Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.47 KB, 16 trang )

BÀI LÀM
A. MỞ ĐẦU
Đấu giá hàng hóa là một dịch vụ ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong đời
sống kinh tế-xã hội. Đó là một trong những cách thức linh hoạt để chuyển quyền sở
hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế nói
chung, hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá nói riêng phát triển một cách đa dạng. Ở
nước ta, trong những năm qua hoạt động bán đấu giá hàng hóa đã - đang từng bước
phát triển, có những đóng góp quan trọng trong công tác thi hành pháp luật, đặc biệt
là công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh đó một số quy định của pháp luật
còn vướng mắc, làm cho hoạt động này không phát huy được hết hiệu quả. Vậy,
những vướng mắc đó là gì? Chúng ta phải đưa ra những giải pháp cụ thể như thế nào
để khắc phục những vướng mắc đó để góp phần hoàn thiện các quy định của pháp
luật về đấu giá hàng hóa? Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung sau đây:
B. NỘI DUNG.
I. Những vấn đề lý luận về đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam
1. Khái niệm về đấu giá hàng hóa.
Hiện nay đấu giá có rất nhiều định nghiã khác nhau về nó: ví du: theo từ điển kinh
tế hiện đại thì đấu giá được hiểu là: “một thị trường trong đó người mua tiềm tàng đặt
giá cho hàng hóa chứ không phải đơn thuần trả giá theo giá công bố của người bán.
Theo khoản 1 Điều 185 Luật Thương mại 2005 thì nó được quy định như sau:
“Đấu giá hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê
người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa công khai để chọn người mua trả
giá cao nhất. Như vậy, mặc dù đấu giá có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau,
song có thể thấy chúng đều có nội dung là công nhận bản chất của bán đấu giá, đó là
phương thức mua bán công khai với sự tham gia trả giá của nhiều người.
2. Đặc điểm về bán đấu giá hàng hóa.

1


Thứ nhất: Đấu giá hàng hóa là hoạt động bán hàng ( có thể ) thông qua trung


gian. Điều đó có nghĩa là người có hàng hóa có thể tự mình đứng ra tổ chức bán đấu giá
hoặc thuê người trung gian làm dịch vụ bán đấu giá. Quan hệ bán đấu giá có thể diễn ra
giữa các đối tượng sau:
- người có hàng hóa ( chủ sở hữu hàng hóa) – người mua;
- người có hàng hóa – người bán hàng hóa ( được chủ sở hữu ủy quyền bán hoặc
có quyền bán hàng hóa theo quy định của pháp luật) – người mua;
- người có hàng hóa – người bán đấu giá ( thương nhân kinh doanh dịch vụ đấu
giá hàng hóa) – người mua.
Thứ hai: Đối tượng của bán đấu giá có thể là hàng hóa thương mại thông thường
nhưng do tính đặc thù của việc bán hàng theo phương thức này nên hầu hết chỉ có những
hàng hóa đặc thù về giá trị cũng như giá trị sử dụng mới được cân nhắc để lựa chọn bán
hàng theo phương thức đấu giá. Những hàng hóa này khó định giá và xác định giá trị, vì
vậy người bán chỉ đưa ra giá tham khảo ( giá khởi điểm) còn giá trị thực của hàng hóa sẽ
do người mua quyết định trên cơ sở cạnh tranh trong việc trả giá. Giá bán thực tế có thể
cao hơn hoặc thấp hơn giá mà người bán đưa ra đấu giá.
Thứ ba: hình thức pháp lý của quan hệ bán đấu giá có thể được thiết lập dưới
một dạng rất đặc biệt là hợp đồng ủy quyền bán đấu giá và văn bản đấu giá hàng hóa
nên hình thức pháp lý của quan hệ bán đấu giá không giống một quan hệ bán đấu giá
thông thường.
Hợp đồng ủy quyền bán đấu giá được xác lập giữa người bán hàng và người làm
dịch vụ bán đấu giá. Hợp đồng ủy quyền sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ ủy quyền bán đấu giá hàng hóa. Văn bản đấu giá thực chất là hợp đồng
mua hàng hóa xác lập giữa các bên liên quan ( bên bán, bên mua, và tổ chức đấu giá).
Văn bản này là cơ sở pháp lý để xác lập quyền và nghĩa vụ cuả các bên trong quan hệ
mua bán hàng hóa, đồng thời là căn cứ để xác lập quyền sở hữu của người mua hàng với
hàng hóa bán đấu giá.
II. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về đấu giá hàng hóa trong thương mại
ở Việt Nam.
2



