MỤC LỤC
MỤC LỤC .................................................................................................................................. 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ........................................................................................ 3
Quy tắc Hague: Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên quan đến vận
đơn đường biển, ký kết tại Brussels ngày 25/8/1924. ................................................................ 3
Quy tắc Visby: Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc về vận
đơn đường biển. .......................................................................................................................... 3
Quy tắc Hague-Visby: Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên quan đến
vận đơn đường biển và các nghị định thư bổ sung ................................................................... 3
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 4
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÀNG HẢI QUỐC TẾ ........................... 6
1. 1. Khái niệm chung về luật hàng hải quốc tế ................................................................. 6
1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hàng hải quốc tế ......................................................... 7
1.3. Nguồn của luật hàng hải quốc tế ................................................................................. 8
1.3.1. Điều ước quốc tế ...................................................................................................... 8
1.3.1.1. Khái niệm điều ước quốc tế .............................................................................. 8
1.3.1.2. Tên gọi của điều ước quốc tế ............................................................................ 9
1.3.1.3. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải ........................................................ 9
1.3.2. Luật quốc gia ......................................................................................................... 17
1.3.2.1. Khái niệm Luật quốc gia ................................................................................. 17
1.3.2.2. Luật các quốc gia trên lĩnh vực hàng hải ........................................................ 17
1.3.2.3. Luật hàng hải Việt Nam .................................................................................. 19
1.3.3. Tập quán hàng hải quốc tế ..................................................................................... 20
1.3.3.1. Khái niệm tập quán quốc tế ............................................................................ 20
1.3.3.2. Tập quán hàng hải quốc tế .............................................................................. 22
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG CHUYÊN CHỞ HÀNG
HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN THEO LUẬT HÀNG HẢI VIỆT NAM 2005 SO VỚI CÁC
CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ....... 23
2.1. Khái niệm chung về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển ................. 23
2.2. Đặc điểm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển .............................. 24
2.2.1. Đặc điểm về chủ thể ............................................................................................... 24
2.2.2. Đặc điểm về hình thức ........................................................................................... 25
2.2.3. Đặc điểm về đối tượng ........................................................................................... 25
2.3. Phân loại hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển .................................... 26
2.3.1. Hợp đồng chuyên chở hàng hóa theo chứng từ vận chuyển (thuê tàu chợ) .......... 26
2.3.1.1. Khái niệm và đặc điểm .................................................................................... 26
2.3.1.2. Trách nhiệm của các bên ................................................................................. 28
2.3.1.2.1. Trách nhiệm của người thuê chở (người thuê vận chuyển) .................... 28
2.3.1.2.2.Trách nhiệm của người chuyên chở (người vận chuyển) ........................ 30
2.3.2. Hợp đồng chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu bằng tàu chuyến ....................... 43
2.3.2.1. Khái niệm và đặc điểm .................................................................................... 43
2.3.2.2. Nghĩa vụ của các bên ...................................................................................... 45
2.3.2.2.1. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người thuê chở .......................................... 45
2.3.2.2.2. Nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở ..................................... 48
CHƯƠNG 3: VIỆT NAM VÀ VIỆC GIA NHẬP CÁC CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ VẬN
CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN ................................................................ 52
3.1. Pháp luật Việt Nam về việc gia nhập các điều ước quốc tế ..................................... 52
3.1.1. Các văn bản pháp luật về điều ước quốc tế trước Hiến pháp 1992 ....................... 52
1
3.1.2. Pháp luật về điều ước quốc tế từ Hiến pháp 1992 đến Hiến pháp sửa đổi, bổ sung
năm 2001 ........................................................................................................................... 53
3.1.3. Pháp luật hiện hành về điều ước quốc tế .............................................................. 54
3.2. Sự cần thiết của việc gia nhập các Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển ........................................................................................................................ 55
3.3. Sửa đổi Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 cho phù hợp với Quy tắc Rotterdam ..... 57
3.3.1. Một số hạn chế của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 .......................................... 57
3.3.2. Một số điểm mới của Quy tắc Rotterdam ............................................................. 60
3.3.3. Một số khuyến nghị về sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 ........ 63
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................................... 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 68
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Quy tắc Hague: Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên
quan đến vận đơn đường biển, ký kết tại Brussels ngày 25/8/1924.
Quy tắc Visby: Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế để thống nhất một số
quy tắc về vận đơn đường biển.
Quy tắc Hague-Visby: Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật
liên quan đến vận đơn đường biển và các nghị định thư bổ sung
Quy tắc Hamburg: Công ước Liên hiệp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển, kí kết tại Hamburg ngày 30/3/ 1978.
Quy tắc Rotterdam: Công ước Liên hiệp quốc về Hợp đồng vận chuyển
hàng hóa một phần hoặc toàn bộ bằng đường biển, kí tại Rotterdam ngày
23/9/2009.
3
LỜI MỞ ĐẦU
Trong vận chuyển hàng hóa quốc tế hiện nay, khối lượng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển ngày càng chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các phương
tiện còn lại. Vận chuyển hàng hóa bằng đường biển có lợi thế rất lớn là do giá
thành rẻ, vận chuyển hàng đa trường, đa trọng, nhưng cũng có hạn chế tốc độ
vận chuyển chậm. Phương thức vận chuyển đường biển ngày càng được hiện
đại hóa cao hơn và là một phương thức chủ đạo trong vận chuyển đa phương
thức.
Hàng hóa xuất nhập khẩu của nước ta được vận chuyển bằng đường biển
chiếm hơn 90%. Điều này chứng tỏ vận chuyển bằng đường biển quốc tế ở
nước ta có một vị thế đặc biệt. Việc nghiên cứu luật hàng hải quốc tế ở nước
ta ngày nay càng trở nên cần thiết và hữu dụng khi chúng ta đã là thành viên
của Tổ chức Thương Mại thế giới và buôn bán thông thương hàng hóa giữa
Việt Nam với nước ngoài ngày càng gia tăng về số lượng và chủng loại.
Khi vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, chúng ta cần phải tìm hiểu kỹ các
hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng đường biển để nắm được nghĩa vụ và
trách nhiệm của các bên. Các quy định này được đề cập rõ trong Bộ luật hàng
hải Việt Nam năm 2005 cũng như các công ước quốc tế về vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển.
