học đặc thù vẫn chưa có phòng riêng, vẫn còn phải
học chung trong các phòng học văn hóa nên việc tổ chức trưng bày san phẩm
cho các em gặp rất nhiều khó khăn
- Thứ ba: có thể kể đến đó là hiện nay ở bậc THCS giáo viên vẫn còn
một số người chưa chủ động tiếp cận với công nghệ thông tin, một số người
vẫn cho rằng tin học trong giáo dục còn khá xa vời, Trình độ về tin học của
giáo viên các bộ môn nói chung và môn mỹ thuât nói riêng còn thấp nên việc
soạn giảng các tiết giáo án điện tử chưa được khoa học và găp phải những

vướng mắc. Hạn chế này cũng khá quan trọng và ảnh hưởng không nhỏ tới
việc triển khai giáo án điện tử, bởi để giảng dạy được bằng bài giảng điện tử
thì giáo viên làm chủ công nghệ lại đóng một vai trò quan trọng. Nếu giáo
viên không có hiểu biết tin học hay không cần biết tin học thì giáo án điện tử
sẽ dừng lại ở những người thiết kế mà thôi.
Với tình hình hiện nay, tôi tin tưởng rằng đội ngũ giáo viên chúng ta
hầu hết là còn trẻ, nhiều đam mê chắc chắn sẽ khắc phục nhược điểm này
trong thời gian ngắn mà thôi. Riêng đội ngũ giáo viên Mỹ thuật thì hoàn toàn
có thể tin tưởng vào họ do hầu hết những giáo viên này lại đang sử dụng một
số phần mềm đồ hoạ trong công việc chuyên môn của mình cho nên việc tiếp
cận một số phần mềm khác là không khó và có thể khăc phục được trong thời
gian ngăn.
2.2. Tình hình dạy học mỹ thuật
Về đội ngũ giáo viên: Hiện nay đội ngũ giáo viên môn mỹ thuật trong
các trường miền núi cũng tương đối đầy đủ vê cơ bản trung bình một giáo
viên trên một trường. chất lượng đào tạo chuẩn và trên chuẩn, tuổi đời khá trẻ,


22

nhiệt tình trong công tác, yêu nghề và tâm huyết với công việc. Bên cạnh đó
còn có những tồn tại cần khắc phục như: kinh nghiệm trong giảng dạy, một số
bộ phận giáo viên vẫn chưa thực sự coi việc dạy học là nghiệp chính của
mình, vẫn còn đang dạy theo lối mòn kiểu truyền thống....
Về cơ sở vật chất cho dạy học mỹ thuật: Đa số các trường miền núi
việc đầu tư cơ sở vật chất cho môn mỹ thuật chưa nhiều nếu không muốn nói
là chưa có như: Phòng học, thực hành riêng, đồ dùng dạy học.
Chất lượng học tập chưa được nâng cao nhiều do việc việc tiếp cận với
phương pháp dạy học mới chưa nhiều. Học sinh vẫn còn coi bộ môn mỹ thuật
là môn phụ nên nhiều em chưa thực sự cố gắng trong khi làm bài.

2.3. Tình hình ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật
Trong những năm gần đây việc đổi mới phương pháp dạy học nói
chung và đổi mới cách dạy, phương pháp dạy học môn mỹ thuật nói riêng đã
và đang dần được thực hiện ở các trường miền núi cụ thể bằng việc áp dụng
các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực học tập của học sinh biệt là
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mỹ thuật về cơ bản cũng đã
gây hứng thú học tập cho học sinh.
Hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mỹ
thuật đó là: Học sinh sẽ hứng thú học tập hơn, nội dưng kiến thức khắc sâu
hơn, từ đó áp dụng những kiến thức vào bài vẽ tốt hơn nâng cao được chất
lượng học tập cho học sinh.
Tiểu kết chương 2
Thực tế mà nói việc sử dụng phương pháp này chưa nhiều, không
thường xuyên do nhiều nguyên nhân, lý do: Cơ sở vật chất chưa đáp ứng
được cho việc ứng dụng, trang thiết bị như máy chiếu máy tính chưa đủ, Sự
quan tâm của lãnh dạo nhà trường chưa cao, một bộ phận không nhỏ cán bộ


23

giáo viên chưa thực sự tâm huyết cũng như coi việc dạy học mỹ thuật ở các
trường miền núi là nghĩa vụ hay dạy cho có mà chưa nghĩ đến việc ứng dụng.
Một vấn đề tồn tại không nhỏ đó là khả năng về tin học của nhiều giáo viên
con hạn chế rất nhiều.
Là một giáo viên dạy Mĩ thuật đã lâu, tôi nhận thấy những thuận lợi
cũng như những hạn chế trong việc dạy và học khi áp dụng ứng dụng CNTT.
Từ những thực trạng trên và qua những thông tin Nắm bắt được tình hình dạy
học ở miền núi, cũng như việc ứng dụng CNTT vào dạy học, và dựa vào
những cơ sở nghiên cứu khoa hoc, cùng với những kinh nghiệm của mình, tôi
đã có giải pháp xây dựng đề tài trong viêc ứng dụng CNTT trong dạy học mĩ

thuật bạc THCS ở các trường miềm núi Thanh Hóa .