1. Chủ thể tham gia
Thứ nhất: Người bán hàng hóa. Theo khoản 2 Điều 186 LTM 2005 thì người bán
hàng hóa là: “chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ sở hữu hàng hóa của người khác
theo quy định của pháp luật“.
Theo quy định này thì người bán hàng hóa có thể là chủ sở hữu đứng ra ký hợp
đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá hàng hóa với người tổ chức bán đấu giá hàng hóa hoặc
người bán hàng có thể là một người trung gian, làm công việc là cầu nối giữa giữa chủ
sở hữu với người tổ chức bán đấu giá hàng hóa.
Hoặc có thể người bán hàng hóa là người không có quan hệ trực tiếp, không nhận
được sự đồng thuận của người có hàng hóa nhưng có quyền bán hàng hóa. Quyền này có
thể phát sinh từ những quan hệ pháp lý, những thỏa thuận trước đó giữa người có quyền
bán hàng hóa và chủ sở hữu hàng hóa hoặc theo quy định của pháp luật.
Với tư cách độc lập với người tổ chức bán đấu giá, người bán đấu giá hàng hóa có
các quyền và nghĩa vụ được quy định rất cụ thể tại Điều 191 và 192 Luật Thương mại
2005.
Thứ hai: Người tổ chức bán đấu giá hàng hóa và người điều hành bán đấu giá
Theo khoản 1 Điều 186 LTM 2005 thì người tổ chức đấu giá là thương nhân có
đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc là người bán hàng của mình trong trường hợp
người bán hàng tự tổ chức đấu giá. Thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ bao
gồm: - có đăng ký kinh doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản;
- có ít nhất một đấu giá viên;
- có cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thực hiện đấu giá tài sản.
Với những người tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong trường hợp không phải là
người bán hàng hóa có các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 189 LTM 2005.
Thứ ba: người mua hàng hóa
Đây chính là người tham gia đấu giá, bao gồm: tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia
đấu giá ( khoản 1 Điều 187 LTM 2005).

3



Để đảm bảo tính trung thực và hợp pháp của các cuộc đấu giá, pháp luật đã cấm
rất cụ thể một số đối tượng sau không được tham gia trả giá ( Điều 198 LTM 2005). Bao
gồm:
- Người không có năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự theo Bộ luật Dân sự 2005 hoặc tại thời điểm đấu giá
không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
- Những người làm việc trong các tổ chức bán đấu giá; cha, mẹ, vợ, chồng, con
của những người đó.
- Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hóa bán đấu giá ; cha, mẹ, vợ,
chồng, con của những người đó.
Người mua hàng có các quyền như: tham gia trả giá; được quyền mua hàng hóa
nếumọi chi đạt điều kiện trong cuộc bán đấu giá... và có một số nghĩa vụ như: tham gia
trả giá; chịu mọi chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá nếu đã được chọn là người mua
hàng mà lại từ chối mua hàng dẫn đến cuộc bán đấu giá không thành.
2. Các hình thức bán đấu giá
Do đối tượng hàng hóa, mục đích và điều kiện tổ chức cuộc bán đấu giá là khác
nhau nên cuộc bán đấu giá được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau:
- Căn cứ vào phương thức xác định giá, có đấu giá lên và đấu giá theo phương
thức hạ xuống:
Đấu giá lên là hình thức bán đấu giá mà tại cuộc bán đấu giá, nhân viên điều hành
bán đấu giá nêu lên giá khởi điểm thấp nhất của lô hàng hay tài sản bán đấu giá. Theo
giá khởi điểm, những người mua sẽ trả giá nâng dần lên theo mức mặc cả nhất định,
người trả giá sau cao hơn người trả giá trước. Người trả giá cao nhất theo sự kết luận của
nhân viên điều hành sẽ được quyền mua lô hàng hoặc tài sản đấu giá.
Bán đấu giá theo phương thức hạ xuống là hình thức mà tại cuộc bán đấu giá, một
món hàng được chào bán với mức giá rất cao. Giá được giảm xuống từ từ cho đến khi
một người trả giá khác quyết định mua và nếu người trả giá đó là người đầu tiên quyết
định mua sẽ là người mua được hàng hóa.


