Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho con người Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN QUANG TUYNH

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA YẾU TỐ SINH HỌC VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG CON
NGƯỜI VÀO VIỆC CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ SỨC KHỎE CHO CON
NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ CNDVBC&CNDVLS

Mã số: 5 01 02

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN HÀM GIÁ

Hà nội - 2004


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 2
3. Mục đích nhiệm vụ của luận văn ................................................................... 5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 5
5. đóng góp của luận văn .................................................................................. 5
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn....................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
NỘI DUNG ......................................................................................................................... 6



Chƣơng 1: Quan điểm triết học Mác - Lênin về yếu tố sinh học và yếu tố xã
hội trong con ngƣời ......................................................................................... 6
1.1. Khái niệm yếu tố sinh học và yếu tố xã hội ................................................ 7
1.2 Mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người .......... 17
Chƣơng 2 : Vận dụng mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong
con ngƣời vào việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho con ngƣời Việt Nam hiện
nay ................................................................................................................. 37
2.1. Quan điểm hiện đại về sức khỏe ............................................................... 41
2.2 Những yếu tố tác động đến sức khỏe con người ........................................ 45
2.3 Một số hướng vận dụng mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội đối
với việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho con người trong điều kiện hiện nay ở
nước ta ............................................................................................................ 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................... 70


QUY ƢỚC VIẾT TẮT

TCN

Trước công nguyên

CNH

Công nghiệp hoá

HĐH

Hiện đại hoá


NXB

Nhà xuất bản

TDTT

Thể dục thể thao

KHHGĐ

Kế hoạch hoá gia đình


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện nay đã đưa con người
trở thành một nguồn lực đặc biệt của sản xuất nguồn lực cơ bản và vô tận. Con
người vừa là chủ thể, vừa là động lực và mục tiêu của sự phát triển xã hội. Nhận
thức rõ vấn đề này trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước ta đã đặt vấn đề
con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách kinh tế – xã hội, phát huy nhân
tố con người và vì con người, tạo điều kiện để con người phát triển hài hoà cả về
sức khỏe và trí tuệ, thể chất và tâm hồn. Đường lối phát triển kinh tế – xã hội do
Đảng ta đề xướng hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Đây là biểu hiện rõ rệt nhất về nhận thức của Đảng và nhà nước ta
về vai trò và vị trí của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Đồng thời thể hiện rõ mục tiêu phát triển con người của Đảng ta trong giai
đoạn hiện nay.
Nhằm thực hiện những mục tiêu đặt ra, những năm qua Đảng và nhà nước ta đã

có nhiều chủ trương, chính sách nhằm nâng cao đời sống mọi mặt về vật chất và
tinh thần cho nhân dân. Trong đó việc chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân
cũng ngày càng được quan tâm nhiều hơn. Song trong điều kiện đất nước ta còn
nghèo về kinh tế, lạc hậu về kỹ thuật, trình độ dân trí và điều kiện vệ sinh phòng
bệnh còn thấp, điều kiện sống và điều kiện vệ sinh lao động cũng chưa được cải
thiện nhiều nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chăm sóc, bảo đảm sức
khỏe cho con người. Những năm gần đây cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội,
mức sống của người dân đã được nâng lên một cách đáng kể từ việc ăn ở, đi lại,
điều kiện làm việc… Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng đã biểu lộ những ảnh hưởng
tiêu cực đối với sức khỏe cũng như quá trình chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân
dân: cuộc sống thiếu vận động, căng thẳng thần kinh – tâm lý, chế độ ăn thừa Calo.


Hơn 10 năm qua cơ cấu bệnh tật ở Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể. Ở
nước ta ngày càng xuất hiện nhiều hơn những bệnh liên quan đến rối loạn trao đổi
chất và hoạt động thần kinh trung ương: vữa xơ động mạch, bệnh thiếu máu cơ
tim, tăng huyết áp, bệnh thừa cân, bệnh tiểu đường, thoái hoá xương khớp và bệnh
suy nhược thần kinh… Tình hình đó đã và đang đặt ra những vấn đề cơ bản, cấp
thiết trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Do đó cần có những
luận chứng khoa học, cơ sở lý luận, phương pháp luận cho vấn đề chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho nhân dân. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu vấn đề con người dưới
những góc độ khác nhau và có những giá trị đáng kể, nhưng từ góc độ triết học,
nghiên cứu con người để phục vụ nhu cầu chăm sóc, bảo vệ cũng như phát triển
sức khỏe con người Việt Nam hiện nay đang là vấn đề có tính cấp thiết, cần được
quan tâm nghiên cứu sâu hơn. Với lí do trên tôi chọn vấn đề : “VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ SINH HỌC VÀ YẾU TỐ
XÃ HỘI TRONG CON NGƢỜI VÀO VIỆC CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ SỨC KHỎE CHO CON
NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY”

làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.


2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Triết học Mác - Lênin đã khẳng định con người là một bộ phận của thế giới tự
nhiên nhưng là một thực thể mang tính xã hội, một thực thể thống nhất hai mặt
(yếu tố) sinh học và xã hội. Hai mặt này không tách rời nhau, không đối lập nhau
mà thống nhất biện chứng với nhau. Mối quan hệ giữa chúng chi phối quá trình
hình thành, tồn tại và phát triển của con người. Đây là quan điểm hết sức biện
chứng và khoa học về con người. Nó đã tạo cơ sở khoa học cho triết học cũng như
các môn khoa học khác đi sâu vào nghiên cứu vấn đề con người.
Ở Việt Nam từ trước đến nay đã có nhiều tác phẩm, các bài viết, chuyên mục,
tạp chí bàn về con người ở nhiều khía cạnh khác nhau. Những năm về trước, dưới
góc độ triết học con người thường được bàn đến với tư cách là con người mới xã
hội chủ nghĩa mà ở đó chủ yếu đề cập đến nghĩa vụ của công dân đối với đất nước.