Đề tài phân tích những quy định theo Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 và các
công ước quốc tế về vận tải biển về hợp đồng chuyên chở hàng hóa bằng
đường biển, trong đó tập trung làm rõ trách nhiệm của người chuyên chở với
ba nội dung chính, bao gồm cơ sở trách nhiệm, thời hạn trách nhiệm và giới
hạn trách nhiệm. Từ đó sẽ thấy được những điểm tương đồng cũng như những
nét khác biệt trong quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam (luật quốc gia) so
với các điều ước quốc tế về vận tải biển (luật quốc tế) và đưa ra nhận xét
những mặt ưu điểm và hạn chế của luật quốc gia so với luật quốc tế quy định
về trách nhiệm của người vận chuyển. Trên cơ sở đó, đề tài sẽ đưa ra những
4
đề xuất sửa đổi và bổ sung quy định của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 về
hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển nhằm hoàn thiện môi trường
pháp lý ở Việt Nam, tạo điều kiện để Việt Nam gia nhập một trong các công
ước quốc tế về vận tải biển.
Đề tài được sử dụng phương pháp phân tích các điều khoản trong bộ Luật
Hàng hải Việt Nam, so sánh các quy định này với các công ước quốc tế về
vận vận tải biển, sau đó tổng hợp để có những kiến nghị, đề xuất.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về luật hàng hải quốc tế.
Chương 2: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng
đường biển theo Luật Hàng hải Việt Nam 2005 so với các Công ước quốc tế
về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Chương 3: Việt Nam và việc gia nhập các Công ước quốc tế về vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển.
5
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÀNG HẢI
QUỐC TẾ
1. 1. Khái niệm chung về luật hàng hải quốc tế
Sự hình thành và phát triển của luật hàng hải quốc tế gắn liền với lịch sử phát
triển của ngành vận chuyển hàng hải thế giới. Luật hàng hải quốc tế luôn phát
triển song hành cùng với sự phát triển của luật quốc tế. Pháp luật Việt Nam
quy định về chủ quyền và các quyền đối với các vùng biển cũng như công tác
quản lý biển và hoạt động hàng hải được hình thành khá sớm và khá đồng bộ.
Đôi khi có một số nhầm lẫn giữa luật hàng hải quốc tế với luật biển quốc tế
do hai luật này đều liên quan chặt chẽ đến biển. Nói chung, luật biển quốc tế
nghiên cứu chủ yếu các vấn đề pháp lý của các vùng biển liên quan đến chủ
quyền, quyền về chủ quyền và các quyền khác của các quốc gia ven biển với
các quốc gia khác trong cộng đồng quốc tế. Luật hàng hải quốc tế nghiên cứu
chủ yếu đến các cơ sở pháp lý hoạt động của các phương tiện giao thông di
chuyển tại các vùng biển của các quốc gia cũng như quốc tế. Hiện nay trong
khoa học pháp lý quốc tế, có nhiều thuật ngữ khác nhau để thể hiện hai lĩnh
vực pháp luật này:
- International law of the sea: luật biển quốc tế
- International martime law hoặc international shipping law: luật hàng hải
quốc tế
- International maritime commercial law: luật thương mại hàng hải quốc tế;
hay còn dùng thuật ngữ international merchant shipping law;
- International maritime transportation law: luật vận chuyển hàng hải quốc
tế
Các thuật ngữ trên được sử dụng rộng rãi trong pháp luật của các nước có
truyền thống pháp luật hàng hải phát triển trên thế giới như Anh, Hoa Kỳ,
Thụy Điển, Na uy, Pháp, Nga, Nhật, Trung Quốc, Australia.
6
Nhìn chung luật hàng hải quốc tế nghiên cứu chủ yếu đến các quy định pháp
luật quốc tế và quốc gia dành cho các phương tiện giao thông trên biển mà
đặc biển có thể nói là tàu biển. Như vậy, Luật hàng hải quốc tế điều chỉnh
các quan hệ pháp luật quốc tế phát sinh từ hoạt động hàng hải quốc tế trong
việc sử dụng tàu biển vào các mục đích kinh tế, thương mại, khoa học, văn
hóa, thể thao, xã hội, công vụ nhà nước.
Điều này cũng đã khẳng định rõ trong điều 1, khoản 1 Luật Hàng hải Việt
Nam được Quốc hội Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 7 khóa XI ngày 14
tháng 6 năm 2005 và đã được Chủ tịch nước công bố ngày 27/6/2005 đã ghi
nhận: “… hoạt động hàng hải bao gồm các quy định về tàu biển, thuyền bộ,
cảng biển, luồng hàng hải, vận tải biển, an toàn hàng hải, an ninh hàng hải,
phòng ngừa ô nhiễm môi trường và các hoạt động liên quan đến sử dụng tàu
biển vào mục đích kinh tế, văn hóa, xã hội, thể thao, công vụ và khoa học.”
1.2. Đối tượng điều chỉnh của luật hàng hải quốc tế
Pháp luật hàng hải quốc tế điều chỉnh các quan hệ pháp luật rất phong phú
phát sinh trong quá trình hoạt động vận chuyển hàng hải quốc tế mà chủ yếu
là vận chuyển hành khách và hàng hóa bằng đường biển giữa các quốc gia từ
cảng biển của nước này đến cảng biển của nước khác. Nhận thức này được
thừa nhận chung trong pháp luật hàng hải của các nước trên thế giới.
Kế thừa và phát huy những thành quả của các thế hệ ông cha ta trước đây
trong giao lưu hàng hải với các nước, tiếp thu những tiến bộ của các nước có
hệ thống pháp luật hàng hải phát triển, quan điểm trên được thể hiện rất rõ
trong luật hàng hải Việt Nam. Theo quy định của pháp luật hàng hải quốc tế
được ghi nhận trong rất nhiều công ước quốc tế về hàng hải cũng như trong
bộ luật hàng hải của Việt Nam thì hoạt động hàng hải là những hoạt động liên
quan đến việc sử dụng tàu biển vào các mục đích kinh tế, văn hóa, xã hội,
khoa học, thể thao, du lịch và công vụ nhà nước di chuyển trên biển và các
vùng nước cận kề liên quan với biển.