4


- Căn cứ vào hình thức biểu đạt trong cuộc bán đấu giá, có: đấu giá dùng lời nói,
đấu giá không dùng lời nói và đấu giá thông qua mạng Internet.
- Đấu giá dùng lời nói: Trong phiên đấu giá, nhân viên điều hành dùng lời nói của
mình để đưa ra giá khởi điểm. Những người mua cũng đặt giá bằng lời nói hoặc bằng
việc làm dấu hiệu để người điều hành biết.
Sau mỗi lần người tham gia đấu giá trả giá, người điều hành sẽ nhắc lại ba lần một
cách rõ ràng, chính xác bằng lời nói đã trả giá cao nhất, mỗi lần cách nhau ba mươi giây.
Sau ba lần nhắc lại như vậy mà vẫn không có ai trả giá cao hơn thì người điều hành cuộc
bán đấu giá sẽ đồng ý bán cho người trả giá cao nhất hoặc chuyển sang mức giá khác
thấp hơn để chào bán.
- Đấu giá không dùng lời nói: với hình thức này, người đấu giá không được thể
hiện bằng lời nói hoặc việc làm mà được viết ra giấy hoặc thông qua một hình thức nào
đó sẽ thông báo cho nhân viên điều hành bán đấu giá biết.
Nhân viên điều hành sẽ thông báo mức giá cao nhất qua mỗi lần trả giá trên cơ sở
so sánh các mức giá chấp nhận mà họ được thông báo. Việc bán đấu giá kéo dài cho đến
lần trả giá mà không ai trả giá cao hơn giá đã trả cao nhất của lần trả giá liền trước đó.
- Đối với hình thức đấu giá bằng mạng Internet thì những người có tài sản, có
phương tiện, có trang thiết bị tin học phục vụ cuộc bán đấu giá thông qua mạng internet
thì có thể tiến hành cuộc bán đấu giá.
Người tham gia cuộc bán đấu gia trên mạng thì không phải đến các sàn đấu giá,
chỉ cần ngồi ở nhà mà vẫn có thể tham gia đấu giá như tham dự một cuộc đấu giá thực
sự.
3. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu giá hàng hóa
Để đảm bảo tính cạnh tranh công bằng và tính trung thực của các cuộc bán đấu
giá… khi tham gia đấu giá các chủ thể phải tuân theo những nguyên tắc nhất định, trong
đó có những nguyên tắc cơ bản như:

Thứ nhất: nguyên tắc công khai. Đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người
mua hàng hóa nên mọi vấn đề có liên quan đến cuộc bán đấu giá và những thông tin về
hàng hóa phải được công khai niêm yết cho tất cả những người muốn mua để họ biết
5


dưới các hình thức như: thông báo, trưng bày, giới thiệu về sản phẩm... Nội dung bắt
buộc phải công khai đó là: thời gian, địa điểm tiến hành bán đấu giá, tên loại hàng hóa
bán đấu giá...
Thứ hai: nguyên tắc trung thực. Các giấy tớ, thông báo và thông tin có liên quan
đến hàng hóa bán đấu giá...thì phải rõ ràng, chính xác, đầy đủ để không tạo ra sự nhầm
lẫn hay lừa dối đối với các bên... Người bán cần trung thực khi xác định giá trị khởi
điểm của hàng hóa.
Thứ ba: nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên chủ thể tham
gia. Quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ đấu giá hàng hóa đều phải
được coi trọng và đảm bảo đầy đủ. Người mua hàng có quyền xem hàng hóa,yêu cầu
cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hóa, được tự đặt giá, xác lập quyền sở hữu đối với
hàng hóa sau khi hoàn thành văn bản đấu giá và họ đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh
toán.
4. Thủ tục đấu giá hàng hóa.
Thứ nhất: Lập hợp đồng dịch vụ tổ chức bán đấu giá. Đấu giá hàng hóa có thể
được thực hiện bởi chính chủ sở hữu hàng hóa hoặc thông qua một người bán hàng. Đối
với các trường hợp bán đấu giá thông qua trung gian thì việc lập hợp đồng dịch vụ tổ
chức đấu giá hàng hóa là thủ tục đầu tiên trong trình tự bán đấu giá hàng hóa. Người bán
đấu giá chỉ được quyền tiến hành bán đấu giá sau khi có sự ủy quyền của người bán
hàng hóa bằng một hợp đồng có hiệu lực pháp luật. Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá
hàng hóa được ký kết giữa người bán hàng và người bán đấu giá phải được ký kết dưới
hình thức văn bản ( hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương)... Ngoài ra,
các trường hợp khác được quy định rất chi tiết tại Điều 193 LTM 2005).
Thứ hai: Xác định giá khởi điểm: Giá khởi điểm của hàng hóa do người bán hàng

xác định với sự tham gia của tổ chức bán đấu giá. Giá khởi điểm cũng có thể do người
bán đấu giá xác định nếu được người bán ủy quyền nhưng phải thông báo cho người bán
hàng hóa biết trước khi được công bố cho người mua...
Thứ ba: Chuẩn bị bán đấu giá hàng hóa: sau khi hợp đồng dịch vụ tổ chức bán
đấu giá hàng hóa được xác lập, các bên đã xác định được giá khởi điểm, người bán hàng
6