Vấn đề quyền lợi, sự công bằng xã hội cũng được đề cập nhưng còn mang tính tư
biện, ít gắn liền với thực tế. Những nhu cầu tự nhiên, tất yếu của con người chưa
được quan tâm thích đáng. Trong những năm gần đây kể từ đại hội Đảng lần thứ
VI, trong các nghị quyết của các kỳ đại hội, Đảng đã đặt con người vào vị trí trung
tâm của mọi chính sách kinh tế - xã hội thì việc nghiên cứu về con người ngày
càng được chú trọng hơn. Các công trình nghiên cứu con người đã đề cập đến
nhiều mặt, nhiều khía cạnh khác nhau. Chủ đề thường được chú ý đến trong các
công trình nghiên cứu là nguồn gốc, bản chất con người, nhân tố con người trong
lực lượng sản xuất, quyền con người, mối liên hệ giữa con người và tự nhiên, yếu
tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người.
Trong đó một số công trình có tính chất lí luận là cơ sở cho sự phát triển con
người trong giai đoạn hiện nay ở nước ta của các tác giả Đặng Hữu Toàn [49,tr9],
Hồ Sĩ Quí [43], Nguyễn Anh Tuấn [53,tr24], Vũ Trọng Dung [13,58], Trần Văn
Toàn [50,tr59], Đặng Xuân Kỳ[29,tr29], Lê Quang Hoan [18], Trần Văn Giàu

[45,tr6], Vũ Minh Tâm [55], Phạm Thị Ngọc Trầm[51]… Những công trình này đã
làm rõ thêm những luận chứng khoa học của chủ nghĩa Mác về nguồn gốc, bản
chất của con người. Trên cơ sở đó là tiền đề quan trọng cho các nhà triết học cũng
như các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác đi sâu nghiên cứu nhằm mục
tiêu phát triển con người.
Một số công trình nghiên cứu có tính chất tổng hợp đề cập những vấn đề toàn
diện xác định cơ sở cho chiến lược con người và sự phát triển xã hội như: đề tài
cấp nhà nước mang mã số KX-07 và KX-05 do giáo sư, viện sĩ Phạm Minh Hạc
làm chủ nhiệm đề tài. Bên cạnh đó là các công trình của các tác giả: Phạm Minh
Hạc [14,tr3], Nguyễn Văn Huyên [25], Nguyễn Trọng Chuẩn [4], Lê Hữu Tầng
[56,tr8], Vương Thị Bích Thuỷ [47,tr13]… Các công trình đã làm rõ thêm về vai
trò và vị trí của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, từ đó đưa ra
những quan điểm mới về sự phát triển và tiến bộ xã hội. Triết học hướng tới cái


đích đó là sự hạnh phúc của con người, vì sự tiến bộ và phát triển, hướng con
người tới Chân, Thiện, Mỹ. Triết học có nghĩa vụ góp phần làm tăng thêm khả
năng của con người trong quá trình cải tạo thế giới khách quan.
Một số công trình có tính chất chuyên khảo của các tác giả: Trần Phương Hạnh
[17], Vũ Trọng Hùng [24], Phạm Thành Hổ [23], Nguyễn Đình Khoa [28], Phạm
Thị Ngọc Trầm [52,tr26]… đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu khả năng của con người
– sinh vật hoàn chỉnh nhất của thế giới. Qua đó đã góp phần khẳng định con người
chính là đối tượng để triết học và các khoa học khác tiếp tục nghiên cứu, đưa ra
những luận chứng khoa học cho quá trình chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người.
Một số công trình đã đi sâu nghiên cứu trực tiếp mối quan hệ trực giữa yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội trong con người của các tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn
[5,tr13], Trần Đức Long [31,tr17], Vũ Thiện Vương [58,tr30], Vũ Tùng Hoa [22],
Nguyễn Thừa Nghiệp [40]… Dựa trên những luận cứ khoa học, các tác giả đã đạt
được những kết quả nghiên cứu khá sâu sắc và có hệ thống mối quan hệ giữa yếu
tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người, đưa ra được một số giải pháp cơ bản

cho việc nghiên cứu, phát triển con người.
Một số công trình triết học của các tác giả đã đề cập đến góc độ sức khỏe của
con người: Trần Văn Thụy [48,tr67], Nguyễn Hiền Lương [32], Lê Hồng Khánh
[27]... Trên cơ sở nghiên cứu con người trong chỉnh thể sinh học – xã hội các tác
giả bước đầu đã đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng của
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
Như vậy từ trước tới nay ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về sự ảnh hưởng của mối liên hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố
xã hội đối với quá trình chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho con người. Đây là vấn đề
luận văn quan tâm.


3. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

Mục đích: Luận văn tập trung phân tích quan điểm triết học Mác – Lênin về
con người - thực thể thống nhất giữa cái sinh học và cái xã hội, từ đó, luận giải cơ
sở khoa học và đưa ra một số hướng chủ yếu cho việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe
cho con người trong điều kiện của nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích đó, luận văn có nhiệm vụ :
- Làm rõ quan điểm của triết học Mác – Lênin về con người - thực thể thống
nhất giữa cái sinh học và cái xã hội.
- Luận giải mối liên hệ giữa các yếu tố sinh học, xã hội và quá trình chăm
sóc và bảo vệ sức khỏe cho con người.
- Nêu ra một số hướng chủ yếu vận dụng mối quan hệ đó để chăm sóc và bảo
vệ sức khỏe cho con người ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
4. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác – Lênin, quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và phát triển con người.
Đồng thời luận văn cũng tham khảo các tài liệu, các công trình nghiên cứu, các bài

viết của các tác giả trong và ngoài nước về vấn đề này.
- Về phương pháp nghiên cứu.
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
các phương pháp triết học: phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, lịch sử - lôgíc, kết
hợp giữa phân tích lí luận và minh chứng bằng tài liệu khoa học.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

- Luận văn tập trung luận chứng mối liên hệ chặt chẽ giữa yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội là cơ sở khoa học cho việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cũng như
điều trị bệnh tật cho con người.
- Nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc chăm sóc và
bảo vệ sức khỏe trong điều kiện nước ta hiện nay.


6. Ý NGHĨA LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN

- Về mặt lí luận : trên cơ sở nghiên cứu mối liên hệ giữa yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội với sức khỏe của con người, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham
khảo trong công tác nghiên cứu những vấn đề triết học trong y học.
-

Về mặt thực tiễn: luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây

dựng những biện pháp nhằm nâng cao hiệu qủa trong việc chăm sóc và bảo vệ sức
khỏe cho con người nói chung cũng như việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho
nhân dân ta hiện nay, thực hiện mục tiêu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước cho con người, vì con người.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Luận văn gồm: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.

Phần nội dung gồm 2 chương 5 tiết.


