Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 về di chúc chung của vợchồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.81 KB, 20 trang )

Mở đầu:
Từ ngàn đời xưa, người Việt Nam đã sống với tấm lòng hướng thiện,
nhường nhịn, bao dung, tình cảm yêu thương gắn bó luôn bao trùm lên những nếp
nhà của mỗi gia đình người Việt. Từ trong cái “nôi nuôi lớn đời người ấy mà
những người con luôn luôn làm tròn đạo hiếu, đó cũng là nơi ông bà, cha mẹ khi
còn sống đã chắt chiu xây dựng cơ đồ, khi nhắm mắt họ để lại cơ đồ cho hậu thế.
Sự kế thừa, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác được diễn ra như một quy luật
khách quan, nhưng các quan hệ thừa kế mà các nội dung trong đó ở mỗi chế độ
khác nhau được thừa nhận và giải quyết như thế nào do ý chí của giai cấp lãnh đạo
xã hội quyết định trên cơ sở tiếp thu và ghi nhận các tập quán tiến bộ, phù hợp với
lợi ích của giai cấp thống trị. Luật dân sự Việt Nam năm 2005 đã kế thừa và phát
triển của các bộ luật đi trước về quan hệ thừa kế, bộ luật thực sự là một bước ngoặt
lớn trong lịch sử lập pháp của nước ta. Trong đó, luật dân sự 2005 còn quy định
một vấn đề khá phức tạp đó là về di chúc chung của vợ chồng, quy định này còn
rất nhiều vướng mắc trong thực tiễn. Nhận thấy sự cấp thiết của vấn đề, em đã
chọn đề: Di chúc chung của vợ chồng.
I.

Quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 về di chúc chung của vợ
chồng:
1. Các khái niệm:
Theo nghĩa rộng, quyền thừa kế là pháp luật về thừa kế là tổng hợp các quy
phạm pháp luật quy định trình tự dịch chuyển tài sản của người chết cho những
người còn sống. Thừa kế là một chế định pháp luật dân sự, là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác
theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định đồng thời quy định phạm vi quyền,
nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế.

1



Điều 646 BLDS quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm
chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo quy định này thì di
chúc phải có các yếu tố sau: đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là
của bất cứ chủ thể nào khác; mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di
sản của mình cho người khác; chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết. Di chúc là
hành vi pháp lí đơn phương của người lập di chúc, di đó di chúc phải tuân thủ các
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của
di chúc nói riêng. Tức là trước hết phải đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch được quy định tại Điều 122 BLDS: người tham gia giao dịch có năng lực
hành vi dân sự; mục đích và nội dung giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội; người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Bên
cạnh đó, di chúc là một loại giao dịch đặc biệt, đồng thời chỉ có hiệu lực khi người
lập ra nó đã chết nên việc lập di chúc không thể được thực hiện bằng cách ủy
quyền cho người khác thay mình lập di chúc. Do vậy, tại Điều 652 BLDS quy định
về di chúc hợp pháp:
1. Di chúc được coi là hợp pháp khi có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người lập di chúc minh mẫn, sang suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe
dọa, cưỡng ép;
b. Nội dung của di chúc không trái với pháp luật, đạo đúc xã hội; hình thức di chúc
không trái với quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập
thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải
được người làm chứng lập thành văn bản và phải có công chức hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp,
nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối
cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người
làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày kể từ
2



ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công
chứng hoặc chứng thực.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện
trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế
(cá nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ
tài sản…
2. Quyền lập di chúc chung của vợ chồng:
Điều 663 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Vợ chồng có thể lập di chúc chung
để định đoạt tài sản chung”. Cũng giống như một cá nhân khi lập di chúc, vợ
chồng có quyền để lại tài sản của mình cho bất kì một cá nhân, tổ chức nào. Tuy
nhiên khác với di chúc của cá nhân chỉ cần có ý chí của một mình cá nhân đó quyết
định, di chúc chung của vợ chồng thì cần phải có sự thỏa thuận, nhất trí của cả hai
vợ chồng về khối tài sản chung của mình. Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 sửa đổi bổ sung năm 2010: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung hoặc được tặng choc hung và những tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết
hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được
trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa
thuận”. Do khối tài sản chung là khối tài sản do cải hai vợ chồng làm ra, lao động
mà có, thuộc quyền sở hữu chung của cả hai - Điều 28 Luật hôn nhân và gia đình
quy định: “Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung”, nên khi để lại di chúc về khối tài sản chung này
cần phải có sự thỏa thuận, nhất trí của cả hai.
3. Nội dung, mục đích của di chúc chung của vợ chồng:
3



1.
a.
b.
c.