hóa hoặc người rổ chức bán đấu giá... phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị cần thiết để
tổ chức thành công cuộc bán đấu giá, trong đó có các công việc chủ yếu sau:
- Niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá: Trước khi tiến hành bán đâí giá
chậm nhất là 7 ngày, người bán đấu giá phải niêm yết việc bán đấu giá tại nơi có tổ chức
đấu giá, nơi trưng bày hàng hóa và nơi đặt trụ sở của người tổ chức đấu giá. Nội dung
thông báo và niêm yết đấu giá hàng hóa được quy định rất cụ thể tại Điều 197 LTM
2005, bao gồm: thời gian, địa điểm đấu giá, tên, địa chỉ của người tổ chức đấu giá...
- Đăng ký mua hàng hóa bán đấu giá và đặt cọc: được quy định rất cụ thể tại Điều
199 theo đó: người muốn tham gia đấu giá phải ghi tên mình vào danh sách đăng ký tại
tổ chức bán đâí giá đồng thời người mua phải đặt trước một khoản tiền để giữ chỗ trong
cuộc bán đấu giá, trong trường hợp người tổ chức đấu giá yêu cầu. Người tổ chức đấu
giá có thể yêu cầu người tham gia đấu giá nộp một khoản tiền đặt trước, nhưng không
quá 2% giá khởi điểm của hàng hóa được đấu giá...
- Trưng bày, xem hàng hóa đấu giá: mục đích là tạo điều kiện để người tham gia
đấu giá có dịp tận mắt xem hàng hóa và hồ sơ gốc của hàng hóa bán đấu giá, giúp cho
họ an tâm về chất lượng và tính hợp pháp của hàng hóa để có những quyết định đúng
đắn khi tham gia đấu giá.
Thứ tư: Tiến hành bán đấu giá: cuộc bán đấu giá hàng hóa được tổ chức công
khai tại trụ sở của tổ chức bán đấu giá hoặc nơi có tài sản bán đấu giá để người mua đến
tham dự và trả giá...Trình tự của cuộc đấu giá được quy định tại Điều 201 LTM, theo
quy định này người điều hành bán đấu giá thực hiện các công việc như: điểm danh
người đã đăng ký tham gia đấu giá hàng hóa;giới thiệu từng hàng hóa bán đấu giá, nhắc

lại giá khởi điểm...
Thứ năm: Hoàn thành văn bản bán đấu giá hàng hóa: văn bản đấu giá là căn cứ
xác nhận việc mua bán, nó không chỉ xác nhận quan hệ mua bán hàng hóa thông qua bán
đấu giá mà còn là căn cứ pháp lý để để chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa bán đấu
giá mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu. Nội dung của văn bản
đấu giá hàng hóa được quy định tại khoản 1 Điều 203 LTM. Bao gồm: tên, địa chỉ của

7


người tổ chức đấu giá; tên, địa chỉ của người điều hành đấu giá; tên địa chỉ của người
bán hàng; thời gian, địa điểm đấu giá...
III. Thực trạng hoạt động đấu giá hàng hóa trong thưong mại ở Việt Nam hiện
nay.
1. Những vướng mắc trong quy định của pháp luật về đấu giá hàng hóa
Bán đấu giá hàng hóa là một hình thức mua hàng ưu việt, đem lại lợi ích rất to lớn
cho các chủ thể đặc biệt là người bán và người mua. Đây là hoạt động để khách hàng thể
hiện trình độ, hiểu biết, khả năng đánh giá hàng hóa cũng như tiềm lực tài chính của
mình.
Trong môi trường bán đấu giá ở Việt Nam hiện nay, mặc dù các quy định của
pháp luật rất chi tiết, cụ thể... góp phần cho hoạt động bán đấu giá ngày càng được cải
thiện, càng sôi nổi và thu hút nhiều người tham gia đấu giá. Tuy nhiên, hoạt động này
chưa thực sự có tiếng vang và gần đây còn có nhiều vụ việc gây tranh cãi xung quanh
những quy định của pháp luật, làm ảnh thưởng tới lợi ích của người mua và người bán.
Cụ thể:
Thứ nhất: Về các chủ thể tham gia bán đấu giá hàng hóa:
Người bán đấu giá hàng hóa là doanh nghiệp bán đấu giá hàng hóa, trung tâm dịch
vụ bán đấu giá tài sản, Hội đồng bán đấu giá tài sản ( Điều 34 – Nghị định 05/CP). Theo
đó, người bán đấu giá hàng hóa phải có đầy đủ điều kiện theo Luật định. Tuy nhiên đây
là lĩnh vực còn khá mới mẻ nên hầu hết những người làm công việc này bỡ ngỡ, thiếu

tính chuyên nghiệp, đội ngũ đấu giá viên còn mỏng, ít kinh nghiệm thực tiễn, chủ yếu
vừa học vừa làm. Mặt khác, đa số doanh nghiệp bán đấu giá kinh doanh đa nghành nghề,
trong đó bán đấu giá chỉ là một lĩnh vực đăng ký kinh doanh mới được bổ sung do vậy
quy mô của doanh nghiệp còn tương đối nhỏ.
Hiện tượng “bỏ cọc và trò đùa với đấu giá từ thiện nhằm đánh bóng tên tuổi của
những người tham gia đấu giá diễn ra ngày càng phổ biến.. Theo báo Vnpress, chuyên
mục đời sống ngày thứ sáu ngày 26/11/2010 có rất nhiều “đại gia tham gia làm từ thiện
bằng mồm nhằm đánh bóng tên tuổi của mình. Ví dụ, tại Hội Chữ thập đỏ tỉnh Long An,
nhân viên nhận được điện thoại từ một người tự xưng là chủ doanh nghiệp đề nghị ủng
8