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ YẾU TỐ SINH
HỌC VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG CON NGƢỜI
1.1. KHÁI NIỆM YẾU TỐ SINH HỌC VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI

Vấn đề con người là vấn đề triết học có ý nghĩa đặc biệt được đề cập nhiều
trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Cả triết học Phương Đông và PhươngTây đều đã
cố gắng tìm hiểu và giải thích con người là gì? Bản tính con người do đâu chi
phối?.. và cũng đã có nhiều cách trả lời khác nhau.
Các nhà triết học cổ đại trong quá trình đi tìm hiểu bản tính con người đã đề
cập đến yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. Một số nhà triết học
Phương Đông cổ đại cũng đã có những nhận thức khá sâu sắc về những yếu tố tự
nhiên ngự trị trong mỗi con người, qui định bản tính con người. Từ đó, họ đưa ra
một hệ thống các qui phạm đạo đức để tu dưỡng mình và nhằm giáo dục cho xã
hội. Một số trường phái triết học cũng đã đề cập đến mặt sinh học chi phối hành vi
con người như là bản năng (lục dục, thất tình). Theo họ, trong con người luôn diễn
ra sự chế ước lẫn nhau một bên là bản năng với một bên là ý thức con người. Các
nhà triết học Phương Tây cổ đại đã nhất trí rằng cái bản tính con người là yếu tố tự
nhiên, tất yếu, là cái giống nhau, cái bẩm sinh trong mỗi con người. Còn sự khác
nhau giữa con người đó là do môi trường tạo nên. Một số nhà triết học đã có những
tiêu chí để phân biệt giữa con người và con vật, tuy rằng họ chưa chỉ ra bản chất
sinh học và bản chất xã hội ở con người nhưng khi nói về con người các nhà triết
học đã đề cập đến một trong hai yếu tố đó trong tư tưởng triết học của mình.
Aristốt (384 –322 TCN) đã gọi con người là một “động vật chính trị”, có thể ông
đã nhận thấy trong con người có hai nhân tố khởi nguyên: động vật (sinh học) và
chính trị (xã hội). Mặc dù ông không đưa ra khái niệm yếu tố sinh học và yếu tố xã



hội và vai trò của mối liên hệ giữa chúng nhưng trong nhận thức của ông về bản
tính con người đã có một sự tiến bộ về chất. Trong lĩnh vực y học Hypôcrát (460 –
377 TCN) cũng cho rằng con người luôn chịu sự chi phối bởi qui luật chung của
sinh vật và môi trường mình đang sống. Do đó người thầy thuốc cần chú ý đến chế
độ ăn uống, cách sinh hoạt, tuổi tác, hoàn cảnh sống của người bệnh, đất đai,
nguồn nước, thời tiết, địa phương nơi có dịch. Tuy chưa chỉ rõ được sự ảnh hưởng
của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội đối với sức khỏe con người và vận dụng nó
vào trong quá trình điều trị bệnh tật, song ông đã thấy bệnh tật có những nguyên
nhân hiện diện ở môi trường xung quanh con người và phát triển theo qui luật tự
nhiên.
Thời kỳ trung cổ dưới sự thống trị của tôn giáo, họ đã đề cao yếu tố tinh thần
đến mức tuyệt đối hoá. Chính điều này đã kìm hãm con người trong sự khắc kỷ,
kìm hãm sự phát triển tự nhiên của con người cả về mặt thể chất và trí tuệ. Do trình
độ nhận thức cũng như ý thức tôn giáo mà mặt sinh học của con người trong thời
kỳ này ít được quan tâm.
Thời kỳ phục hưng cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, vấn đề con
người cũng được hầu hết các nhà triết học quan tâm nghiên cứu. Các khoa học về
con người như giải phẫu, sinh lý, sinh hoá… phát triển mạnh mẽ, tạo ra những tiền
đề khoa học quan trọng cho việc nghiên cứu triết học về con người . Tuy vậy cách
nhìn con người của họ cũng mới dừng lại ở góc độ thể xác và tinh thần. Con người
được đem phân tích mổ xẻ như một cái máy đang hoạt động như quan niệm về
“thực thể” của Spinôda, ở “đơn tử” của Lepnít, ở “năng lượng tinh thần” của
Bêcơn hay trong chủ nghĩa duy lý của Đêcactơ. Nói chung thời kỳ này chưa xuất
hiện khái niệm “yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người”. Cho nên, họ
cũng chưa đặt con người trong chỉnh thể sinh học – xã hội. Song những quan điểm
duy vật về con người ở thời kỳ này đã trở thành những tiền đề cho những quan
điểm khoa học về con người sau này.



Vấn đề con người đã được triết học cổ điển Đức nghiên cứu khá phong phú và
sâu sắc. Hêghen trong quá trình đi chứng minh “ý niệm tuyệt đối” là thực tại duy
nhất và bao trùm tất cả, tuy chưa dùng khái niệm con người sinh học –xã hội
nhưng ông đã lí giải khá sâu sắc mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.
Ông cho rằng con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt động của
chính bản thân chủ thể ấy, hoạt động của con người ngày càng phát triển bao nhiêu
thì ý thức càng mang bản chất xã hội bấy nhiêu. Như vậy nếu lược bỏ yếu tố thần
bí trong triết học Hêghen thì tư tưởng nổi bật của ông là: Con người hoàn thiện
chính là nhờ lao động. Song Hêghen đã sai lầm ở chỗ biến con người tự ý thức và
tự ý thức được coi là phương thức tồn tại duy nhất của con người. L. Phoi - ơ - bắc
cũng đã đạt tới phân biệt con người tự nhiên và con người tự ý thức. Theo ông con
người mà trong chừng mực nó là một thực thể hành động một cách không tự chủ
và vô ý thức thì thuộc về thế giới tự nhiên cũng như ánh sáng, không khí, nước,
lửa, đất và cây cối. Trong con người linh hồn và thể xác có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Con người suy nghĩ bằng cái đầu, bằng bộ óc của chính mình, mà đầu óc
là tồn tại thực có cảm tính. Ông cũng đã đề cập đến bản tính tự nhiên của con
người và cho bản tính tự nhiên của con người là tồn tại thực. Tuy nhiên, do đã trừu
tượng hoá con người nên ông đã không thấy được tính biện chứng và sự năng động
của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong quá trình phát triển, hoàn thiện bản thân
con người.
Cùng với sự phát triển của khoa học nói chung, các nhà triết học, xã hội học và
khoa học Phương Tây hiện đại đã đạt được những tiến bộ trong quá trình nghiên
cứu con người. Đã có nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu mặt sinh học và mặt xã hội
trong con người. Song khi đề cập đến khái niệm yếu tố sinh học và yếu tố xã hội,
họ thường gắn nó vào một lĩnh vực nào đó để xem xét. Một số tác

giả đưa ra

định nghĩa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người nhưng còn chưa đúng
hoặc chưa thực sự hoàn chỉnh. Như vậy yếu tố sinh học và yếu tố xã hội đã được