7
Thực chất ở đây là việc nghiên cứu chủ yếu các vấn đề pháp lý liên quan đến
tàu biển trong vận chuyển quốc tế. Nó bao gồm một số quan hệ cơ bản như:
- Quan hệ giữa chủ tàu, người thuê tàu, người khai thác tàu với chủ hàng,
người gửi hàng, người nhận hàng;
- Quan hệ của tàu biển với cảng biển, người cung cấp các dịch vụ trong
cảng biển;
- Các quan hệ nội bộ của các đối tượng trên;
- Giải quan các tranh chấp trong vận chuyển hàng hải
Bốn lĩnh vực trên có thể nói thuộc các quan hệ dân sự, song tàu biển và các
phương tiện vận tải còn phải chịu sự chi phối bắt buộc về mặt hành chính
(quản lý hành chính đối với tàu biển) như đăng ký, đăng kiểm, an toàn, an
ninh hàng hải, các vấn đề liên quan đến phòng và chống ô nhiễm môi trường
biển…. Đây cũng là một trong những đặc thù quan trọng trong đối tượng của
luật hàng hải quốc tế.
1.3. Nguồn của luật hàng hải quốc tế
Nguồn của luật hàng hải quốc tế gồm có các điều ước quốc tế, luật quốc gia
và tập quán hàng hải quốc tế.
1.3.1. Điều ước quốc tế
1.3.1.1. Khái niệm điều ước quốc tế
Trong các quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới, nhất là các nước
khu vực Đông Nam Á thì điều ước quốc tế là nguồn của Tư pháp quốc tế
ngày càng đóng vai trò quan trọng và mang ý nghĩa thiết thực. Đây là các điều
ước quốc tế về thương mại và hàng hải quốc tế; Các hiệp định về trao đổi
hàng hóa và thanh toán, Hiệp định về tương trợ tư pháp dân sự; gia đình và
hình sự. Vậy, chúng ta cần phải hiểu được thế nào là điều ước quốc tế.
Điều ước quốc tế là nguồn được xây dựng bằng các quy phạm, tức là nó được
xây dựng bằng các quy phạm chung hoặc các quy phạm riêng. Các quy phạm
8
đó quy định quyền và nghĩa vụ đối với các bên của điều ước quốc tế. Bản chất
pháp lý của điều ước quốc tế được thể hiện ở chỗ nó thể hiện sự dung hòa về
ý chí, về lợi ích, về các quan điểm của các quốc gia hoạc các chủ thể khác của
luật pháp quốc tế. Điều ước quốc tế đã tạo thành cơ sở pháp lý cho các quan
hệ pháp lý quốc tế. Như vậy, “điều ước quốc tế là thỏa thuận giữa các chủ thể
của luật quốc tế, trong đó việc ký kết, hiệu lực và chấm dứt hiệu lực của nó
được điều chỉnh bằng luật quốc tế.” [9; 4]
1.3.1.2. Tên gọi của điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các
quốc gia và các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không
phụ thuộc vào việc thỏa thuận đó được ghi nhận trong một văn kiện duy nhất
hay hai hoặc nhiều văn kiện có quan hệ với nhau, cũng như không phụ thuộc
vào tên gọi cụ thể của những văn kiện đó.
Điều ước quốc tế là tên khoa học pháp lý chung để chỉ các văn bản pháp luật
quốc tế do hai hay nhiều chủ thể luật quốc tế ký kết. Trong từng quan hệ điều
ước cụ thể, điều ước có thể được gọi bằng rất nhiều tên gọi khác nhau như
hiệp ước, hiệp định, công ước, hiến chương, quy chế.
Luật điều ước quốc tế cũng như pháp luật của mỗi quốc gia đều không có
những quy định cụ thể nhằm ấn định rõ tên gọi cho từng loại điều ước. Trong
thực tiễn, có những điều ước có cùng nội dung và tính chất nhưng giữa các
văn bản điều ước này lại có thể có tên gọi khác nhau. Việc xác định tên gọi cụ
thể cho một điều ước hoàn toàn do các chủ thể ký điều ước đó thỏa thuận
quyết định.
1.3.1.3. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải
Điều ước quốc tế vừa là phương tiện, vừa là công cụ quan trọng điều chỉnh
các quan hệ pháp lý quốc tế. Trong lý luận và thực tiễn của khoa học pháp lý
quốc tế, điều ước quốc tế là nguồn cơ bản của công ước quốc tế và cũng là
9
nguồn quan trọng của tư pháp quốc tế và trong lĩnh vực luật hàng hải quốc tế
nó có một vị trí đặc biệt. Vị trí đặc biệt này thể hiện ở chỗ:
- Điều ước quốc tế là văn bản pháp lý quốc tế chứa đựng hầu hết các nguyên
tắc và quy phạm pháp luật được thỏa thuận của các quốc gia trên thế giới ở
quy mô toàn cầu, khu vực và song phương; các nguyên tắc và các quy phạm
pháp luật về hàng hải quốc tế này ngày càng được bổ sung và hoàn thiện như
những mực thước quy chuẩn để mọi chủ thể tham gia hoạt động hàng hải phải
tuân thủ tuyệt đối;
- Có thể nói là số lượng các điều ước trong lĩnh vực hàng hải quốc tế là rất
nhiều so với các lĩnh vực khác và nó có đặc điểm là liên quan chặt chẽ đến
nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau như luật thương mại quốc tế, luật bảo
hiểm quốc tế, luật môi trường quốc tế, luật hành chính và hình sự quốc tế.