hộ 2 tỷ đồng cho đồng bào miền Trung, cô nhân viên Hội Chữ thập đỏ đến gặp mặt, ông
giám đốc bảo: “ đã suy nghĩ lại. Cuối cùng thay vì 2 tỷ đồng như đã hứa, gần một tháng
sau, qua rất nhiều lần hẹn, ông chủ công ty quyết định móc tiền túi riêng ủng hộ 200.000
đồng và còn yêu cầu tên của mình phải được xứng lên trong chương trình văn nghệ gây
quỹ từ thiện sau đó. Chuyện này xảy ra với Hội Chữ thập đỏ tỉnh Long An, tuy nhiên
đây không phải là trường hợp duy nhất, bởi theo những người gắn bó với hoạt động
quyên góp làm từ thiện, chuyện bị các nhà hảo tâm dỏm lừa bịp hoặc hứa hẹn đã quá
quen thuộc, thường xuyên sảy ra.
Một nhân viên Hội Chữ thập đỏ tại Đồng Nai kể, cũng như trường hợp trên, hơn
tháng trước, tại một buổi kêu gọi ủng hộ người nghèo với sự có sự chứng kiến của cơ
quan thông tấn báo chí, nhiều doanh nghiệp đã hùng hồn đứng lên tuyên bố sẽ ủng hộ số
tiền lên đến nhiều tỷ đồng. Tuy nhiên ngay sau khi báo chí đưa tin, nhân viên hội chữ
thập đỏ đến nhận tiền thì hầu hết họ đều làm ngơ.
Hoặc có những chương trình mà các danh nghiệp đều có người đại diện và họ
cũng ký luôn vào giấy cam kết sẽ cho tiền, tuy nhiên việc lấy tiền lại giống như đi xin.
Nhiều người cho rằng ‘lúc ấy cao hứng’, số khác lại lờ đi như không có chuyện gì xảy
ra. Họ thường xuất hiện trong bộ cánh sang trọng, chọn những vị trí cạnh các cô chân
dài, các doanh nghiệp nổi tiếng hoặc ngồi nép vào một góc kín rồi bất ngờ lên tiếng trả

giá cao để gây sự chú ý của mọi người”... Có một số người chỉ trả vài lần rồi im, cũng
có người theo luôn đến cuối nhưng đến khi bảo ký cam kết quyên góp thì lặn mất tăm.
Vì họ không phải là con nợ nên chúng ta không có cơ sở để đòi tiền. Như vậy, từ những
chương trình đấu giá được đầu tư công phu trở nên đổ sông đổ bể mà chẳng thu được
gì. Điều đó, làm thất thoát hàng chục tỉ đồng của nhà nước, ảnh hưởng tới tính cạnh
tranh của các cuộc đấu giá.
Bên cạnh đó còn xuất hiện một số đối tượng khác làm lũng loạn cuộc đấu giá,
khiến cuộc đấu giá không được công bằng, không mang tính chất cạnh tranh đúng như
tính chất của các cuộc bán đấu giá. Đó là: “cò đấu giá. Ví dụ hiện nay, lãnh đạo một số
quận, huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội đang lo lắng bởi tại một số phiên đấu giá
9


đất, đã xuất hiện tình trạng một số đối tượng tham gia đăng ký đấu giá với khối lượng
thửa đất lớn, kèm với đó là bỏ thầu giá đất thật cao. Tuy nhiên, khi trúng đấu giá, các đối
tượng này lại bỏ tiền cọc, không mua nữa. Những chiêu thức này nhằm mục đích nâng
giá đất trong khu vực đấu giá để trục lợi, gây "nhiễu" cho công tác quản lý và kế hoạch
đấu giá đất của chính quyền.
Ngoài ra hiện tượng chưa đấu giá đã biết “người thắng cuộc hay cò đấu giá hung
hăng như xã hội đen cũng xảy ra khá phổ biến hiện nay. Nhiều khách hàng sau một vài
lần tham gia đấu giá các loại tài sản đã lần lượt rút khỏi cuộc chơi nhường “sới” cho một
số đơn vị có “máu mặt” và “cò” đấu giá. Ông Nguyễn Văn A. (quận Gò Vấp), từng tham
gia mua tài sản bán đấu giá, cho biết: Buổi sáng, thấy đơn vị tổ chức bán đấu giá vừa
niêm yết tên mình thì ngay buổi chiều đã nhận được một cú điện thoại đề nghị sẽ bồi
dưỡng một số tiền kha khá, với điều kiện: “Chịu ngồi im trong buổi phát giá, nhường
sân chơi cho các khách hàng khác. Ngược lại, nếu không hợp tác sẽ gặp rắc rối lớn. Qua
điện thoại, người này còn úp mở rằng lô tài sản trong buổi đấu giá đã được... mua trước
với số tiền cụ thể.
Thứ hai: Về thủ tục bán đấu giá
Theo đánh giá của các chuyên gia pháp lý, chuyên gia bán đấu giá và cả khách