Điều 653 BLDS năm 2005 quy định về Nội dung của di chúc bằng văn bản:
Di chúc phải ghi rõ:
Ngày, tháng, năm lập di chúc;
Họ, tên và nơi cứ trú của người lập di chúc;
Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện

để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d. Di sản để lại và nơi có di sản;
e. Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.
2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang
thì mỗi trang phải được đanh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập
di chúc.
Di chúc nói chung và di chúc chung của vợ chồng nói riêng cũng là một giao
dịch dân sự nên nội dung và mục đích của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức
xã hội. Nội dung của di chúc chung của vợ chồng thể hiện ý chí thống nhất của vợ
chồng đó xác định về khối tài sản chung của mình sau khi chết sẽ được phân chia
và giải quyết như thế nào, xác định quyền và nghĩa vụ của những người hưởng di
sản.
Để di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội
dung của giao dịch không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là
những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi
nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Ví dụ: Ông A và bà

T là vợ chồng hợp pháp có ba người thừa kế theo pháp luật là P và Q là con. Trước
khi chết ông A và bà T lập di chúc chung định đoạt khối di sản của mình là 200
triệu đồng, cho P hưởng 80 triệu, Q hưởng 80 triệu. Còn 40 triệu để cho ông D
(cháu) với điều kiện là D phải tạt a xít vào H (do H đã từng chửi ông A và bà T rất
thậm tệ). Trong di chúc chung của vợ chồng này ông A và bà T định đoạt cho ông
H hưởng 40 triệu đồng đó là bất hợp pháp. Vì vậy phần di chúc liên quan đến 40
triệu đồng đó bị coi là không có hiệu lực pháp luật nhưng phần này không ảnh
4


hưởng đến hiệu lực của các phần khác của di chúc nên phần di chúc liên quan đến
150 triệu mà hai con P và Q được nhận vẫn có hiệu lực pháp luật. Chỉ những tài
sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện không vi phạm vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của giao
dịch dân sự, Tương tự, chỉ những tài sản được pháp luật quy định là được giao dịch
thì mới được phép để lại trong di chúc. Những di chúc chung của vợ chông nào mà
được lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch có
mục đích và nội dung không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của
di chúc đó.
4. Hình thức di chúc chung của vợ chồng:
Về hình thức của di chúc chung của vợ chồng thì Bộ luật dân sự năm 2005
của nước ta chưa có điều luật riêng quy định cụ thể mà chỉ quy định di chúc của
cá nhân như sau:
Hình thức của di chúc là phương thức thể hiện ý chí của người lập di chúc
như bằng miệng, bằng văn bản, thông qua các hình thức nào đo người khác biết
được ý chí của người lập di chúc. Hình thức của di chúc là căn cứ pháp lý để phân
chia di sản cho người được chỉ định trong di chúc. Để đảm bảo tính khách quan
của di chúc thì hình thức phải phù hợp với quy định của pháp luật.
Hình thức văn bản là chữ viết bằng tay hoặc đánh máy được thể hiện trên
một chất liệu nhất định, chất liệu này được Nhà nước cho phép sử dụng và thừa

nhận như chất liệu giấy in, giấy viết.
Di chúc thể hiện dưới các dạng văn bản sau:
- Di chúc chung bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 655 BLDS)
Trường hợp người lập di chúc tự mình viết và ký vào bản di chúc mà không có
người làm chứng, không công chứng hoặc chứng thực vẫn có giá trị pháp lý. Di
chúc chung của vợ chồng cần phải có cả chữ kí của cả hai người. Tuy nhiên, khi
phân chia di sản theo di chúc, nếu những người thừa kế theo pháp luật không đồng
ý đó là di chúc thì cần phải giám định chữ viết và chữ ký của người lập di chúc.
5