- Một số lượng không nhỏ các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải quốc
tế có mục tiêu thống nhất pháp luật hàng hải của các quốc gia và chúng
thường được áp dụng trực tiếp cho mọi hoạt động, duy trì và thông thương
hàng hải quốc tế bình thường;
- Các điều ước trong lĩnh vực hàng hải có tác động và ảnh hưởng tích cực đến
việc xây dựng pháp luật hàng hải của các quốc gia, nhất là đối với các nước
đang phát triển và chậm phát triển;
Ở Việt Nam, việc tham gia các điều ước quốc tế là một việc hệ trọng trong
công tác xây dựng pháp luật và được nhà nước đặc biệt quan tâm. Năm 2005,
Quốc hội CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật kí kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế thay thế cho Pháp luật 1998. Đồng thời với việc ban
hành pháp luật chúng ta cũng tham gia các Công ước về Luật điều ước quốc
tế như Công ước Viên 1969 vào năm 2001 có hiệu lực đối với Việt Nam. Việc
ban hành luật cũng như tham gia các công ước chứng tỏ Việt Nam rất coi
trọng việc tham gia các điều ước và tuân thủ thực hiện các cam kết được ghi
nhận trong đó. Điều ước quốc tế trong lĩnh vực hàng hải quốc tế thường là các
điều ước thành lập các tổ chức, các hiệp hội hoặc các liên đoàn vận chuyển
10
đường biển quốc tế; sau đó trong khuôn khổ của các tổ chức này có thể kí kết
hoặc ban hành hàng loạt các văn bản pháp lý quốc tế về hoạt động hàng hải
giữa các quốc gia thành viên và giữa tổ chức với các quốc gia nhằm tạo hành
lang pháp luật thống nhất cho các công tác hoạt động hàng hải hữu hiệu phục
vụ đắc lực cho phát triển kinh tế ngoại thương của các nước. Sau đây là một
số điều ước quốc tế về hàng hải quan trọng:
* Các công ước của Liên hợp quốc (LHQ), các ủy ban hay hiệp hội của
LHQ
- Của Liên hợp quốc
+ Công ước của LHQ về luật biển 1982 (UNCLOS – 82)
- Của Ủy ban Hàng hải quốc tế (CMI)
+ Dự thảo các quy tắc về đánh giá tổn thất trong các vụ va đâm hàng hải hải
(Quy tắc Lisbon – 1988);
+ Các quy tắc thống nhất của CMI về vận đơn đường biển 1990 (CMI –
Uniform rules for Sea WAYBILLS, 1990);
+ Các quy tắc của CMI về vận đơn điện tử - 1990 (CMI – Rules for
Electronic Bills of lading, 1990);
+ Quy tắc York – Antwerp, 1994 (York – Antwerp Rules – 1994);
+ Nguyên tắc hướng dẫn của các Hiệp hội phân cấp tàu biển – 1998 (POCFS
– 1998)
- Các quy tắc của UNCITRAL (của LHQ)
+ Công ước của LHQ về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển (Hamburg
Rules – 1978)
+ Công ước của LHQ về vận chuyển hàng hóa bằng vận tải đa phương thức –
1980 (UN Convention on Multimodal Transport of Goods 1980);
+ Công ước của LHQ về trách nhiệm của người khai thác cầu bến vận tải
trong thương mại quốc tế - 1991;
- Các quy tắc của UNCTAD (của LHQ)
+ Công ước về Bộ luật hướng dẫn đối với Hiệp hội tàu chợ - 1974;
11
+ Công ước của LHQ về điều kiện đăng ký tàu biển – 1986;
+ Công ước của LHQ về cầm cố, thế chấp hàng hải 1993.
- Các công ước trong khuôn khổ Tổ chức Hàng hải Quốc tế
+ Công ước về Tổ chức Hàng hải Quốc tế, 1948 (IMO Convention)
+ Công ước về tạo điều kiện thuận lợi trong giao thông hàng hải quốc tế -
1995 (FAL Convention 1965);
+ Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với tổn thất ô nhiễm dầu –
1969 (CLC Convention 1969)
+ Công ước quốc tế liên quan đến sự can thiệp trên biển cả trong trường hợp
tai nạn gây ra ô nhiễm dầu – 1969 (Intervetion 1969);
+ Công ước về trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực vận chuyển hạt nhân bằng
đường biển – 1971;
+ Công ước quốc tế về thành lập quỹ quốc tế bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
dầu – 1971;
+ Quy tắc phòng ngừa va chạm tàu thuyền trên biển – 1972;
+ Công ước quốc tế về công-te-nơ (Containers) an toàn – 1972
+ Công ước Athen về vận chuyển hành khách và hành lý bằng đường biển –
1974;
+ Công ước quốc tế về giới hạn trách nhiệm đối với khiếu nại hàng hải –
1976;
+ Công ước về Tổ chức vệ tinh hàng hải quốc tế - 1979;
Công ước về ngăn ngừa các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng hải
– 1988;
+ Công ước quốc tế về cứu hộ - 1989;
+ Công ước quốc tế về sẵn sàng, ứng phó và hợp tác đối với ô nhiễm dầu –
1990;
+ Công ước quốc tế về cầm giữ và cầm cố hàng hải – 1993;
+ Bộ luật quản lý an toàn hàng hải quốc tế - 1994 (International Safety
Mangament Code – “ISM Code” – 1994;
12
+ Công ước quốc tế về trách nhiệm và bồi thường tổn thất đối với vận
chuyển chất nguy hiểm, độc hại bằng đường biển – 1996 (HNS Convention
1996);
+ Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển – 1999 (International Convention on
Arrest of Ships, 1999);
- Các công ước quốc tế của Hội đồng hàng hải quốc tế (BRUSSELS)
Các công ước của hội đồng hàng hải quốc tế ra đời sớm so với các công ước
ký kết trong khuôn khổ của LHQ và IMO, có thể nói nó là các quy định tiền
thân cho các công ước sau nó. Có thể kể đến một số công ước sau đây:
+ Công ước thống nhất các quy tắc liên quan đến đâm va và giữa các tàu –
1910;
+ Công ước về thống nhất các quy tắc liên quan đến trợ giúp và cứu hộ trên
biển – 1910;
+ Công ước về thống nhất các quy tắc liên quan đến giới hạn trách nhiệm của
chủ sở hữu tàu biển – 1924 (cùng Nghị định thư kèm theo);
+ Công ước về thống nhất các quy tắc chung của pháp luật liên quan đến vận
đơn và nghị định thư đã ký – 1924 (La Hague Rules);
+ Công ước quốc tế về việc thống nhất các quy tắc chung liên quan đến cầm
giữ và thế chấp tàu biển – 1926 (và Nghị định thư kèm theo);
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến quyền tài
phán hình sự đối với các vấn đề đam va hoặc các tai nạn hàng hải khác –
1952;
+ Công ước quốc tế về các quy định liên quan đến quyền tài phán dân sự về
các vấn đề trong các vụ va chạm tàu thuyền – 1952;
+ Công ước quốc tế về bắt giữ tàu biển – 1952;
+ Công ước quốc tế liên quan đến giới hạn trách nhiệm của chủ sở hữu tàu
biển (và Nghị định thư kèm theo) – 1957;
+ Công ước quốc tế liên quan đến hành khách đi tàu trốn vé – 1957;
13
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến vận
chuyển hành khách bằng đường biển – 1961;
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến vận
chuyển hành lý bằng đường biển – 1967;
+ Công ước quốc tế về trách nhiệm của người khai thác tàu hạt nhân – 1962;
+ Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc chung liên quan đến cầm giữ và
thế chấp tàu biển – 1967;
+ Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên quan đến vận
đơn đường biển và các nghị định thư bổ sung (Quy tắc Hague – Visby);
+ Dự thảo Công ước quốc tế về thống nhất các quy tắc liên quan đến quyền
tài phán dân sự, chọn luật, công nhận và thực hiện các bản án trong các vụ
đâm va – 1977;
+ Và một số nghị định thư liên quan đến bổ sung và sửa đổi một số công ước
quốc tế trên.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tác giả xin được giới thiệu kỹ hơn về
một số công ước quốc tế về vận chuyển hàng hóa bằng đường như Công ước
quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật liên quan đến vận đơn đường biển
(Quy tắc Hague), sau đó đến hội nghị năm 1968 mới gọi là Quy tắc Hague -
Visby, Công ước Liên hiệp quốc về vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
(Quy tắc Hamburg) và Công ước Liên hiệp quốc về hợp đồng vận chuyển
hàng hóa quốc tế một phần hoặc toàn bộ bằng đường biển (Quy tắc
Rotterdam).