đề cập nghiên cứu trong lịch sử triết học từ thời cổ đại (cả Phương Đông và
Phương Tây) cho đến các nhà triết học, khoa học Phương Tây hiện đại. Song do
trình độ nhận thức, ý thức giai cấp và chịu sự ảnh hưởng của những quan điểm triết
học khác nhau mà quan điểm của các tác giả về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội là
khác nhau. Nhiều tác giả chưa đưa ra khái niệm về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội
trong con người. Một số tác giả thì đưa ra những khái niệm gắn với lĩnh vực mình
nghiên cứu cho nên còn phiến diện, chưa đầy đủ, thiếu chính xác và chưa thực sự
khoa học. Họ chưa nhận thấy yếu tố sinh học và yếu tố xã hội tuy có vị trí, vai trò
khác nhau trong con người nhưng chúng thống nhất với nhau chi phối sự hình
thành phát triển của con người.
Xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để và phương pháp luận biện chứng,
triết học Mác – Lênin đã nghiên cứu con người trên cơ sở các thành tựu của khoa
học tự nhiên cũng như khoa học xã hội đương thời. Chính điều này đã góp phần
tạo nên một bước tiến dài về mặt nhận thức về con người trong triết học Mác –
Lênin. Qua quá trình nghiên cứu bản chất con người, triết học Mác – Lênin đã
khẳng định mặt (yếu tố) sinh học, mặt (yếu tố) xã hội và mối quan hệ biện chứng
giữa chúng chi phối quá trình tồn tại và phát triển của con người.
Triết học Mác – Lênin đã khắc phục việc nghiên cứu con người một cách trừu
tượng bằng cách xem xét con người hiện thực trong sự phát triển lịch sử cụ thể của
nó. Con người trong triết học Mác – Lênin ở một chừng mực nào đó họ là hiện
thân của những phạm trù kinh tế, là đại biểu cho quan hệ giai cấp và lợi ích nhất
định. Nhưng không phải vì thế mà khái niệm con người trong triết học Mác –
Lênin chỉ gắn liền với các quan hệ chính trị – xã hội và kinh tế mà bao gồm trong
đó toàn bộ các mặt của đời sống con người. Tức là từ khởi nguồn “tổ chức thể
chất”, đời sống vật chất cho đến đời sống tinh thần của con người. Khi đưa ra luận
điểm con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, triết
học Mác – Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học và phát



triển nó lên một tầm cao mới. Con người trong triết học Mác – Lênin, là sự thống
nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Cả hai yếu tố này kết hợp chặt chẽ với
nhau, thâm nhập vào nhau, tác động lẫn nhau. Sự tác động lẫn nhau của chúng chi
phối, ảnh hưởng đến mọi quá trình hoạt động sống của mỗi cá thể người cũng như
cộng đồng người và toàn xã hội. Cái vĩ đại của triết học Mác – Lênin khi nghiên
cứu vấn đề này chính là ở chỗ khi khẳng định yếu tố xã hội trong con người thì
cũng đồng thời khẳng định được vai trò quan trọng của yếu tố sinh vật. Điều này
được thể hiện rõ khi Mác khái quát về bản chất con người.: “Phoi ơ bắc hoà tan
bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội”.[33,tr11]
Khẳng định yếu tố sinh vật trong con người với tư cách trong chỉnh thể với yếu
tố xã hội khi triết học Mác thừa nhận con người là một động vật cao cấp nhất, sản
phẩm của sự tiến hoá lâu dài của thế giới sinh vật. Điều này đã được các ngành
khoa học, đặc biệt là khảo cổ học và sinh học chứng minh. Trong đó, phải kể đến
công trình vĩ đại của Đác Uyn với “Thuyết tiến hoá” và “Sự phát sinh loài người
và chọn lọc giới tính”. Trong những công trình này Đác Uyn đã vận dụng những
luận điểm cơ bản của tiến hoá luận mà ông đã trình bày trong “nguồn gốc các
loài”. Nội dung cơ bản của nó là luận giải quan niệm của ông về cội nguồn loài
người. Công trình của Đác Uyn về nguồn gốc loài người là một sự khám phá mới
mẻ của khoa học con người, một trong những sự tiên đoán đáng khâm phục về cái
nôi của loài người. Những tiền đề sinh học cơ bản để vượn biến thành người, theo
Đác Uyn là việc chuyển từ đi bốn chân sang đi bằng hai chân, từ đó giải phóng đôi
tay, tạo ra công cụ để sinh sống và tự bảo vệ. Ông cho rằng ngôn ngữ của con
người cần cho giao tiếp cộng đồng không phải là bản năng bẩm sinh mà là một
hiện tượng tiếp thu trong đời sống, trên cơ sở mối quan hệ giữa qui luật sinh học và
xã hội. Về tác động của chọn lọc tự nhiên mà ông coi nó là động lực tiến hoá làm



cho vượn thành người, đến người hiện đại, theo ông thì xã hội đã làm cho vai trò
của động lực này yếu đi.[28,tr90] Tri thức khoa học cũng như mọi lĩnh vực khác
của đời sống xã hội đều có tính lịch sử. Bên cạnh những nhận thức cơ bản đúng
đắn vừa trình bày về nguồn gốc của con người thì quan điểm của Đác Uyn không
khỏi còn những hạn chế. Ông đã quá nhấn mạnh sự tương đồng giữa người và
vượn, nhất là vượn bậc cao với người, cả về mặt hoạt động tinh thần, về tâm lý
học, đạo đức. Ông đã viết “Mục đích của tôi trong chương này là chứng minh khả
năng tinh thần giữa người và các động vật có vú bậc cao là không hề có sự khác
biệt cơ bản… nói chung sự khác biệt chỉ về mặt số lượng”.[11,tr186] Tuy ông đã
nêu rõ đặc điểm riêng ở người là nhờ bàn tay được giải phóng mà chế tác công cụ
lao động, nhưng chưa đánh giá đúng mức vai trò của lao động ở con người, coi đó
là nhân tố quyết định làm cho vượn thành người, là nhân tố đưa con người phát
triển, tiến hoá. Khi đề cập đến đời sống xã hội của con người, ông có những nhận
thức phiến diện về mối quan hệ giữa qui luật tự nhiên sinh học và qui luật xã hội ở
con người. Ông gán cho sự phát triển về tinh thần như lòng vị tha, chí dũng cảm,
tất cả những đức tính có lợi cho con người hoặc bộ tộc của con người là do vai trò
của tự nhiên.
Trên cơ sở kế thừa có phê phán những giá trị của học thuyết Đác Uyn về
nguồn gốc loài người và các khoa học có liên quan, triết học Mác – Lênin đã nhận
thức và giải thích khoa học về con người. Triết học Mác – Lênin khẳng định sự
xuất hiện loài người tuân theo qui luật chọn lọc tự nhiên. Con người có nguồn gốc
từ khỉ, nhưng đã là con người thì khác hẳn với vượn về chất. Trong tác phẩm: “Bản
thảo kinh tế triết học năm 1844” Mác khẳng định rằng con người có nguồn gốc từ
thế giới tự nhiên, là một bộ phận tự nhiên, gắn bó với tự nhiên cho nên con người
luôn chứa đựng những yếu tố của tự nhiên - đó là yếu tố sinh vật. [35,tr231 - 232]
Tức là con người cũng phải tuân theo những qui luật của tự nhiên, qui luật sinh vật.
Con người phải tìm kiếm thức ăn, nước uống…trong thiên nhiên. Cũng như mọi