Di chúc không có người làm chứng có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
Trường hợp này công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực cần xác minh
nội dung đúng của vợ chồng lập di chúc hay không.
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656 BLDS)
Trường hợp người lập di chúc không thể viết được như cụt hai tay, hai tay bị liệt,
không biết chữ… thì nhờ người khác viết lại nội dung mà họ muốn công bố và
phải có hai người làm chứng cho nội dung di chúc là đúng theo ý chí của người lập
di chúc. Có hai khả năng xảy ra: thứ nhất là hai người làm chứng cùng có mặt
chứng kến việc người lập di chúc công bố ý chí và người khác ghi lại nội dung; thứ
hai là người lập di chúc nhờ người khác ghi nội dung di chúc sau đó người lập di
chúc nhờ hai người làm chứng đọc nội dung cho người lập di chúc nghe và chứng
kiến nội dung đó đúng ý chí của người lập di chúc.
- Di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn chứng nhận
của Công chứng Nhà nước (Điều 657). Khi người lập di chúc tuyên bố ý chí của
mình, công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực ghi lại nội dung di chúc.
Người lập di chúc đọc lại nội dung di chúc và xác nhận ghi đúng ý của mình và ký
hoặc điểm chỉ, sau đó công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực xác
nhận tình trạng nhận thức của người lập di chúc và ký tên, đóng dấu vào bản di
chúc. Trường hợp người lập di chúc không biết chữ, không ký, không điểm chỉ

được phải có người làm chứng chứng kiến việc tuyên bố ý chí của người lập di
chúc và ký vào bản di chúc.
- Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc đã được chứng nhận chứng thực (điều
662)
Pháp luật dự liệu các trường hợp người lập di chúc không thể đến cơ quan
công chứng hoặc UBND để chứng thực hoặc chứng nhận di chúc, thì những người
có thẩm quyền chứng nhận theo quy định tại Điều 660 BLDS có giá trị pháp lý
như di chúc có chứng thực, chứng nhận. Ví dụ như người lập di chúc làm ăn tại
nước ngoài muốn lập di chúc thì đến cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt
6


Nam ở nước đó để chứng nhận. Hoặc ví dụ như người lập di chúc đang làm công
tác khảo sát tại vùng rừng núi, hải đảo xa muốn lập di chúc thì đến người phụ
trách đơn vị để xác nhận…
Hình thức di chúc miệng:
Điều 651 BLDS có quy định về hình thức di chúc miệng: di chúc miệng thể
hiện ý chí của người lập di chúc bằng lời nói trước mặt người khác. Để đảm bảo
tình khách quan của di chúc, pháp luật quy định trình tự thủ tục ghi lại nội dung
của di chúc qua các bước sau:
- Khi người lập di chúc ở trong tình trạng tính mạng bị cái chết đe dọa do bệnh tật
hoặc các nguyên nhân khác không thể lập di chúc bằng văn bản.
- Người lập di chúc thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước ít nhất hai người làm
chứng.
- Một người làm chứng ghi chép lại nội dung di chúc tuyên bố ý chí, bản ghi chép
nội dung di chúc phải công chứng hoặc chứng thực.
Nếu sau 3 tháng kể từ ngày lập di chúc miệng mà người lập di chúc vẫn minh
mẫn, sáng suốt và có điều kiện lập di chúc bằng văn bản thì di chúc miệng không
còn giá trị. Đây là trường hợp tự động mất hiệu lực của di chúc không cần phải
thông qua thủ tục pháp lý nào.