Quy tắc Hague
Từ năm 1924 trở về trước, chưa có điều ước quốc tế nào được ký kết để điều
chỉnh hợp đồng thuê tàu chợ. Vì vậy, chủ tàu, người chuyên chở thường căn
cứ vào luật nước mình để đưa vào vận đơn các điều khoản về nghĩa vụ và
trách nhiệm của người chuyên chở, do vậy gây nhiều phản ứng cho các chủ
hàng – người thuê chở. Để thống nhất những nguyên tắc về nghĩa vụ và trách
nhiệm của người chuyên chở và người thuê chở, ngày 25/8/1924 tại Brussels,
14
Bỉ, đại diện 26 nước đã ký “Công ước quốc tế để thống nhất một số quy tắc
về vận đơn đường biển” và thường được gọi là Quy tắc Hague hay Công ước
Brussels 1924.
Quy tắc Hague có các điều khoản về nội dung của vận đơn đường biển, về
nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở, các căn cứ miễn trách nhiệm
của người chuyên chở, nghĩa vụ thông báo tổn thất hàng hóa của người nhận
hàng, giới hạn trách nhiệm bồi thường.
“Hàng hóa” thuộc sự điều chỉnh của Quy tắc Hague gồm tất cả của cải, đồ
vật, hàng hóa, vật phẩm bất kỳ tính chất nào, kể cả hàng hóa theo hợp đồng
chuyên chở được khai là hàng xếp trên boong và trong thực tế được chuyên
chở. Súc vật sống được chuyên chở bằng tàu biển dưới hình thức vận đơn
đường biển theo quy tắc này không được coi là “hàng hóa” nghĩa là không
được dùng quy tắc để điều chỉnh.
Quy tắc Hague được áp dụng cho những hợp đồng vận tải được thể hiện bằng
một vận đơn hoặc một chứng từ sở hữu tương tự trong chừng mực chứng từ
đó liên quan đến chuyên chở hàng hóa bằng đường biển. Quy tắc cũng được
áp dụng cho những vận đơn hay chứng từ tương tự như trên được phát hành
theo hay phụ thuộc vào một hợp đồng thuê tàu kể từ khi vận đơn ấy điều
chỉnh quan hệ giữa người chuyên chở và người cầm vận đơn.
Ngày 23/2//1968 tại Hội nghị quốc tế về luật biển lần thứ 12, 47 nước đã ký
“Nghị định thư sửa đổi Công ước quốc tế thống nhất một số quy tắc pháp luật
liên quan đến vận đơn đường biển” (thường gọi là Nghị định thư 1968 hay
Quy tắc Visby). Nghị định thư 1968 đã sửa đổi, bổ sung một số điều khoản
của Quy tắc Hague về thời hiệu khởi kiện, giới hạn bồi thường và đồng tiền
bồi thường, về phạm vị áp dụng quy tắc. Quy tắc Hague gộp với Nghị định
thư 1968 có tên gọi là Quy tắc Hague-Visby. Năm 1979, các bên ký kết Quy
tắc Hague-Visby đã ký Nghị định thư bổ sung Quy tắc Hague, đã được Nghị
định thư 1968 bổ sung. Nội dung bổ sung liên quan đến đồng tiền tính toán
15
bồi thường về mất mát, hư hỏng hàng hóa. Đồng SDR (quyền rút vốn đặc
biệt) được thay thế cho đồng Franc vàng.
Quy tắc Hague cũng như Quy tắc Hague-Visby mang tính chất bắt buộc đối
với những nước phê chuẩn, là nguồn luật điều chỉnh quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm của các bên theo hợp đồng chuyên chở hàng hóa xuất khẩu bằng
tàu chợ. Ngoài ra, có những nước, trong đó có Việt Nam, chưa phê chuẩn
Công ước nhưng thực tế vẫn áp dụng một phần nội dung Công ước để điều
chỉnh hợp đồng chuyên chở hàng hóa xuất nhập khẩu bằng tàu chợ.
Quy tắc Hamburg
Ngày 30/3/1978, tại Hamburg đã ký kết “Công ước LHQ về chuyên chở hàng
hóa bằng đường biển thường gọi là Công ước Hamburg 1978 hay là Quy tắc
Hamburg. Quy tắc này có hiệu lực năm 1992.
So với Quy tắc Hague, trong Quy tắc Hamburg khái niệm hàng hóa được mở
rộng (cả hàng tươi sống), nghĩa vụ và trách nhiệm của người chuyên chở được
quy định tăng lên, căn cứ miễn trách nhiệm của người chuyên chở được quy
định giảm đi…. Do Quy tắc Hamburg quy định trách nhiệm của người chuyên
chở khá nặng và chủ yếu bảo vệ quyền lợi cho chủ hàng cho nên các chủ tàu
không muốn áp dụng. Điều này được xem như là một sự cạnh tranh không
bình đẳng giữa các quốc gia có ngành hàng hải phát triển với các quốc gia
chậm phát triển. Cho đến nay có rất ít quốc gia phê chuẩn quy tắc này.
