Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Mối quan hệ giữa điều khoản bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.16 KB, 14 trang )

MỤC LỤC
Trang
A. NỘI DUNG…………………………………………………………….2
1. Khái quát chung về điều khoản bảo hiểm…………………………………..2
1.1 Khái niệm điều khoản bảo hiểm…………………………………………..2
1.2 Nội dung của điều khoản bảo hiểm……………………………………….3
2. Ý nghĩa của điều khoản bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh và mối quan hệ
của điều khoản bảo hiểm với hợp đồng bảo hiểm…………………………….9
2.1 Ý nghĩa của điều khoản bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm…………………………………………………………………………...9
2.2 Mối quan hệ giữa điều khoản bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm………….11
B. KẾT LUẬN……………………………………………………………12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………..13
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT……………………………………………..14

1


A. NỘI DUNG.
1. Khái quát chung về điều khoản bảo hiểm.
1.1 Khái niệm điều khoản bảo hiểm:
Có thể hiểu đơn giản:Điều khoản bảo hiểm là các thỏa thuận giữa chủ thể
mua bảo hiểm và chủ thể kinh doanh bảo hiểm, trong đó quy định quyền lợi và
nghĩa vụ của các bên tham gia bảo hiểm, được thống nhất và soạn thảo thành
một hợp đồng bảo hiểm. Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm của
điều khoản bảo hiểm như sau:
Thứ nhất: Điều khoản bảo hiểm là kết quả của sự thỏa thuận ý chí giữa
người mùa bảo hiểm và chủ thể kinh doanh bảo hiểm.
Thứ hai: Điều khoản bảo hiểm có nội dung chủ yếu là quyền và nghĩa vụ
của các bên tham gia quan hệ bảo hiểm và một số nội dung khác như điều kiện
thực hiện, giải quyết tranh chấp...


Thứ ba: Điều khoản bảo hiểm được thể hiện dưới dạng viết và được tổng
hợp thành văn bản là hợp đồng bảo hiểm.
Căn cứ vào cách thức thỏa thuận, điều khoản bảo hiểm được chia làm hai
loại chính là điều khoản tùy nghi và điều khoản mẫu. Điều khoản tùy nghi là
những điều khoản có tính linh động, được thỏa thuận giữa các bên của quan hệ
bảo hiểm trong một số trường hợp cụ thể, thuộc phần điều kiện riêng của hợp
đồng như: thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm... Quá trình thỏa
thuận điều khoản tùy nghi hầu hết rất khó khăn và mất nhiều thời gian do cần
phải đạt được sự thống nhất giữa hai bên mà không ảnh hưởng đến lợi ích của
họ, do đó điều khoản tùy nghi rất ít được áp dụng ở các nước trên thế giới cũng
như ở Việt Nam.
Điều khoản mẫu của hợp đồng bảo hiểm là những điều khoản do DNBH
soạn trước theo mẫu, Nếu người mua bảo hiểm chấp nhận giao kết hợp đồng thì
coi chấp nhận tất cả những điều khoản mẫu đó. Hợp đồng bảo hiểm thường
được DNBH soạn thảo sẵn một số điều khoản. Việc DNBH ban hành điều
khoản mẫu là một thông lệ được pháp luật nhiều nước công nhận bởi:
2


- Do tính phức tạp của quan hệ hợp đồng bảo hiểm. để đánh giá đầy đủ
rủi ro đối với đối tượng bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm phải kê khai đầy đủ,
chi tiết, trung thực các thông tin về đối tượng bảo hiểm và vấn đề có liên quan.
Bên tham gia bảo hiểm khó kê khai nếu không có sự gợi ý, hướng dẫn của
DNBH thông qua giấy yêu cầu bảo hiểm được DNBH soạn thảo sẵn.
- Tạo ra tính cân bằng cho các bên trong thương lượng hợp đồng: Trong
thương lượng hợp đồng bảo hiểm Bên bảo hiểm có ưu thế hơn bên mua bảo
hiểm (kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp) Việc ban hành điều khoản mẫu công
khai quyền và nghĩa vụ của các bên giúp khách hàng hiểu rõ quyền và nghĩa vụ
của mình để đi đến quyết định tham gia hoặc không tham gia
- Giúp DNBH cung cấp dịch vụ có chất lượng, ổn định cho nhiều khách