hàng cho thấy: thủ tục bán đấu giá ở Việt Nam còn khá rườm rà. Mặc dù, đã thắng cuộc
xong những người mua vẫn phải đợi để tiến hành các thủ tục khác mất nhiều thời gian
như thuế, thủ tục công nhận tài sản sở hữu sau khi trúng giá,... trước khi nhận tài sản về
tay mình.
Trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản thi hành án khiến nhiều người lo sợ. Có
nhiều trường hợp, có người mua phải tài sản thi hành án, sau nhiều năm, tài sản đã
chuyển quyền sở hữu cho người mua nhưng họ vẫn chưa nhận được tài sản. Người thắng
cuộc chưa chắc đã nhận được tài sản do bản án còn bị nhiều cơ quan kháng nghị, ra
quyết định tạm hoãn quyết định thi hành án... việc kéo dài thời gian này đã gây tình
trạng dở khóc dở cười cho người mua, tiền đã trao mà tài sản chưa nhận được. Có những
trường hợp mua tài sản đấu giá thi hành án mãi từ năm 1998 nhưng đến 2006 vẫn chưa
10


được nhận tài sản. Bà Lý Thị Cẩm Thúy, người trúng đấu giá căn nhà 508 Nguyễn Chí
Thanh, phường 7, quận 10 (tài sản phát mãi trong một vụ kiện đòi nợ của Ngân hàng
Thương mại cổ phần Nam Á) với giá 197 lượng vàng. Tuy nhiên sau đó việc tiến hành
bàn giao tài sản gặp hết trở ngại này đến trở ngại khác, đến lúc qua đời bà Thúy vẫn
chưa nhận được nhà.
Thứ ba: Về nguyên tắc đấu giá:
Việc niêm yết, thông báo công khai khi bán đấu giá tài sản là công việc mà nhiều
doanh nghiệp và trung tâm bán đấu giá tài sản phải làm trước khi tổ chức bán đấu giá.
Tuy nhiên, họ chỉ đăng báo lấy lệ, thông tin mập mờ khó hiểu, ví dụ như không đăng
nguồn gốc tài sản và nơi để tài sản; nhiều đơn vị không thực hiện việc dán niêm yết,
thông báo theo đúng quy định của pháp luật. Theo đó, những người tiềm năng, khách
hàng muốn mua hàng thực sự sẽ bị mất cơ hội đăng ký tham gia do thiếu thông tin về
hàng hóa và thời gian đăng ký. Như vậy, khả năng mua được hàng hóa với giá thấp hơn
với những người đăng ký được.
2. Nguyên nhân
Những bất cập trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu đó

là:
Thứ nhất: Quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng trong bán đấu giá còn
chưa hoàn thiện. Pháp luật không cấm khách hàng từ chối mua sau khi thắng đấu giá,
cũng không cấm người tổ chức bán đấu giá tài sản cho người trả giá liền kề người bỏ
cuộc, không cấm khách hàng không được quyền thỏa thuận với nhau về giá... do vậy tạo
điều kiện cho khách hàng lách luật, không đồng giá , đưa ra giá cao hơn thực tế rồi rút
lui, chấp nhận bỏ cọc để lũng loạn kết quả đấu giá. Sau đó chia nhau, làm lợi cho một
nhóm người gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Pháp luật Việt Nam về đấu giá hàng hoá chưa làm rõ các giá trị pháp lý của các
quan hệ có tính tiến triển. Mặc dù có hướng tới việc giao kết hợp đồng đấu giá, nhưng
thực tế thì hợp đồng không được giao kết do một bên tự động chấm dứt và làm ảnh
hưởng tới bên kia thì quan hệ này có tính chất ràng buộc hay không đối với các bên chưa
được làm rõ.
11