Quy tắc Rotterdam
Trước những bất cập của công ước quốc tế thống nhất về nghĩa vụ và trách
nhiệm của người chuyên chở hiện nay cũng như việc áp dụng và dẫn chiếu
công ước rất khác nhau giữa các nước, Công ước Liên hiệp quốc về Hợp đồng
vận chuyển hàng hóa một phần hoặc toàn bộ bằng đường biển (Công ước
Rotterdam hay Quy tắc Rotterdam) được thông qua ngày 23/9/2009 tại
Rotterdam. Đến nay đã có 22 quốc gia phê chuẩn. Sự ra đời của quy tắc được
nhiều quốc gia trông đợi và áp dụng cho phép thay thế các quy tắc hiện tại
16
vốn được áp dụng rất khác nhau giữa các nước trong thuê tàu chuyến và trong
vận tải đa phương thức.
Công ước gồm 18 chương, 96 điều khoản. Các điều khoản của quy tắc đã kế
thừa những ưu việt đồng thời loại bỏ một số bất cập và những hạn chế của cả
hai quy tắc là Quy tắc Hague-Visby và Quy tắc Hamburg.
Công ước áp dụng cho hợp đồng chuyên chở hàng hóa mà nơi nhận hàng và
nơi giao hàng nằm ở những nước khác nhau, cảng nhận hàng và cảng dỡ hàng
cũng nằm ở những nước khác nhau, với điều kiện một trong các địa điểm sau
phải nằm trong một nước tham gia quy tắc: nơi nhận hàng, cảng xếp hàng, nơi
giao hàng, hoặc cảng dỡ hàng.
1.3.2. Luật quốc gia
1.3.2.1. Khái niệm Luật quốc gia
Luật Quốc gia là loại nguồn luật khá phổ biến của Tư pháp quốc tế so với các
loại nguồn luật khác. Luật pháp của mỗi quốc gia (hay còn gọi là Luật quốc
nội) được hiểu là một hệ thống văn bản pháp quy của một quốc gia bao gồm
Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật cùng với những tập quán và án lệ,
thực tiễn tư pháp.
Ở các nước như Hungari, Ba Lan, Áo, Thụy Sĩ, Séc, Slovakia, Nam Tư cũ
ban hành hệ thống luật pháp của mình Bộ luật tư pháp quốc tế. Khác với các
nước này, các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ tư pháp quốc tế của
Việt Nam không nằm ở một văn bản mà nằm rải rác ở các văn bản pháp quy
khác nhau ở nhiều ngành luật khác nhau.
1.3.2.2. Luật các quốc gia trên lĩnh vực hàng hải
Hầu hết các quốc gia có biển và thậm chí cả những quốc gia không có biển đã
ban hành các văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động hàng hải. Đó là các luật
và các văn bản dưới luật tạo thành một hệ thống các quy phạm quy định cho
các hoạt động hàng hải và vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Ở các nước
17
khác nhau có cách thức ban hành hệ thống văn bản khác nhau, thường là một
đạo luật chung quản lý nhà nước về hàng hải, còn các vấn đề liên quan có thể
ban hành luật hoặc quy định trong các luật liên quan. Đây là đặc điểm về kĩ
thuật lập pháp của các nước trên thế giới có khác nhau.
Pháp luật hàng hải ở mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng bởi vị trí địa lý biển, trình
độ phát triển hàng hải như đội tàu, chính sách nhà nước… Những quốc gia có
hệ thống pháp luật hàng hải phát triển thường là các quốc gia hội tụ đầy đủ
các yếu tố trên.
Tại Vương quốc Anh, pháp luật hàng hải được quy định chủ yếu trong Luật
chuyên chở hàng hóa bằng đường biển ban hành năm 1924 và luật này được
thay bằng Luật chuyên chở hàng hóa bằng đường biển ban hành năm 1971.
Những quy định của Luật 1924 vẫn có ảnh hưởng lớn trong xã hội vì ở Anh
các án lệ được áp dụng song song với luật. Tại Mỹ, hiện nay đang tồn tại và
duy trì ba đạo luật liên bang, mỗi luật điều chỉnh một lĩnh vực hàng hải quan
trong: Luật Harier ban hành năm 1893, trong đó quy định những định chế
chung về hàng hải; Luật Pomerence ban hành năm 1916 về vận đơn đường
biển; Luật COGSA về chuyên chở hàng hóa ban hành năm 1936.
Nhìn chung, hệ thống luật Anh – Mỹ (common law) là hệ thống luật án lệ áp
dụng chủ yếu các thực hành xét xử và các tập quán hàng hải và có ảnh hưởng
rất lớn đến quá trình hình thành luật hàng hải quốc tế và luật của một số quốc
gia là thuộc địa của Anh trước đây. Pháp luật hàng hải Việt Nam cũng tiếp thu
được khá nhiều những kinh nghiệm từ truyền thống được rút ra từ hệ thống
pháp luật hàng hải Anh.
Đặc biệt là ở các nước Bắc Âu như Na – uy, Thụy Điển, Phần Lan… chấp
nhận thông qua một bộ luật hàng hải chung có hiệu lực vào năm 1994. Có lẽ
do các nước này nằm cùng khu vực địa lý biển, trình độ hàng hải tương
đương nhau và có hệ thống cảng biển liên kết với nhau rất chặt chẽ.
Bộ luật hàng hải Trung Quốc được ban hành vào năm 1992 với mục đích quy
định một số lĩnh vực chủ đạo của hoạt động hàng hải như các vấn đề pháp lý
18
quy định quy chế pháp lý của tàu biển, các vấn đề pháp lý về vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển, các vấn đề pháp lý liên quan đến bảo vệ quyền và
lợi ích của các chủ thể tham gia và hoạt động hàng hải. Luật hàng hải Trung
Quốc chỉ điều chỉnh các hoạt động của tàu biển dân sự - thương mại mà
không điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tàu quân sự hoặc tàu công vụ của
nhà nước.
Các quốc gia khác như ở Nhật Bản, Philipin, các quy định về hoạt động hàng
hải đầu tiên được ban hành trong cùng với Bộ luật Thương mại. Nhật Bản ban
hành Bộ luật Thương mại từ năm 1899 trong đó dành riêng quyển 4 quy định
các vấn đề về hoạt động thương mại hàng hải. Luật chuyên chở hàng hải của
Nhật Bản được ban hành và năm 1949 và Luật chuyên chở hàng hóa bằng
đường biển của Nhật Bản được ban hành năm 1957. Bộ luật thương mại và
hàng hải của Philipin ban hành năm 1888 và các vấn đề thương mại hàng hải
được dành riêng quy định trong quyển 3 của bộ luật.