Trên thực tiễn thì lập di chúc chung bằng miệng rất khó để thực thi, về vấn đề
này em xin đề cập đến ở phần sau.
5. Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng:
Để di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực đương nhiên di chúc đó phải là
di chúc hợp pháp làm phát sinh quyền và nghĩa vụ vủa người thừa kế theo di chúc.
Trường hợp di chúc vi phạm Điều 652 Bộ luật dân sự thì vô hiệu. Trường hợp di
chúc hợp pháp nhưng do yếu tố khách quan hoặc chủ quan mà không thể thực hiện
được việc chia di sản theo di chúc thì gọi là di chúc không có giá trị, trường hợp
này coi như không có di chúc.
Xuất phát từ tính chất cộng đồng tài sản của vợ chồng và trong thời kỳ hôn
nhân và ý chí chung của vợ và chồng trong việc định đoạt tài sản bằng di chúc,
7


pháp luật nước ta quy định nếu hai vợ chồng cùng lập di chúc chung, thì di chúc có
hiệu lực kể từ thời điểm người sau cùng chết hoặc từ thời điểm vợ và chồng chết
cùng thời điểm. Đây là trường hợp đặc biệt không xác định thời hiệu của thừa kế
đối với phần di sản của người vợ hoặc người chồng chết trước. Quy định này nhằm
bảo vệ quyền lợi của người vợ hoặc chồng còn sống đảm bảo cho người còn sống
tiếp tục khai thác sử dụng tài sản chung do vợ và chồng làm ra trong thời kì hôn
nhân có hiệu quả. Điều 167 Bộ luật dân sự năm 1995 đã quy định: “Trong trường
hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có người chết trước thì chỉ phần di chúc liên
quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật,
nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là
thời điểm người sau cùng chết thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ
được phân chia từ thời điểm đó”. Khi xác định thời điểm có hiệu lực đối với di
chúc chung do, vợ chồng cùng lập, điều 668 Bộ luật dân sự 2005 lại quy định như
sau: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết
hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Như vậy, Bộ luật dân sự năm 2005 không
quy định về yếu tố thỏa thuận của vợ chồng về việc xác định thời điểm có hiệu lực

đối với di chúc chung do vợ chồng cùng lập. Tuy nhiên, không vì thế mà hiểu rằng
Bộ luật Dân sự 2005 không thừa nhận ý chí tự nguyện của người lập di chúc. Vì
vậy, đối với di chúc do vợ, chồng cùng lập ra sau ngày Bộ luật Dân sự 2005 có
hiệu lực pháp luật thì thời điểm có hiệu lực của di chúc đó được xác định theo ba
trường hợp sau đây:
- Nếu trong di chúc, vợ chồng không có thỏa thuận gì khác về thời điểm có hiệu lực
của di chúc chung và một bên chết trước thì phần di chúc liên quan đến phần di
sản của người đã chết trong khối tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật.
Phần di chúc liên quan đến phần tài sản của người còn sống trong khối tài sản
chung của vợ chồng chưa có hiệu lực pháp luật.

8


- Nếu trong di chúc mà vợ chồng đã có thỏa thuận về thời điểm có hiệu lực pháp luật
của di chúc thì di chúc có hiệu lực vào thời điểm đã được thỏa thuận.
- Nếu vợ, chồng cùng chết vào một thời điểm hoặc được coi là đã chết vào cùng một
thời điểm thì di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực toàn bộ vào thời điểm mà
vợ, chồng được coi là đều đã chết.
6. Quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng:
Điều 648 BLDS có quy đình về các quyền của người lập di chúc, hai vợ
chồng khi lập di chúc cũng có những quyền như vậy dựa trên sự đồng nhất ý chí
của cả hai vợ chồng đó là chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của
người thừa kế; phân định phần di sản cho từng người thừa kế; dành một phần tài
sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng; giao nghĩa vụ cho người thừa kế; chỉ
định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản. Bên cạnh đó,
Luật dân sự Việt Nam ghi nhận quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
chung của vợ chồng trong điều 664:
1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải

được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa
đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.
Nếu hai vợ chồng, hoặc chỉ vợ hoặc chồng có sự thay đổi ý chí thì việc định
đoạt trong di chúc sẽ bị thay đổi. Nếu chỉ có vợ hoặc chồng muốn thay đổi thì cần
phải có được sự đồng ý của người kia, nếu một trong hai đã chết thì chỉ được sửa
đổi, bổ sung di chúc có liên quan đến phần tài sản của mình. Sửa đổi di chúc là
việc người lập di chúc bằng ý chí tự nguyện của mình phủ nhận (làm thay đổi) một
phần di chúc đã lập. Vì vậy, những phần di chúc không bị sửa đổi (phần giữ
nguyên) vẫn có hiệu lực, phần di chúc đã bị sửa đổi sẽ không còn hiệu lực mà thay
vào đó, pháp luật sẽ căn cứ vào ý chí thể hiện sau cùng.
Bổ sung di chúc là việc hai vợ chồng, hoặc vợ hoặc chồng quy định thêm
một số vấn đề mà trong di chúc đã lập chưa nói đến nhằm làm cho di chúc cụ thể,
9


chi tiết hơn, rõ hơn. Vì vậy, sau khi bổ sung thì cả phần di chúc đã lập và phần bổ
sung đều có hiệu lực như nhau. Nếu di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn
nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
II.

Những điểm bất cập của quy định pháp luật hiện nay về di chúc chung của vợ
chồng:
Hiện nay, ngày càng có nhiều cặp vợ chồng lập di chúc chung nhằm bảo
toàn tài sản để lại cho con cháu nhưng thực tiễn này đã nảy sinh khá nhiều vướng
mắc pháp lý.
1. Về Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung:
Việc sửa đổi, bổ sung thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng phải dựa
trên nguyên tắc nhất trí (khoản 2 điều 664 BLDS) Điều này tạo ra sự thống nhất
cao cho việc lập di chúc chung cũng như việc sửa đổi, bổ sung… di chúc chung.
Tuy nhiên, nếu một bên muốn thay đổi quyết định trong di chúc chung mà bên kia

không đồng ý, thì các bên cũng không được quyền thay đổi.
Quy định này xâm phạm tói quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình, cũng nhưng vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong
việc lập di chúc. Nếu một bên vợ hoặc chồng, vì lý do nào đó mà bắt buộc phải sửa
đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung đã lập, nhưng không được sự đồng ý
của người kia, thì việc sửa đổi bổ sung đó sẽ không được chấp nhận. Thiết nghĩ
quy định này đã xâm phạm quyền tự do định đoạt của người có tài sản và xâm
phạm đến sự tự nguyện trong việc lập di chúc, thậm chí xâm phạm tới lợi ích chính
đáng của cá nhân khi cấm họ đưa ra những quyết định cá nhân, nhằm bảo đảm lợi
ích cho mình. Ví dụ như trường hợp của ông VTH ở Thành phố Tân An (Long
An). Thương người con gái độc thân, vợ chồng ông lập di chúc để lại căn nhà đang
ở cho chị. Năm 2006, vợ ông H bệnh nặng qua đời. Hai năm sau, ông H bị tai biến,
nằm liệt một chỗ. Việc chữa trị, chăm sóc ông rất tốn kém trong khi chỉ một tay
người con gái bươn chải. Nợ nần chồng chất, ông H và con bàn nhau bán nhà trả
10


nợ, còn lại mua một căn nhà nhỏ để cha con sống và có dư một ít tiền làm vốn cho
người con mua bán sinh nhai. Sau đó, người con đem hồ sơ nhà đất và tờ di chúc ra
phòng công chứng khai nhận di sản thì bị từ chối. Theo phòng công chứng, đây là
di chúc chung của vợ chồng nên khi ông H còn sống thì di chúc chưa có hiệu lực.
Ông H muốn thay đổi nội dung di chúc nhằm có thể tự bán phần một nửa căn nhà
của ông nên nhờ cậy một luật sư tư vấn miễn phí. Tuy nhiên, luật sư cho biết một
nửa căn nhà của ông gắn liền với phần tài sản của người vợ đã mất, mặt khác theo
luật, khi sửa đổi di chúc chung của vợ chồng thì không được làm thay đổi bản chất
nội dung của di chúc. Nghĩa là dù ông H. có định đoạt lại nửa căn nhà phần ông thế
nào thì cũng không thể thay đổi, hủy bỏ việc cho người con gái căn nhà đó được.
Bán nhà không được, thế chấp vay tiền ngân hàng cũng không xong, cha con ông
H đành ngậm ngùi chấp nhận hoàn cảnh thiếu trước hụt sau, túng quẫn từng ngày.
Bên cạnh đó, quy định này cũng tỏ ra thiếu nhất quán vì không cho phép một

bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ - chồng còn sống, nhưng lại cho
phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần
tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Sự thiếu nhất quán trong quy
định trên không thể giải thích được, vì thực chất, cả hai trường hợp này đều giống
nhau là khi một bên sửa đổi, bổ sung di chúc đều không có sự đồng thuận của
người kia. Trong khi việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ chồng cần phải
đảm bảo nguyên tắc nhất trí giữa vợ, chồng với tư cách là các đồng sở hữu của tài
sản chung. Do đó, nếu đã cho phép một bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc
chung khi một bên đã chết, thì cũng cần phải công nhận quyền của một bên được
tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan đến tài sản
của mình, khi không tìm thấy sự đồng thuận của bên kia.
Quy định trên cũng chưa dự liệu các khả năng khác khiến di chúc phải bị sửa
đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ, chồng do vợ, chồng đã
mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc chồng còn sống, nhưng
11


đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị mất trí, bị bệnh
lú lẫn tuổi già... khiến cho họ không còn thể hiện được ý chí cá nhân được nữa.
Điều này chưa được quy định rõ ràng trong luật, nên dễ dẫn đến sự lúng túng và
thiếu nhất quán trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề vừa
nêu.

2. Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng:
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều tranh
cãi giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo BLDS 2005. Sở
dĩ có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng
với thời điểm mở thừa kế.
Quy định về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng làm ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của người thừa kế của người vợ hoặc người chồng chết trước.

Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa
kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế
của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được
định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc
chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn
còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp của người chết
trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành
niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh...), làm những người này mất quyền
được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp của công
dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ.
Quy định này làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản
của người chết trước. Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở
12


thừa kế. Nếu hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin
chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do
nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối,
giả mạo... mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung
chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không
còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người
thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp
luật qui định rõ.
Nếu tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản là tài
sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu
tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức phức
tạp, việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ
càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.

3. Hình thức di chúc chung của vợ chồng:

Về hình thức của di chúc chung của vợ chồng, Luật Dân sự không có điều
luật nào quy định riêng về vấn đề này chỉ có quy định về hình thức cho di chúc của
cá nhân mà thôi. Nên có một số câu hỏi được đặt ra đó là vợ chồng có thể lập di
chúc chung bằng miệng được không?
Theo Điều 651, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá nhân: “Trong trường
hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác
mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Nếu quy định
cho phép vợ chồng có thể lập di chúc chung bằng miệng sẽ nảy sinh một số bất cập
sau:
Một là, muốn lập di chúc chung, vợ - chồng phải có sự bàn bạc và thống
nhất ý chí chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết đe
13


dọa thì điều này là hạn hữu. Khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, thì
việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá nhân
của mỗi người. Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên quyết định nội dung di
chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà không có sự thống nhất ý chí với
người kia.
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng, không
cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát biểu.
Vậy, sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng người trình
bày riêng ý nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá nhân; còn nếu một người
đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ, thì cũng giống như
đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực
tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt do cái chết đe dọa cả hai, để một người
phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.
Ba là, sau 3 tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một
người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan
tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì theo Điều 651 khoản

1: “Sau 3 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh
mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”. Trong khi đó, di chúc
chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.
Bốn là, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, chết của cả 2 người, việc
tiếp nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không chính
xác. Ý nguyện của người chết lại không được thể hiện ra thành một dạng vật chất
định hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa đổi mà lại không có
chứng cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận của vợ, chồng. Việc chứng minh được
tính chất đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng trong trường hợp này sẽ
không bảo đảm được tối đa tính trung thực, khách quan.
14


Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở
nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của
chính người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
Điều 655 BLDS có quy định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “Người lập
di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Trên thực tế thì hai người không
thể cùng một lúc viết cùng một nội dung trên một tờ di chúc. Nếu thế phải từng
người viết xong rồi từng người ký tên vào bản di chúc đó. Vậy di chúc do một
người viết và người kia chỉ ký tên hoặc điểm chỉ thì có hiệu lực pháp luật không?
Hay mỗi người viết một đoạn để nói về những quyết đinj của mình về từng vấn đee
khác nhau rôi cùng ký tên vào di chúc thì có được hay không? Nhưng một bên lại
không thể “ủy quyền” cho người kia thay mặt để viết ra toàn bộ di chúc, vì tái với
nguyên tắc di chúc viết tay phải được viết trực tiếp bằng tay.
Tóm lại, pháp luật cần phải quy định hình thức riêng cho di chúc chung của
vợ chồng, chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. BLDS 2005 chưa
quy định cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục. Tốt nhất, chỉ nên
thừa nhận vợ, chồng được lập di chúc bằng hình thức văn bản có người làm chứng
hoặc văn bản có công chứng, chứng thực.

III.

Những kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về di chúc chung
của vợ chồng.
Thứ nhất, cần phải tách vấn đề di chúc chung của vợ chồng ra khỏi mục di
chúc của cá nhân.
Tuy di chúc chung của vợ chồng cũng là một loại di chúc được lập, sửa đổi,
bổ sung và phát sinh hiệu lực gần giống như một di chúc thông thường, nhưng di
chúc chung còn có những đặc thù: do hai ý chí cá nhân cùng tham gia định đoạt
dựa trên mối quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực; dùng để định đoạt khối tài sản
chung của vợ chồng; có hiệu lực không đồng thời với thời điểm mở thừa kế của
15


bên chết trước... do đó, cần phải được qui định thành một mục riêng; hoặc ít nhất,
cũng cần phải định rõ những ngoại lệ của di chúc chung so với di chúc cá nhân,
trong các điều luật tương ứng qui định về di chúc cá nhân.
Thứ hai, về nội dung của di chúc chung của vợ chồng.
Quy định quyền lập di chúc chung của vợ chồng, khi hôn nhân đang còn tồn
tại, phải tuân thủ các quy định chung về năng lực lập di chúc, các yêu cầu để di
chúc có hiệu lực cũng tương tự như di chúc của cá nhân;
Quy định về hình thức bắt buộc mà di chúc chung phải tuân thủ. Chỉ nên lập
di chúc chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng (nếu cả hai đủ điều kiện
minh mẫn, sáng suốt, không thuộc trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể
chất liên quan tới chức năng lập, kiểm tra nội dung di chúc); hoặc văn bản công
chứng, chứng thực.
Quy định quyền được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của
một bên, khi vợ chồng còn sống, vẫn phải có sự đồng ý của vợ, chồng. Nhưng nếu
một bên cần sửa đổi mà bên kia nhất quyết không đồng ý hoặc không thể biểu lộ ý
chí một cách tự nguyện, thì người kia có quyền tự lập di chúc cá nhân hoặc có

quyền sửa đổi, bổ sung một phần di chúc chung trong phạm vi phần tài sản của
mình. Điều này làm cho các bên vợ, chồng luôn phải tìm thấy sự đồng thuận, kể cả
trong việc lập hay sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung; đồng thời cũng
nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân với quyền lợi chung của vợ,
chồng trong việc lập di chúc chung. Người ta không thể bị bắt buộc phải lập di
chúc chung và càng không thể bị bắt buộc phải giữ nguyên nội dung di chúc chung
đã lập, khi không tìm thấy sự đồng thuận ở người bạn đời của mình trong việc sửa
đổi, bổ sung di chúc chung.
Luật cần dự liệu các căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ chồng
một cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các trường
hợp tương ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh cãi
16