hàng.DNBH không có điều kiện tiến hành thương lượng trực tiếp với từng
khách hàng trong từng hợp đồng. DNBH sản xuất ra sản phẩm bảo hiểm với
cùng chất lượng để bán cho nhiều khách hàng đảm bảo tính nhanh chóng, hiệu
quả trong kinh doanh tiết kiệm chi phí và thời gian... Đồng thời công khai sản
phẩm bảo hiểm của riêng mình, tăng cường năng lực cạnh tranh, hạn chế rủi ro
từ đại lý bảo hiểm và tạo điều kiện cho cơ quan chức năng giám sát việc thực
hiện pháp luật kinh doanh bảo hiểm.
Bên cạnh ưu điểm trên điều khoản mẫu của HĐBH có nhược điểm là hạn
chế nguyên tắc tự do thoả thuận trong ký kết và thực hiện hợp đồng, làm giảm
khả năng lựa chọn của bên mua bảo hiểm.
1.2 Nội dung của điều khoản bảo hiểm:
Điều khoản chủ yếu: là các điều khoản phải có trong hợp đồng, có nó hợp
đồng mới phát sinh hiệu lực. Tuỳ thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể mà người
ta xác định loại điều khoản nào được coi là điều khoản chủ yếu.
Trong các loại hợp đồng bảo hiểm thông thường những điều khoản sau
đây được coi là những điều khoản chủ yếu:
- Tên, địa chỉ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, người
được bảo hiểm hoặc người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
3


- Đối tượng bảo hiểm: có thể là tài sản, trách nhiệm dân sự, tính mạng,
sức khoẻ, khả năng lao động, tuổi thọ con người... đối tượng bảo hiểm được xác
định cụ thể trong từng hợp đồng bảo hiểm. Việc xác định rõ đối tượng bảo hiểm
sẽ quyết định đến việc vận dụng các nguyên tắc, biện pháp ký thuật nghiệp vụ
thích hợp trong soạn thảo, thoả thuận và quản lý hợp đồng bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm, giá trị tài sản được bảo hiểm trong bảo hiểm tài
sản.Bồi thường chỉ việc bên bảo hiểm thực hiện cam kết đền bù cho người được
bảo hiểm những thiệt hại vật chất xảy ra trong sự kiện bảo hiểm một phần hoặc
toàn bộ.Nó sử dụng chủ yếu trong bảo hiểm tài sản; bảo hiểm trách nhiệm dân

sự.Trả tiền bảo hiểm sử dụng trong bảo hiểm con người nó mang ý nghĩa bên
bảo hiểm trả một khoản tiền nhất định theo thoả thuận trong hợp đồng bảo
hiểm. Chúng tương đồng ở điểm đều là việc thực hiện cam kết của DNBH khi
có sự kiện bảo hiểm xảy ra.Tuy nhiên chúng có ý nghĩa riêng biệt.
Bồi thường có mục tiêu là khôi phục tình trạng tài chính của người được bảo
hiểm, tối đa bằng trạng thái trước khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Bồi thường có
thể thực hiện bằng tiền hoặc DNBH trực tiếp thay thế, sửa chữa đối tượng bảo
hiểm, bồi thường không tạo ra cơ hội kiếm lời cho bên được bảo hiểm.Trả tiền
trong bảo hiểm nhân thọ còn cả yếu tố sinh lợi số phí bảo hiểm nộp trước của
bên mua bảo hiểm và nó được chi trả trong nhiều sự kiện bảo hiểm không hề
phát sinh thiệt hại. Một số sự kiện bảo hiểm con người có phát sinh thiệt hại thì
khoản tiền trả bảo hiểm có thể vẫn không mang tính bồi thường.
Hầu hết hợp đồng bảo hiểm phải xác định rõ giới hạn trách nhiệm của
bảo hiểm.Số tiền tối đa mà người bảo hiểm có thể phải trả trong một sự kiện bảo
hiểm hoặc trong cả một thời hạn bảo hiểm.
Trong bảo hiểm con người giới hạn trả tiền bảo hiểm được biểu thị bằng
số tiền bảo hiểm hoặc mức trách nhiệm hoặc khoản tiền trả bảo hiểm định kỳ.
DNBH đưa ra nhiều mức giới hạn trả tiền thích hợp để đáp ứng yêu cầu ngăn
ngừa rủi ro đạo đức và bên mua bảo hiểm tuỳ thuộc vào nhu cầu an toàn, khả
năng trả phí của mình để lựa chọn.
4