Hiện nay một số nước lại tập trung ban hành cả Luật tố tụng hàng hải riêng
như Trung Quốc, Mỹ, Australia…. và thậm chí thành lập riêng Tòa án hàng
hải như Trung Quốc.
Trên thế giới trong lĩnh vực hàng hải đang diễn ra sự phân hóa theo hai xu
hướng cơ bản:
- Thống nhất hóa luật hàng hải trên cơ sở hài hòa hai hệ thống quy tắc
Hague-Visby và hệ thống Quy tắc Hamburg;
- Theo một xu hướng độc lập mà không phụ thuộc vào hai hệ thống trên
1.3.2.3. Luật hàng hải Việt Nam
Từ năm 1990 trở về trước, các hoạt động hàng hải quốc tế ở nước ta chủ yếu
là do các văn bản dưới luật điều chỉnh. Đó là các văn bản do Chính phủ ban
hành và các bộ, ngành liên quan ra các thông tư thực hiện. Ví dụ như:
19
- Tuyên bố của Hội đồng chính phủ (nay là Chính phủ) về lãnh hải, vùng
tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam
ngày 12/05/1977;
- Nghị định số 30 – CP của Hội đồng chính phủ về quy chế cho tàu, thuyền
nước ngoài hoạt động trên vùng biển của Việt Nam ngày 29/01/1980;
- Tuyên bố của Chính phủ về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải của
Việt Nam ngày 12/11/1982;
Ngoài ra, các văn bản của Chính phủ và Bộ giao thông ban hành nhiều nghị
định và điều lệ, thông tư và các văn bản hướng dẫn thi hành về hoạt động
hàng hải trong những thập niên 70 và 80 vẫn còn nguyên giá trị, chỉ sau khi
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành Bộ luật hàng hải 1990 thì các
văn bản trên mới không còn giá trị
Năm 1990 Quốc hội thông qua và ban hành Bộ luật hàng hải Việt Nam, có
hiệu lực từ ngày 01/01/1991. Bộ luật này thay thế cho các văn bản pháp lý về
hoạt động hàng hải trước đó, khẳng định một bước tiến dài của Việt Nam
trong quá trình pháp điển hóa pháp luật hàng hải trên con đường hội nhập với
hàng hải quốc tế.
Năm 2005, Quốc hội sửa đổi, bổ sung và ban hành Bộ luật hàng hải Việt
Nam 2005 nhằm nhanh chóng đưa ngành hàng hải Việt Nam có đủ các điều
kiện hội nhập vào ngành vận chuyển biển quốc tế với thế mạnh của ta là có
bờ biển dài và có nhiều cảng biển quốc tế thuận tiện nằm trên hành lang vận
chuyển hàng hải quốc tế. Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 đã xây dựng được
một hệ thống các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh hoạt động hàng hải
trong nước và quốc tế của Việt Nam nhằm mục tiêu hội nhập vào nền kinh tế
thế giới.
1.3.3. Tập quán hàng hải quốc tế
1.3.3.1. Khái niệm tập quán quốc tế
20
Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành trong một thời gian
dài, được áp dụng khá liên tục và một cách có hệ thống, đồng thời được sự
thừa nhận của đông đảo quốc gia. Tập quán quốc tế đôi khi vừa là nguồn của
tư pháp quốc tế vừa là nguồn của công pháp quốc tế.
Các luật gia nổi tiếng trên thế giới đều cho rằng điểm khác biệt cơ bản giữa
tập quán với luật pháp là ở chỗ quá trình hình thành tập quán, việc áp dụng có
hệ thống và tính thừa nhận rộng rãi nhưng lại không được ghi nhận ở đâu cả
(thường gọi là luật bất thành văn).
Phụ thuộc vào tính chất và giá trị hiệu lực của tập quán quốc tế mà có thể chia
tập quán ra thành các loại sau:
- Tập quán mang tính chất nguyên tắc;
- Tập quán mang tính chất chung;
- Tập quán mang tính chất khu vực.
Tập quán nguyên tắc là nền tảng chung, là cơ bản và có tính chất bao trùm.
Nó là cơ sở của chủ quyền và bình đẳng giữa các quốc gia và có giá trị bắt
buộc chung với các quốc gia.
Tập quán quốc tế chung là tập quán được nhiều nước thừa nhận và áp dụng
rộng rãi mọi nơi trên thế giới. Có thể ví dụ như các điều kiện giao dịch
thương mại quốc tế mà Phòng thương mại quốc tế tập hợp và soạn thảo từ
năm 1936, 1953, 1980, 2000 và 2010, gọi tắt là Incoterms, là tập hợp các tập
quán thương mại quốc tế khác nhau trong đó quy định các điều kiện mua bán,
bảo hiểm, cước vận tải, trách nhiệm giữa các bên tham gia hợp đồng như
FOB, CIF, CFR, …. được rất nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận và sử
dụng trong hoạt động thương mại.
Tập quán khu vực là các tập quán được sử dụng ở từng khu vực, từng nước,
thậm chí từng cảng biển riêng biệt hoặc cảng hàng không riêng biệt ở mỗi
quốc gia.
21
Tập quán quốc tế chung và tập quán khu vực chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc
các quốc gia khi được các quốc gia thừa nhận hoặc chấp nhận ràng buộc đối
với mình.
1.3.3.2. Tập quán hàng hải quốc tế
Tập quán hàng hải là thói quen hàng hải được lặp đi lặp lại nhiều lần, được
nhiều nước công nhận và áp dụng liên tục đến mức nó trở thành một quy tắc
mà các bên mặc nhiên tuân theo.
Hiện nay có rất nhiều tập quán hàng hải quốc tế đã được pháp điển hóa vào
trong các điều ước quốc tế hoặc trong pháp luật của các quốc gia. Ví dụ như
quyền đi qua không gây hại và nguyên tắc tự do biển cả trước đây là những
tập quán hàng hải tiêu biểu, nay đã được ghi nhận trong các điều cơ bản của
Công ước quốc tế về luật biển năm 1982 của LHQ. Đây là những hành vi xử
sự văn minh trong hoạt động hàng hải được tất cả các quốc gia thừa nhận và
áp dụng lâu đời.