không cần thiết, khi các bên liên quan tiến hành phân chia di sản dựa trên di chúc
chung của vợ - chồng.
Cần phải dung hòa giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung
với lợi ích chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Thừa nhận thời
điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng là thời điểm bên sau cùng
chết, nhưng cũng cho phép những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng
chết trước có quyền xin chia thừa kế đối với phần di sản của vợ, chồng không được
định đoạt trong di chúc chung. Đối với phần tài sản đã định đoạt trong di chúc
chung thì cho phép các bên thừa kế bắt buộc được nhận phần di sản bắt buộc, nếu
việc kéo dài tình trạng không phân chia di sản, theo hiệu lực của di chúc chung, có
ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của họ; đồng thời cần phải xác
định rõ trong luật khoảng thời gian mà di sản chưa được phân chia thì được trừ
vào thời hiệu khởi kiện thừa kế. Bên cạnh đó, việc kéo dài thời điểm phát sinh hiệu
lực của di chúc chung sẽ chấm dứt, nếu người còn sống kết hôn với người khác
hoặc họ đã lập di chúc khác để thay thế, huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung di chúc chung
liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung, mà việc đó ảnh hưởng tới sự

tồn tại của di chúc chung hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản chung của vợ
chồng.

Kết bài
Ngày nay, khi kinh tế hội nhập thì văn hóa sẽ hội nhập, tuy nhiên, những
truyền thống tốt đẹp trong nhân dân cần giữ gìn và phát huy, cho nên pháp luật cần
điều chỉnh các hành vi dân sự theo hướng chỉ dẫn cho cấc chủ thể tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ và giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa giải. Đặc biệt các tranh
chấp về thừa kế nói chung và di chúc chung của vợ chồng nói riêng sẽ ảnh hưởng
đến tình cảm của những người thân thích. Bộ luật dân sự sửa đổi, bổ sung năm
2005, mặc dù vậy về phần thừa kế nói chung, phần di chúc chung của vợ chồng nói
riêng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, còn những quy định chưa rõ ràng, cụ thể hoặc
17


hiểu theo nhiều nghĩa và chồng chéo với quy định khác trong Bộ luật dân sự.
Chính vì vậy mà chế định liên quan đến di chúc chung của vợ chồng thực sự rất
cần các nhà làm luật quan tâm và nghiên cứu một cách nghiêm túc và chuyên sâu,
tránh tình trạng xảy ra những vướng mắc, bất cập nói trên.

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 1 – Trường đại học Luật Hà Nội –
NXB Công an nhân dân – 2012.
2. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005.
18


3. Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Thừa kế – quy định của pháp luật và thực tiễn áp
dụng – NXB Chính trị quốc gia, 2007.
4. TS. Nguyễn Minh Tuấn, Pháp luật thừa kế của Việt nam những vấn đề lý

luận và thực tiễn – NXB Lao động – xã hội, 2009.
5. TS. Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung
hợp nhất của vợ chồng – NXB Chính trị – hành chính, 2011.
6. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010.
7. Phùng Trung Tập, Luật Thừa kế Việt Nam, sách chuyên khảo, NXB Hà Nội,
2008.
8. www.Hcmulaw.com – Ths Lê Minh Hùng, trường đại học luật TPHCM, bài
viết Một số bất cập trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ
chồng – tạp chí khoa học pháp luật số 4 (35/2006)
9. www.phapluattp.vn – bài viết Có nên bỏ di chúc chung của vợ chồng.

Mục lục:
Mở đầu
I.
Quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam về di chúc chung của vợ chồng.
1. Các khái niệm……………………………………………………….1
2. Quyền lập di chúc chung của vợ chồng……………………………..3
3. Nội dung, mục đích của di chúc chung của vợ chồng………………4
4. Hình thức của di chúc chung của vợ chồng…………………………5
5. Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng…………………………...8
6. Quyền sử đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng………..9
II.
Những điểm bất cập của pháp luật hiện nay quy định về di chúc chung
của vợ chồng
1. Về quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ
chồng……………………………………………………………….10
19


III.


2. Về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng………………………12
3. Về hình thức của di chúc chung của vợ chồng……………………..14
Những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về di chúc
chung của vợ chồng……………………………………………………16
Kết bài

20



×