- Phạm vi bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, điều khoản bảo hiểm, các điều
khoản loại trừ.
Đây là những điều khoản cơ bản của hợp đồng. Bởi vì, xuất phát từ thực
tế có nhiều loại rủi ro tổn thất chi phí có thể ảnh hưởng đến sự an toàn của đối
tượng bảo hiểm nhưng yêu cầu về kỹ thuật và pháp lý chỉ cho phép các nhà bảo
hiểm được nhận bảo hiểm đối với một số rủi ro nhất định. Rủi ro được bảo hiểm
được xác định dựa trên sự đánh giá về mức độ rủi ro, nguyên nhân rủi ro và các

nhân tố ảnh hưởng.
Mức độ rủi ro cao hay thấp được định lượng bằng xác suất rủi ro và mức
độ nghiêm trọng của hậu quả. Xác suất rủi ro trong từng tình huống được tính
toán cụ thể nhờ luật số lớn…Về cơ bản có thể phân chia thành 3 loại biến cố
chắc chắn, biến cố có thể xảy ra và biến cố ngẫu nhiên.
Mức độ nghiêm trọng của hậu quả trong từng tình huống cụ thể phụ thuộc
nhiều yếu tố như: Đặc tính của loại rủi ro, giá trị của đối tương chịu sự tác
động... Về nguyên nhân có rủi ro có nguồn gốc khách quan từ thiên nhiên, hoặc
gắn hoạt động xã hội loài người.Những rủi ro từ hoạt động, hành động cố ý
hoặc vô ý của con người có trường hợp rủi ro xảy ra là một tổ hợp các nguyên
nhân khách quan, chủ quan, cố ý và không cố ý.
Quan hệ nhân quả giữa nguyên nhân và hậu quả rủi ro trong từng trường
hợp bị chi phối bởi nhân tố ảnh hưởng khác.Như nguy cơ vật chất, và nguy cơ
tinh thần. Nguy cơ vật chất ảnh hưởng tới rủi ro là vị trí địa điểm của công trình
xây dựng đối với rủi ro động đất, lũ lụt; tình trạng thiết bị phòng cháy, chữa
cháy đối với rủi ro cháy... Nguy cơ tinh thần là những trạng thái tinh thần của
con người có thể ảnh hưởng đến mức dộ rủi ro thường liên quan đến thái độ
cách cư xử của bên được bảo hiểm như sự lơ là trong bảo vệ đối tượng bảo
hiểm; tâm lý ỷ lại vào sự bảo đảm của người được bảo hiểm; hành vi gian lận, ý
đồ trục lợi sẽ làm tăng mức độ rủi ro lên gấp bội. Rủi ro có thể được bảo hiểm
thường xem xét căn cứ vào một số tiêu chí sau:

5


- Một là, rủi ro được bảo hiểm phải là biến cố ngẫu nhiên: rủi ro xảy ra và
hậu quả không phụ thuộc vào mong muốn của bên tham gia. Tính ngẫu
nhiên liên quan đến tới sự không chắc chắn về khả năng xảy ra và thời
điểm xảy ra(BH nhân thọ trọn đời cho sự kiện chết của người được bảo
hiểm - cái chết là chắc chắn nhưng thời điểm chất không xác định được).

Điều này xuất phát từ đặc tính của BHNT không chỉ chuyển giao rủi ro
đơn thuần mà còn đáp ứng nhu cầu khác như tích luỹ tài chính, đầu tư của
người tham gia bảo hiểm. Đối với những rủi ro do chính hành động của
bên được bảo hiểm cần được phân biệt dạng cố ý hay vô ý. Nếu là cố ý
thì rủi ro không còn là ngẫu nhiên nên không đựơc bảo hiểm. Nếu không
cố ý, không mong muốn nhưng kèm theo yếu tố mắc lỗi nặng và có đủ
khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm trong hành động gây nên
thì cũng không thể bảo hiểm được. Những biến cố có hậu quả hàng loạt
trên phạm vi rộng những rủi ro dễ bị chi phối bởi nguy cơ tinh thần (rủi
ro thua lỗ trong kinh doanh là rủi ro phụ thuộc lớn vào sự cố gắng chủ
quan của người được bảo hiểm) nên rất hiếm khi được bảo hiểm.
- Hai là, lượng hoá được về mặt tài chính: Nhà bảo hiểm chỉ bảo hiểm cho
những trường hợp , những hậu quả lượng hoá về mặt tài chính. Việc
lượng hoá này được thực hiện một cách trực tiếp hoặc tương đối thông
qua quy định chủ quan của con người ( rủi ro ô nhiễm hoặc thiệt hại về
mặt tinh thần của con người trong tai nạn).
- Ba là, không trái pháp luật và lợi ích công cộng. PL không cho phép một
người tránh được trách nhiệm hình sự bằng cách mua bảo hiểm hoặc
không cho phép bảo hiểm tử vong đối với người mắc bện tâm thần. Bảo
hiểm cho một lô hàng lậu, bảo hiểm cho công trình xây dựng trái pháp
luật.
Hai loại điều khoản này xác định rõ những trường hợp nào bên bảo hiểm
phải chịu trách nhiệm (phạm vi bảo hiểm) không phải chịu trách nhiệm (loại
trừ) trước những hậu quả bất lợi xảy ra cho đối tượng bảo hiểm. Các trường hợp
6