Các tập quán hàng hải ngày nay thường được áp dụng trong các trường hợp
của hợp đồng vận chuyển bằng đường biển quốc tế khi không có luật áp dụng
hoặc khi quy định chưa đầy đủ. Điều 4 Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 cho
phép hợp đồng mà có một bên là bên nước ngoài được thỏa thuận áp dụng tập
quán hàng hải quốc tế hoặc thỏa thuận chọn tòa án hay trọng tài nước ngoài
giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng.
22
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG
CHUYÊN CHỞ HÀNG HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN THEO
LUẬT HÀNG HẢI VIỆT NAM 2005 SO VỚI CÁC CÔNG
ƯỚC QUỐC TẾ VỀ VẬN CHUYỂN HÀNG HÓA BẰNG
ĐƯỜNG BIỂN
2.1. Khái niệm chung về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
Theo Điều 78 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 thì hợp đồng vận chuyển hàng
hóa bằng đường biển là hợp đồng được giao kết giữa người vận chuyển và
người thuê vận chuyển, theo đó người vận chuyển thu tiền cước vận chuyển
do người thuê vận chuyển trả và dùng tàu biển để vận chuyển hàng hóa từ
cảng nhận hàng đến cảng trả hàng.
Hàng hóa trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển bao gồm
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, nhiên liệu hàng tiêu dùng và các động sản
khác, kể cả động vật sống, công-ten-nơ hoặc công cụ tương tự do người gửi
hàng cung cấp để đóng hàng hoặc được vận chuyển theo hợp đồng vận
chuyển hàng hóa bằng đường biển; cước vận chuyển là tiền công trả cho
người vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Theo Điểm b Điều 1 Quy tắc Hague thì hợp đồng chuyên chở chỉ dùng cho
những hợp đồng chuyên chở thể hiện bằng một vận đơn hay một chứng từ
tương tự trong chừng mực chứng từ đó liên quan đến chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển, nó cũng dùng cho vận đơn hay chứng từ tương tự như đã
nói trên được cấp phát chiếu theo một hợp đồng thuê tàu kể từ khi vận đơn ấy
điều chỉnh quan hệ giữa người chuyên chở và người mang vận đơn.
Theo Mục 6 Điều 1 Quy tắc Hamburg thì hợp đồng chuyên chở hàng hóa
bằng đường biển là bất cứ hợp đồng nào mà theo đó người chuyên chở đảm
nhận chuyên chở hàng hóa bằng đường biển từ một cảng này đến một cảng
khác để thu tiền cước. Tuy nhiên, nếu một hợp đồng liên quan đến chuyên
chở bằng đường biển và cũng liên quan đến chuyên chở bằng phương tiện
chuyên chở khác thì những vấn đề liên quan đến chuyên chở bừng đường biển
23
được coi là hợp đồng chuyên chở bằng đường biển theo đúng nghĩa của công
ước này.
Như vậy, quan niệm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa đã được ghi nhận
trong nhiều công ước quốc tế và pháp luật các nước, trong đó có pháp luật
Việt Nam. Qua trên ta thấy, Quy tắc Hague chỉ điều chỉnh hợp đồng vận
chuyển bằng đường biển theo vận đơn hay các chứng từ tương tự như vận
đơn, còn Quy tắc Hamburg thì áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng vận
chuyển bằng đường biển cả kể vận đơn. Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005
không quy định hợp đồng vận chuyển bằng đường biển theo vận đơn hay các
chứng từ tương tự như vận đơn, mà do các bên thỏa thuận.
2.2. Đặc điểm về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
2.2.1. Đặc điểm về chủ thể
Về chủ thể của hợp đồng, hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển
được ký kết giữa người vận chuyển và người thuê vận chuyển hay người gửi
hàng.
Theo quy định tại Điều 72 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 thì người thuê
vận chuyển là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người vận chuyển. Trong
trường hợp hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển, người thuê vận
chuyển được gọi là người gửi hàng.
Người vận chuyển là người tự mình hoặc ủy quyền cho người khác giao kết
hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển với người thuê vận chuyển.
Người vận chuyển thực tế là người được người vận chuyển ủy thác thực hiện
toàn bộ hoặc một phần việc vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.
Theo Điều 1 Quy tắc Hamburg, người chuyên chở là bất cứ người nào mà
chính mình hoặc người được họ ủy thác đứng tên ký hợp đồng vận chuyển
hàng hóa bằng đường biển với người gửi hàng. Như vậy, người chuyên chở
24
(người vận chuyển) phải là một bên tham gia ký kết hợp đồng vận chuyển
hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển với người gửi hàng.
Người gửi hàng là bất cứ người nào mà chính mình ký hoặc đứng tên mình ký
thay cho mình một hợp đồng vận chuyển với người chuyên chở hoặc là bất cứ
người tự mình tiến hoặc được người khác thay mình tiến hành thực sự giao
hàng hóa cho người chuyên chở liên quan đến hợp đồng vận chuyển đường
biển.
Ngoài khái niệm về người chuyên chở và người gửi hàng, Quy tắc Hamburg
còn đưa ra khái niệm về người chuyên chở thực sự. Theo đó, người chuyên
chở thực sự là bất cứ người nào được người chuyên chở ủy thác thực hiện
việc chuyên chở hàng hoặc một phần việc chuyên chở hàng hóa đó, kể cả bất
cứ người nào khác được giao cho việc ủy thác đó.
2.2.2. Đặc điểm về hình thức
Hình thức của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển do các bên
thỏa thuận đối với loại hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển, hoặc
dưới hình thức văn bản đối với hợp đồng vận chuyển theo chuyến.
Điều 71 Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2005 quy định hình thức của hợp đồng
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển. Theo đó, hợp đồng vận chuyển theo
chứng từ vận chuyển được giao kết theo hình thức do các bên thoả thuận; hợp
đồng vận chuyển theo chuyến phải được giao kết bằng văn bản.
2.2.3. Đặc điểm về đối tượng
Đối tượng của hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là hoạt động
vận chuyển hàng hóa qua biên giới của một hoặc nhiều quốc gia, cụ thể là từ
cảng của một nước này đến cảng của một nước khác. Khác với hợp đồng mua
bán, hợp đồng chuyên chở không làm thay đổi chủ sở hữu của một hàng hóa
mà chỉ làm thay đổi vị trí của chúng.
25