động vật khác con người phải đấu tranh để sinh tồn, sinh con đẻ cái, cơ thể con

người cũng phải tuân theo những qui luật thích ứng với môi trường, qui luật biến
dị, di truyền, tiến hoá của sinh vật… để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên triết học
Mác – Lênin không thừa nhận quan điểm cho rằng cái duy nhất tạo nên bản chất
con người là đặc tính sinh học, là bản năng sinh vật của con người. Con người vốn
là một sinh vật có đầy đủ các đặc trưng của sinh vật. Song con người lại có sự khác
biệt về chất so với các sinh vật khác. Đó chính là mặt xã hội của con người. Con
người là sản phẩm cao nhất của quá trình tiến hoá. Bộ óc con người với cấu trúc
tinh vi, vô cùng phức tạp và siêu phàm, cùng với đôi tay được giải phóng là tiền đề
tự nhiên quan trọng của ý thức: “Bộ não lớn xuất hiện đã tạo ra những tiền đề tự
nhiên, quan trọng của ý thức”.[40,tr29] Sự khác biệt lớn nhất giữa con người và
các sinh vật khác chính là nhờ vai trò của lao động. Mác và Ăngghen đã nói về vai
trò của lao động đối với con người: “ Có thể phân biệt con người với súc vật bằng
ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người
bắt đầu tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu sinh
hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người qui định. Sản
xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như vậy con người đã gián tiếp sản xuất
ra chính đời sống vật chất của mình”.[33,tr29] Sự chuyển biến từ vượn thành người
còn được đánh dấu bằng sự nhận xét “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, còn
con người thì tái sản xuất ra toàn bộ thế giới tự nhiên” [35,tr137] Như vậy triết học
Mác - Lênin đã khẳng định bản tính tự nhiên hay mặt sinh vật của con người chưa
đủ để giải thích một cách khoa học về nguồn gốc và quá trình hình thành con
người. Một yếu tố hết sức quan trọng có tính chất quyết định sự hình thành con
người đó là yếu tố xã hội. Sự tiến hoá đơn thuần bằng con đường sinh học không
thể xuất hiện con người có ý thức. Sở dĩ óc vượn có thể chuyển thành bộ óc người,
tâm lý động vật có thể chuyển thành ý thức của con người chủ yếu là do nguồn gốc
xã hội hay mặt xã hội của con người mà trực tiếp là lao động và ngôn ngữ.


Theo khảo cổ học con người có ý thức xuất hiện sau khoảng 1,5 đến 2 triệu
năm sau khi tổ tiên con người đã được hình thành về mặt sinh học.[40,tr27] Trong

tác phẩm “Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến vượn thành người”,
Ăngghen đã trình bày về quá trình chuyển hoá từ vượn thành người. Theo ông
vượn người là hình thức phát triển cao nhất của động vật, do hoàn cảnh và điều
kiện sống thay đổi phải di chuyển trên mặt đất để kiếm sống. Hai chi trước được
giải phóng có thể tự do thực hiện kiếm ăn và lợi dụng những vật tự nhiên để chống
kẻ thù, dần dần sự đi thẳng được khẳng định và đôi tay ngày càng tinh xảo hơn.
Nhờ có lao động, có sự thích nghi với động tác ngày một mới, nhờ có sự di truyền
của sự phát triển đặc biệt tinh xảo và những động tác mới ngày càng phức tạp mà
bàn tay người đã đạt đến trình độ hoàn thiện cao, để có thể tạo ra những sản phẩm
tinh vi mà con vật không thể làm được. Chính trong quá trình lao động, con người
thường xuyên làm biến đổi điều kiện tồn tại của mình, nhằm thoả mãn nhu cầu sinh
hoạt của mình và tạo ra văn hoá. Đồng thời thông qua quá trình lao động mà con
người liên kết với nhau, làm biến đổi hàng loạt bản tính tự nhiên của con người.
Hơn thế nữa thông qua lao động còn là điều kiện để xuất hiện những thuộc tính xã
hội của con người như ngôn ngữ, chữ viết, ý thức, tư duy, biết định hướng các giá
trị. Cho nên có thể nói con người thực sự trở thành người khi bắt đầu lao động và
cùng với lao động con người có ngôn ngữ. Đây chính là hai điều kiện tất yếu, là
động lực chủ yếu làm cho vượn chuyển thành người. Quá trình vượn chuyển thành
người cũng gắn liền với quá trình bầy vượn biến thành xã hội loài người. Trong tác
phẩm: “Biện chứng của tự nhiên” Ăngghen đã viết: “lao động là nguồn gốc của
mọi cái… nhưng lao động còn là một cái gì đó vô cùng lớn lao hơn thế nữa, lao
động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và như thế đến
một mức mà trên ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói : lao động đã sáng tạo ra bản
thân con người”. [34,tr641] Khi khẳng định điều này Ăngghen không hề bỏ qua
quá trình tiến hoá sinh học. Trong quá trình tiến hoá đó yếu tố xã hội bắt đầu nhen


nhóm ngay trong những quần thể động vật mà đặc biệt là loài khỉ và cao hơn cả là
vượn người. Trong suốt quá trình đó cái bản năng xã hội hay tính xã hội ngày càng
phát triển. Nó lọc bỏ và bao trùm dần từng bước cái bản năng sinh học. Ngay cả