24

CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN VIỆC ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG
TIN TRONG DẠY HỌC MỸ THUẬT BẬC THCS Ở CÁC TRƯỜNG
MIỀN NÚI THANH HÓA
3.1. Đối với ban giám hiệu nhà trường
Triển khai kế hoạch cụ thể đối với giáo viên về việc thực hiện đổi mới
cách dạy bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Khuyến
khích việc dạy học có sử dụng công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị phục
vụ cho giảng dạy.....
3.2. Đối với giáo viên giảng dạy
3.2.1. Sử dụng trang thiết bị phục vụ giảng dạy
Để thực hiện được đề tài này vào trong dạy học nhà trương cần đầu tư
trang thiết bị phương tiện dạy học cần chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất và đồ
dùng thiết bị như : màn chiếu, máy chiếu, máy vi tính .... Hiện nay, đa số các
trường đều đã được trang bị .
3.2.2. Sử dụng đầu đĩa VCD trong phần quan sát nhận xét
3.2.2.1. Chuẩn bị dữ liệu (tranh ảnh tư liệu):
Để có thể giải quyết các vấn đề đã nêu ở trên, giáo viên cần Scan hoặc
chụp ảnh lại các hình ảnh vào máy vi tính hay mua sẵn các đĩa CD thư viện
ảnh và sử dụng các phần mềm có khả năng trình diễn để chiếu tranh, ảnh,
băng hình lên (Phần mềm ProShowGold, ACD see, Powerpoint…)
Phương pháp Scan ảnh: Nếu nhà trường đã trang bị được một máy
Scan phổ thông thì giáo viên hoàn toàn có thể sử dụng một số phần mềm đồ
hoạ hoặc chính phần mềm kèm theo máy Scan để quét ảnh tư liệu đưa vào
máy.

Nếu nhà trường chưa trang bị được máy Scan thì giáo viên có thể liên
hệ với một số cửa hàng chụp ảnh kỹ thuật số hoặc cửa hàng in ấn, quảng cáo


25

để họ sẽ tiến hành quét và lưu thành file ảnh. Từ các file này chúng ta có thể
tiến hành làm thành các VCD để sử dụng trong bài giảng, có thể nói phương
pháp này được áp dụng sẽ làm cho người dạy khá nhàn trong việc truyền đạt
kiến thức cho học sinh.
Phương pháp chụp ảnh những tư liệu: Hiện nay trên thị trường đã rất
phổ biến các loại máy ảnh kỹ thuật số nhỏ gọn nhưng rất tốt cho việc chụp
hình tư liệu. Nếu chúng ta không tự trang bị được thì cũng có thể sử dụng một
số máy điện thoại di động đời cao có chức năng chụp hình của đồng nghiệp
để chụp lại ảnh phần này đa số giáo viên trong trường điều có.
Khi chụp ảnh tư liệu giáo viên cần chú ý tới một số chức năng của các
máy ảnh (kể cả máy ảnh trên điện thoại di động) như chức năng chụp cận
cảnh để được chất lượng hình ảnh tốt nhất (chức năng chụp Macro). Đặc biệt
là việc lựa chon hình ảnh, cắt cảnh sao cho đẹp về bố cục rõ về nội dung,
tránh chụp những tư liệu mang tính khái quat nhiều hay những tư liệu chung
chung không rõ nội dung đến khi sử dụng làm tư liệu sẽ không có hiệu quả.
Nếu đã chụp được đủ tư liệu thì chúng ta cần kết nối máy ảnh với máy
tính thông qua cáp tín hiệu đi kèm thiết bị, hoặc tháo thẻ nhớ của thiết bị chụp
hình ra và đưa vào đầu đọc thẻ nhớ trên máy vi tính để có thể đưa toàn bộ nội
dung ảnh đã chụp vào kho dữ liệu trên máy vi tính. Khi đưa dữ lệu vào máy
tính cân phân chia các phai của từng loại tư liệu riêng để khi lấy tư liệu tìm xẽ
dễ dàng hơn.
* Lưu ý khi tập hợp ảnh tư liệu: Việc tập hợp ảnh tư liệu tuy là công việc nhỏ
nhưng nếu giáo viên chú tâm tới vấn đề này thì việc sử dụng sau đó sẽ rất
thuận tiện và khoa học. Chúng ta cần lưu ý như sau: khi lưu ảnh trên máy vi

tính cần phân loại theo từng loại tư liệu khác nhau, mỗi loại được đặt trong
một thư mục (Folder) riêng, trong mỗi loại cần đặt tên file ảnh rõ ràng để tìm
kiếm và sử dụng nó hiệu quả nhất.


×