Pháp luật về bán đấu giá hàng hóa còn chưa quy định để tạo nên một cơ sở pháp
lý vững chắc bảo vệ quyền người bán, người tổ chức đấu giá và người mua.
Thứ hai: chế tài xử lý vi phạm còn chưa đủ mạnh để răn đe người vi phạm hoặc
khiến người có hành vi vi phạm e ngại nếu thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ ba: đội ngũ bám sát đấu giá còn mỏng và hoạt động kém hiệu quả.
Mục đích của việc giám sát các phiên đấu giá là phát hiện ra những vi phạm pháp
luật của người tổ chức và tham gia đấu giá, qua đó bảo vệ quyền lợi của khách hàng và
tạo sân chơi công bằng. Tuy nhiên, phản ứng của các đội ngũ giám sát bán đấu giá còn
quá chậm và kém hiệu quả, trách nhiệm của họ hầu như không có.
3. Một số giải pháp
Thứ nhất: Cần xiết chặt chế tài xử lý vi phạm.
Một trong những nguyên nhân làm lũng đoạn kết quả đấu giá là do chế tài xử lý vi
phạm còn chưa nghiêm. Khoản 3 Điều 54 Nghị định 17/2010/NĐ – CP về bán đấu giá
tài sản quy định: “Người tham gia đấu giá tài sản có hành vi vi phạm các quy định của

Nghị định này thì tùy theo tính chất, mức độ mà bị xử phạt vi phạm hành chính, hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật”. Theo em cần sửa đổi, bổ sung và hướng dẫn khoản 3 Điều 54 Nghị định
17/2010/NĐ- CP theo hướng buộc bồi thường thiệt hại ( nếu có) hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự với người tham gia đấu giá có hành vi quấy rối, cản trở cuộc đấu giá... vì
khoản 3 Điều 54 của NĐ chỉ quy định chung chung.
Với trường hợp từ chối mua tài sản, cần quy định mức phạt cao hơn nữa đối với
những người tham gia đấu giá mà người đó từ chối mua hàng hóa. Quy định hiện nay về
vấn đề này, người tham gia bán đấu giá mua được hàng hóa nhưng lại từ chối mua hàng
“chỉ mất khoản tiền mà người đó đã đặt cọc để tham gia cuộc đấu giá. Như vậy, người
tham gia mua hàng hóa chỉ phải mất một khoản tiền nhỏ nhưng đạt được mục đích cao
hơn. Do vậy, cần quy định như sau: “khi tài sản được đem bán cho người trả giá liền kề
nếu giá liền kề ít nhất bằng giá khởi điểm thì người đã từ chối mua phải chịu trách
nhiệm thanh toán phần giá trị chênh lệch giữa giá mình đã trả so với giá bán hàng hóa
12


cho người trả giá liền kề; khi người trả giá liền kề không đồng ý mua hoặc trả giá liền kề
thấp hơn giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá coi nhưng không thành và người từ chối
mua phải chịu một khoản tiền phạt ít nhất bằng số tiền chi phí để tổ chức cuộc bán đấu
giá và cuộc bán đấu giá được tổ chức lại sau đó để bán hàng hóa“. Quy định như vậy sẽ
làm chho người có ý định rút giá đã trả sẽ phải cân nhắc kỹ khi thực hiện hành vi vì hậu
quả kinh tế đem lại do hành vi rút lui lại giá là không nhỏ.
Thứ hai: Cần quy định cụ thể về cách tính các loại thời hạn trong đấu giá hàng
hóa để khắc phục các vướng mắc có liên quan trong thực tế. Ví dụ như Điều 207 BLTM
2005 quy định: “ thời điểm thanh toán tiền mua hàng hóa do người tổ chức đấu giá và
người mua hàng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận thì địa điểm thanh toán là trụ sở kinh
doanh của người tổ chức đấu giá. Việc quy định như vậy có thể dẫn đến những mâu
thuẫn không đáng có giữa người bán đấu giá và người mua được hàng hóa do việc người
mua không chịu thanh toán tiền mua hàng hóa hoặc chậm trễ trong việc thanh toán vì

không muốn mua hàng nữa. Vì vậy trong trường hợp này pháp luật cần phải quy định
chính xác bao nhiêu ngày người mua phải hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình và
các biện pháp cưỡng chế sẽ áp dụng nếu không thực hiện nghĩa vụ trên
Thứ ba: Cần quy định nâng mức tiền đặt trước và mức lệ phí hồ sơ đấu giá
Theo quy định như hiện nay thì người tổ chức đấu giá có thể yêu cầu người tham
gia đấu giá nộp một khoản tiền đặt trước, nhưng không quá 2% giá khởi điểm của hàng
hóa được đấu giá ( khoản 2 Điều 199). Và theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị định
17/2010 thì “khoản tiền đặt trước do tổ chức bán đấu giá tài sản và người có tài sản
bán đấu giá thỏa thuận quy định nhưng tối thiểu là 1% và tối đa không quá 15% giá
khởi điểm của tài sản bán đấu giá”. Khoản tiền đặt trước được nộp cho tổ chức bán đấu
giá tài sản. Trong thời gian tới, theo em pháp luật cần quy định khoản tiền đặt trước tối
thiểu là: 10 % để tránh tình trạng đăng ký tràn lan, lũng đoạn trong các phiên đấu giá
đồng thời tăng nguồn thu ngân sách.
Thứ tư: cần quy định về thủ tục chuyển quyền sở hữu một cách nhanh chóng và
đơn giản... để tạo điều kiện cho việc chuyển quyền đồng thời nâng cao hiệu lực của các
văn bản bán đấu giá hàng hóa. Nếu quyền và lợi ích của người có hàng hóa đấu giá bị
13