lao động từ lúc mới phát sinh từ tổ tiên loài vượn thì vẫn còn mang tính bản năng,
nhưng khi ý thức và ngôn ngữ đã xuất hiện và phát triển thì lao động mới trở thành
lao động có tính xã hội.
Như vậy là triết học Mác - Lênin luôn xem xét con người trong một chỉnh thể
thống nhất giữa hai mặt: mặt tự nhiên (sinh vật) và mặt xã hội. Hai mặt này tác
động biện chứng không tách rời nhau, qui định bản chất con người và sự phát triển
của con người. Mặc dù chưa thấy tài liệu nào của Mác, Ăngghen hay Lênin đưa ra
một khái niệm riêng biệt về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. Tuy
vậy trong quá trình nghiên cứu con người, các ông đã trình bày về hai yếu tố này
một cách hệ thống và sâu sắc. Sau này các nhà triết học theo chủ nghĩa Mác Lênin tiếp tục nghiên cứu tư tưởng của các ông về con người, kết hợp với thành
tựu của khoa học xã hội và khoa học tự nhiên đã đưa ra một số khái niệm về yếu tố
sinh học và yếu tố xã hội. Các nhà khoa học Liên xô cũ đã đưa ra những khái niệm
khác nhau về hai yếu tố này ở mức độ hoàn thiện khác nhau. Tác giả Vưgốtxki cho
yếu tố sinh học là những quá trình và hiện tượng bị giới hạn hoặc bởi tính di
truyền hoặc là bởi những điều kiện bên trong cơ thể và rốt cuộc có thể qui về các
qui luật sinh học đã biết [57]. Theo ông những yếu tố sinh học là những quá trình
và hiện tượng không nằm ngoài những gì thuộc về cơ thể con người. Điều này còn
khá trừu tượng, chưa thực sự rõ ràng. R.A.Cacxaepxkaia cho rằng yếu tố sinh học
là gồm những yếu tố sinh vật và những yếu tố phi sinh vật. Những yếu tố sinh vật
bao gồm: cấu tạo, yếu tố phát sinh, ăn uống, bệnh tật, nòi. Còn yếu tố phi sinh vật
bao gồm: khí hậu, sự dao động của nhiệt độ và ánh sáng theo mùa, sự phát triển,
vòng quay của trái đất [59]. Vậy là R.A.Cacxaepxkaia đã giới hạn yếu tố sinh học
trong cơ thể con người. Theo tác giả N.P.Đubinin thì yếu tố sinh học của con người


trước tiên phải thuộc về thiên nhiên, là một phần của thiên nhiên. Mặt khác, yếu tố
sinh học của con người phải gắn chặt với đặc tính di truyền, với cấu trúc gen vừa
bao gồm cả đặc tính chung của loài lẫn những đặc tính riêng qui định sự khác nhau
giữa cá thể này với cá thể kia [60,tr81]. Còn theo B.M.Kê đrôp thì yếu tố sinh học
là tư chất thiên nhiên tiềm ẩn trong cá thể như là một tiền đề, còn yếu tố xã hội như

là các điều kiện cần thiết cho tiền đề này được bộc lộ phát triển và chuyển hoá vào
hành động của cá thể đó [61,tr144]. Vậy là ông cũng chưa đưa ra được một khái
niệm chung về yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người mà đi vào trình
bày về mối quan hệ giữa chúng.
Khi bàn về yếu tố xã hội cũng có nhiều tác giả đưa ra nhiều quan điểm khác
nhau, ở nhiều khía cạnh khác nhau với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Lêônôvích
cho rằng yếu tố xã hội bao gồm lao động, quan hệ giữa người với người (chủ yếu
là quan hệ sản xuất), môi trường sống đã được con người sáng tạo và di sản tư
tưởng con người sáng tạo nên bao gồm tất cả hình thái kinh tế – xã hội, trừ tôn giáo
[62]. Đây là quan điểm chưa hẳn đúng vì yếu tố xã hội trong con người cần phải
hiểu là cái cùng với yếu tố sinh học tạo nên chỉnh thể sinh học – xã hội trong con
người, là yếu tố kết tinh trong bản chất con người, phân biệt con người với con vật.
Yếu tố xã hội trong con người không phải chỉ đơn thuần là sự qui định về mặt xã
hội hay sự tác động, ảnh hưởng của môi trường sống tạo nên mà nó còn có khả
năng nhận thức, trí nhớ, tư duy lôgíc, tình cảm khác nhau của mỗi người tạo nên.
Nếu chỉ có yếu tố ảnh hưởng của xã hội, môi trường thì không thể tạo nên yếu tố
xã hội một cách đầy đủ trong con người. Đối với N.P.Đubinin thì dường như yếu
tố xã hội được di truyền lại cho thế hệ mai sau. Yếu tố xã hội trong con người là
yếu tố đã được chủ thể hoá, đã được mã hoá và truyền theo các kênh thông tin
mang tính xã hội khác.[60,tr82] Song tựu chung lại các tác giả đều đi đến sự thống
nhất khi cho rằng: yếu tố sinh học (sinh vật, cái sinh vật) trong con người là những
yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái về mặt phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật của


con người, những cái làm cho con người hình thành và hoạt động như một cá thể,
như một hệ thống phục tùng các qui luật sinh học hoặc cũng có thể coi đó là toàn
bộ tiền đề sinh học của con người. Còn yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ,
những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những
sự qui định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người. Trong đại đa số trường hợp
nếu thiếu chúng thì nhiều đặc tính, nhiều cấu trúc, ví dụ: ngôn ngữ, tư duy trừu

tượng, qui phạm đạo đức v.v… sẽ không bao giờ hình thành được.
Đây là khái niệm hoàn chỉnh và khoa học về yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội
trong con người. Với ý nghĩa đó nó đã trở thành cơ sở quan trọng để triết học và
các khoa học về con người đi vào nghiên cứu những vấn đề có tính vận dụng nhằm
phục vụ cho quá trình phát triển con người. Trong luận văn này chúng tôi cũng đã
dựa trên cơ sở của khái niệm này để nghiên cứu vấn đề đã đặt ra.
1.2 MỐI QUAN HỆ GIỮA YẾU TỐ SINH HỌC VÀ YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG CON
NGƢỜI

1.2.1 Một số quan điểm của các nhà triết học và các học giả tƣ sản Phƣơng
Tây
Từ cách nhìn còn phiến diện thiếu khoa học về khái niệm yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội trong con người nên họ cũng chưa xác định đúng vai trò, vị trí của
từng yếu tố trong sự hình thành, phát triển con người. Họ chưa thấy được mối quan
hệ biện chứng giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội chi phối quá trình hình thành
và phát triển của con người.
Từ đó dẫn tới tình trạng hoặc là coi mặt sinh học là quyết định hoặc là coi mặt
xã hội là quyết định. Cũng có một số tác giả thừa nhận vai trò của hai yếu tố này
nhưng khi xem xét chúng họ lại tách rời mà không xem xét chúng trong mối quan
hệ biện chứng với nhau. Đó là những quan điểm không đúng về vị trí, vai trò của
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. Ở đó xem xét chúng trên cơ sở
cái sinh học không có tính chất xã hội và cái xã hội không có tính chất sinh học.


Bên cạnh các quan điểm của các nhà triết học, khoa học, còn có các quan điểm của
các nhà hoạt động chính trị, xuất phát từ lập trường giai cấp và lợi ích chính trị
khác nhau để phục vụ cho lợi ích của họ. Song tựu chung lại có hai quan điểm cơ
bản nổi bật trong các trào lưu này gần như đối lập nhau: quan điểm duy sinh vật và
quan điểm duy xã hội. Đây là hai thái độ cực đoan trong việc giải quyết vấn đề
tương quan giữa mặt sinh học và mặt xã hội.

* Quan điểm duy sinh vật
Những người theo quan điểm này đã tuyệt đối hoá vai trò của yếu tố khởi
nguyên sinh học, yếu tố tự nhiên trong con người. Họ coi yếu tố sinh học như là
yếu tố quyết định trong con người. Con người đều bị sự chi phối, quyết định bởi bộ
gen di truyền, xã hội không thể cải tạo được. Từ đó dẫn tới họ đi đến đề cao bản
năng con người.
Ngay trong triết học Trung Quốc cổ đại, khi nghiên cứu vấn đề bản tính con
người các nhà triết học đều có những kết luận rất khác nhau. Theo Mạnh Tử: bản
tính con người là thiện. Tuân Tử cho rằng bản tính con người là ác vì nhằm thoả
mãn các nhu cầu vật chất của mình như mắt thích nhìn sắc đẹp, tai thích nghe điều
hay, ăn thì thích ăn vị ngon, ở muốn nơi thoải mái… Còn Trang Tử thì quan niệm:
vì sinh ra từ đạo tự nhiên nên mỗi người đều có một bản tính, một khả năng, một
sở thích riêng. Sự sống, chết của con người là quá trình tất nhiên. Con người không
cần cải biến sự vật mà cần phải tuyệt đối phục tùng qui luật khách quan. Nhìn
chung các nhà triết học Trung Quốc cổ đại đề cập nhiều đến bản tính tự nhiên của
con người. Họ cho đó là có sẵn của con người. Bản tính thiên nhiên bẩm sinh
giống nhau ở mỗi con người.
Khoảng những năm 60 của thế kỷ 19 sau khi thuyết tiến hoá của Đác Uyn ra
đời (1859) với tác phẩm “Nguồn gốc các loài” mở ra một chương mới cho sự phát
triển sinh học. Tuy nhiên một số nhà triết học, xã hội học đã lợi dụng học thuyết
này để giải thích các hiện tượng xã hội và hình thành học thuyết Đác Uyn xã hội.


Những người ủng hộ học thuyết này đã cố gắng giải thích các hiện tượng trong đời
sống xã hội dựa trên học thuyết của Đác Uyn về chọn lọc tự nhiên và tiến hoá. Từ
đó họ đã đi đến chỗ cho rằng các đại biểu của giai cấp thượng lưu chiếm vị trí lãnh
đạo trong xã hội vì đó là những người phát triển cao hơn về mặt sinh học. Trong số
đó phải kể đến Langhê, người đã lấy qui luật chọn lọc tự nhiên của Đác Uyn và
học thuyết của Man Tuýt về dân số để lí giải cho cuộc đấu tranh trong xã hội. Bởi
vậy, ông ta cho rằng các cuộc đấu tranh trong xã hội là cuộc đấu tranh sinh tồn, là

qui luật tất yếu sinh học. Như vậy học thuyết Đác Uyn xã hội coi đấu tranh sinh
tồn và chọn lọc tự nhiên là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Học thuyết
này đã có sự ảnh hưởng tương đối mạnh mẽ ở Phương Tây vào cuối thế kỷ 19 đầu
thế kỳ 20. Một số người tán thành học thuyết này vẫn cho rằng chọn lọc tự nhiên
và đấu tranh sinh tồn còn tiếp tục diễn ra trong xã hội loài người.
Trong chủ nghĩa hiện thực khoa học mà tiêu biểu là nhà di truyền học người
Anh Đarlingtơn, nhà hành vi học người áo K. Lorens và Uynxơn đã đề cao quá
mức dẫn đến tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật [63]. Theo Đarlingtơn ngay cả sự phân
chia xã hội thành giai cấp, sự xuất hiện chủ nghĩa phân biệt chủng tộc… đều được
định trước trong gen của con người [65,tr233]. Còn Uynxơn thì coi sinh học là
phương thức vạn năng để giải thích toàn bộ hiện thực. Ông ta đi vào nghiên cứu
ranh giới giữa mặt sinh học và mặt xã hội trong con người, nhưng cuối cùng lại đi
đến tuyệt đối hoá mặt sinh học trong con người. Theo ông khả năng của con người
chủ yếu là do tính di truyền quyết định còn vai trò của yếu tố xã hội là rất nhỏ.[64]
K.Lorens trên cơ sở nghiên cứu hành vi của một số loài động vật trong điều kiện tự
nhiên đã thấy rằng, trong những điều kiện nhất định ở phần lớn động vật dường
như có một cơ chế bản năng hiếu chiến và chúng tấn công vào các đại diện khác
của cùng loài. Từ đó ông ta kết luận con người cũng có bản năng hiếu chiến như
con vật, đấu tranh nhằm chống lại đồng loài của mình.[64] Như vậy, theo ông
trong quá trình phát triển của mình con người không phải phụ thuộc chủ yếu vào


yếu tố xã hội mà các hành động của con người là do các cấu trúc gen di truyền từ
tổ tiên loài người qui định.
Thuyết “Phân tâm học” của S. Freud cũng thể hiện quan điểm duy sinh vật. Nó
cực đoan về vai trò yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con người. Thực chất
quan niệm của “Phân tâm học” về tương quan giữa mặt sinh học và mặt xã hội là ở
chỗ: nó cho rằng tâm lý con người được quan niệm chẳng quan là sự biến thái của
cái bản năng sinh dục, đam mê tình dục, như là sự phát triển che dấu và thăng hoa
của giới tính. Đối với “Phân tâm học” toàn bộ mặt xã hội trong tâm lý người chẳng