xâm phạm thì cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm, kể
cả phải bồi thường thiệt hại nếu thiệt hại xảy ra trên thực tế.
Thứ 5: việc đấu giá qua mạng Internet là một biểu hiện của một xã hội phát triển.
Nó tiết kiệm thời gian và chi phí... Tuy nhiên chúng ta cũng phải thiết lập hành lang
pháp lý an toàn đẻ bảo vệ người bán hàng hóa trước những người gây nhiễu và cản trở
quá trình kinh doanh của người bán và đồng thời bảo vệ người mua hàng trước những
thông số hàng hóa mà người bán đưa ra.
Ngoài ra, cần quy định thêm nguyên tắc trực tiếp. Nguyên tắc trực tiếp đảm bảo
cho cuộc đấu giá được diễn ra nhanh chóng và khách quan. Tạo được sự cạnh tranh trực
tiếp trong việc trả giá mua hàng trước sự chứng kiến của người bán hàng hóa và tất cả
những người muốn mua hàng.

C. KẾT LUẬN
Bán đấu giá hàng hóa có vai trò rất quan trọng trong đời sống, việc thực hiện công
khai sẽ đảm bảo được sự cạnh tranh công bằng, ngăn ngừa được hành vi tiêu cực gây
thiệt hại cho người bán, người mua hàng và các chủ thể khác có liên quan. Hệ thống
pháp luật về đấu giá hàng hóa được xây dựng trên cơ sở tính toán một cách hợp lý, hài
hòa... tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và năng động cho các chủ thể tham gia đấu
giá hàng hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực của pháp luật thì cũng còn
tồn tại những hạn chế cần phải khắc phục. Với những giải pháp nêu trên, hy vọng trong
thời gian tới nó sẽ được hoàn thiện hơn, góp phần xây dựng một nền kinh tế Việt Nam
lành mạnh, cạnh tranh năng động và phát triển.

14


DANH MC TI LIU THAM KHO
1. Giỏo trỡnh Lut Thng mi 2 NXB Cụng an nhõn dõn Trng i hc Lut
h Ni 2006.
2. Hi ỏp Lut Thng mi NXB Chớnh tr - hnh chớnh H Ni 2011 TS
Nguyn Th Dung (ch biờn).
3. Lut Thng mi 2005.
4. Nghị định của Chính phủ số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 về bán đấu giá tài
sản.
5. Bùi Ngọc Cờng (chủ biên), Giáo trình luật thơng mại (tập 2), Nxb. Giáo dục, H
Nội, 2008.
6. Lun vn tt nghip: Tỡm hiu phỏp lut v u giỏ hng húa Vit Nam Phm
Dng Minh Thu 2006 Trng i hc Lut H Ni.
7. Ti liu tham kho khỏc: WWW.google.com.vn
8. http:// kinhtevadothi.com

15



PHỤ LỤC
BÀI LÀM......................................................................Error: Reference source not found
A. MỞ ĐẦU................................................................Error: Reference source not found
B. NỘI DUNG.............................................................. Error: Reference source not found
I. Những vấn đề lý luận về đấu giá hàng hóa trong thương mại ở Việt Nam.......Error:
Reference source not found
1. Khái niệm về đấu giá hàng hóa............................... Error: Reference source not found
2. Đặc điểm về bán đấu giá hàng hóa..........................Error: Reference source not found
II. Nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về đấu giá hàng hóa trong thương mại
ở Việt Nam.................................................................... Error: Reference source not found
1. Chủ thể tham gia...................................................... Error: Reference source not found
2. Các hình thức bán đấu giá.......................................Error: Reference source not found
3. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu giá hàng hóa......Error: Reference source not found
4. Thủ tục đấu giá hàng hóa........................................Error: Reference source not found
III. Thực trạng hoạt động đấu giá hàng hóa trong thưong mại ở Việt Nam hiện nay.
....................................................................................... Error: Reference source not found
1. Những vướng mắc trong quy định của pháp luật về đấu giá hàng hóa............Error:
Reference source not found
2. Nguyên nhân.............................................................Error: Reference source not found
3. Một số giải pháp....................................................... Error: Reference source not found
C. KẾT LUẬN............................................................Error: Reference source not found
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................Error: Reference source not found
PHỤ LỤC

Error: Reference source not found

16




×