qua chỉ là mặt khác của giới tính, là biểu hiện quanh co của những đam mê bẩm
sinh. Do vậy, nhiệm vụ của “Phân tâm học” chỉ là làm sao nhìn nhận được cơ sở
sinh vật của toàn bộ những biểu hiện của nhân cách, vạch ra, hạt nhân tự nhiên của
mỗi hình thức văn hoá của hành vi đào, xới mãi các cơ sở bẩm sinh vô thức của
văn hoá cá nhân và văn hoá xã hội, qui giản chúng về khởi nguyên của đời sống
tâm lý, chuyển dịch văn hoá sang ngôn ngữ của tự nhiên. S.Freud coi bản năng tính
dục của con người là cơ sở duy nhất cho các hoạt động của con người. Điều đó là
không đúng. Như Mác nói: “ cố nhiên là ăn uống, sinh con đẻ cái… cũng là những
chức năng thực sự có tính người, nhưng nếu bị tách một cách khó hiểu ra khỏi
phần còn lại của phạm vi hoạt động của con người và do đó biến thành mục đích
cuối cùng và duy nhất thì những chức năng ấy mang tính súc vật”.[36,tr115] Vậy
là theo Mác, không thể tách rời tính xã hội, tách rời phương thức sản xuất của xã
hội để bàn luận về hành vi của con người một cách trừu tượng kể cả hành vi tính
dục. Thuyết “Phân tâm học” của S.Freud lấy lí luận vô thức và lí luận hành vi tính
dục làm hạt nhân đã vượt qua phạm vi nghiên cứu của tâm lí học truyền thống. Nó
đã góp phần bổ sung những kiến thức quan trọng vào chỗ trống trong tâm lý học.
Bởi vậy nó cũng có giá trị lí luận và ảnh hưởng nhất định đến tâm lý học, tâm thần
học, xã hội học, dân tộc học và nghệ thuật ở nửa đầu thế kỷ 20. Là một nhà khoa
học, S.Freud đã tiếp thu quan điểm duy vật của khoa học tự nhiên cổ điển và thuyết


tiến hoá. Tuy vậy về thế giới quan triết học, ông đã bộc lộ những yếu tố duy tâm
khi ông đem sinh vật hoá những cái thuộc về tâm lý học của con người, đem tự
nhiên hoá những cái thuộc về con người, đem tâm lý hoá những cái thuộc về xã hội
và tuyệt đối hoá cái tâm lý trong đời sống của con người. Đó là những cái sai lầm
của S.Freud. Sau này những đại biểu của chủ nghĩa S.Freud mới cũng tiếp tục
nghiên cứu những vấn đề tồn tại của chủ nghĩa S.Freud cổ điển. Song họ cũng đã
thất bại trong ý đồ khắc phục tính phiến diện của quan điểm duy sinh vật của chủ
nghĩa S.Freud.
Tóm lại quan điểm duy sinh vật tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Một số tác

giả cho rằng trong con người chỉ có yếu tố sinh vật chi phối. Một số khác thì lại
khẳng định trong con người luôn tồn tại hai yếu tố sinh vật và xã hội. Ở đó yếu tố
sinh vật lại đóng vai trò chi phối, quyết định yếu tố xã hội cũng như quá trình hình
thành, phát triển con người. Điểm chung của các quan điểm này là đã qui yếu tố xã
hội vào yếu tố sinh học. Họ đã qui bản chất xã hội và qui luật phát triển của con
người vào thuộc tính sinh học và không chú ý hoặc coi trọng đến các đặc trưng
hoàn toàn khác về chất của hình thức vận động xã hội so với hình thức vận động
sinh học của vật chất. Những hiện tượng xã hội bị qui tụ vào một số cá nhân. Một
số cá nhân ấy lại được qui tụ vào một lĩnh vực khoa học cụ thể nào đấy như tâm lý,
hành vi… và những hành vi, những cái tâm lý ấy lại được qui tụ vào yếu tố sinh
học. Như vậy có nghĩa là hiện tượng xã hội được qui định bởi yếu tố di truyền của
con người.
* Quan điểm duy xã hội
Ngược lại với quan điểm duy sinh vật, quan điểm duy xã hội lại đem qui tất cả
các yếu tố sinh học của con người vào yếu tố xã hội. Quan điểm này coi yếu tố
sinh học không có vai trò gì trong đời sống của con người (kể cả sức khỏe và tài
năng), tất cả đều chỉ phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế –xã hội. Họ cho rằng
xã hội hoàn toàn có thể biến con người không thông minh thành tài ba, yếu và kém


phát triển trở thành khỏe mạnh dẫn đến phủ nhận khả năng đặc biệt của con người
mà những khả năng ấy bị chi phối bởi yếu tố sinh học trong mỗi con người. Có thể
nói quan điểm này đã tước bỏ tính hữu cơ, tính tự nhiên của con người. Họ đã mắc
sai lầm khi cho rằng con người và sự phát triển của con người chỉ chịu sự chi phối
của các điều kiện kinh tế – xã hội và văn hoá. Như vậy là họ đã quá nhấn mạnh, đề
cao mặt xã hội của con người mà không thấy được con người là một chỉnh thể sinh
học-xã hội. Thực tế cho thấy rằng những người theo quan điểm này thường bị ảnh
hưởng của một mục đích chính trị nào đó. Đó cũng chính là một trong những
nguyên nhân của những kết luận duy ý chí, thiếu tính khoa học về con người. Triết
học Mác –Lênin ra đời đã khắc phục được những hạn chế này và đưa chúng ta tới

những nhận thức mới khoa học về con người.
Các nhà (theo trường phái) xã hội học Pháp mà nổi bật là Durkheim, Holbach,
Blondel… là những đại diện cho khuynh hướng duy xã hội. Các ông đã có cái nhìn
phiến diện và xét cho cùng là duy tâm về vấn đề mối quan hệ giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội trong con người. Theo quan điểm của các ông, xã hội biểu hiện ra
như tổng hoà các kết cấu mang tính người mà xét cho cùng là mang tính tâm lý
người. Như vậy sự duy tâm của các ông thể hiện trong quan niệm về bản thân cái
xã hội. Quan điểm của các ông thể hiện sự coi thường các nhân tố tự nhiên. Từ cơ
sở triết học và cách nhìn như vậy cho nên các nhà xã hội học Pháp đã chưa giải
thích được vấn đề mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong con
người mang tính khoa học.
Một số nhà triết học nhân bản mà tiêu biểu là M. Sêlê cũng rơi vào tuyệt đối
hoá yếu tố xã hội đối với bản chất và sự phát triển của con người. Trong tác phẩm:
“Vị trí của con người trong vũ trụ” khi bàn về lí luận triết học nhân bản ông đã cho
rằng: nhiệm vụ của một nền lí luận triết học nhân bản là chỉ rõ mọi cái tột đỉnh, đặc
thù, mọi thành tựu và giá trị của con người bắt nguồn từ kết quả chủ yếu của sự tồn
tại của con người; chẳng hạn như: ngôn ngữ, lương tâm, công cụ, vũ khí, ý niệm về


×