đó được mô tả dưới dạng các loại rủi ro, sự kiện, sự cố ( Đâm va, mất tích, cướp
biển, trộm cắp, lây bẩn, lây hại). Hơn nữa, phạm vi bảo hiểm, loại trừ bảo hiểm
còn có thể cụ thể theo loại nguyên nhân của sự kiện, loại hậu quả của sự kiện

(loại tổn thất, thiệt hại , chi phí phát sinh) và sự giới hạn về không gian, địa bàn
lãnh thổ cần thiết trong một số loại nghiệp vụ bảo hiểm (BH hàng không, BH
trách nhiệm sản phẩm). Loại trừ có thể loại trừ tuyệt đối (không bao giờ nhận
BH) hoặc loại trừ tương đối có thể được bảo hiểm trong những trường hợp đặc
biệt đó là sự linh hoạt cần thiết trong thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhằm đáp ứng
các nhu cầu bảo hiểm đa dạng của xã hội. Việc xác định phạm vi bảo hiểm rộng
hay hẹp loại trừ ít hay nhiều còn phụ thuộc vào nhiều vấn đề khác mà người bảo
hiểm cần phải xem xét khi thiết kế sản phẩm bảo hiểm như sự đánh giá về nhu
cầu bảo hiểm, khả năng trả phí bảo hiểm của số khách hàng tiềm năng; yêu cầu
quả lý rủi ro và yếu tố cạnh tranh của sản phẩm bảo hiểm. Hơn nữa, hai loại
điều khoản này còn phải được thiết kế trong sự tương quan hợp lý với các điều
khoản khác của hợp đồng.
- Thời gian bảo hiểm, thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm.
Thông thường trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm phát
sinh khi bên mua bảo hiểm nộp phí, nhưng cũng có thể phát sinh trách bảo hiểm
vào thời điểm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Thời hạn bảo hiểm được xác định bằng điều khoản quy định thời điểm
bắt đầu và thời điểm kết thúc hiệu lực bảo hiểm thông thường được xác định
theo mốc thời gian chính xác theo ngày giờ tháng năm. Một số loại nghiệp vụ
BH việc xác định thời điểm cần có sự kết hợp mốc thời gian và mốc sự kiện “ từ
kho đến kho”. Ngoài ra trong một số trường hợp quy định về mặt thời gian là
linh hoạt chẳng hạn bảo hiểm công trình xây dựng thời hạn bảo hiểm là từ khi
khởi công công trình đến khi bàn giao đưa vào sử dụng. Trong bảo hiểm con
người thời điểm bắt đầu và kết thúc cũng có quy định riêng ( bệnh tật, thai sản,
tự tử, chết ) quy định về thời gian chờ và cả về trách nhiệm trả tiền khi sự kiện

7


chết do rủi ro phát sinh trong thời hạn bảo hiểm nhưng lại xảy ra sau khi kết

thúc thời hạn đó.
- Mức phí bảo hiểm, phương thức nộp phí bảo hiểm.
Thông thường phí bảo hiểm có thể định bằng số tiền nhất định hoặc bằng
tỷ lệ % cố định được thoả thuận khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, đối với bảo
hiểm tương hỗ phí bảo hiểm được điều chỉnh theo tình hình khoản chi (chi bồi
thường, chi quản lý...) thực tế phát sinh trong năm nghiệp vụ của tổ chức bảo
hiểm.
Bên cạnh việc quy định mức phí hợp đồng còn quy định về kỳ hạn nộp
phí, thời hạn gia hạn nộp phí, phương thưc nộp phí và các quy định về các
trường hợp đặc biệt như quy định tăng mức phí khi đối tượng bảo hiểm có mức
độ rủi ro lớn hoặc điều chỉnh mức phí đối với những đối tượng bảo hiểm có
thay đổi trong thời hạn bảo hiểm như hàng hoá trong kho, tiền gửi tị tổ chức tín
dụng...)
- Phương thức thanh toán tiền bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm.
Trong nhiều nghiệp vụ bảo hiểm DNBH thường đưa ra các quy định về
việc áp dụng mức miễn thường. Có thể bằng một số tiền nhất định theo sự cố
hoặc theo tỷ lệ % nhất định của giá tổn thất. Việc quy định mức miễn thường
chi phối trực tiếp việc tính số tiền trả bảo hiểm.có trường hợp miễn thường có
khấu trừ vào số tiền bồi thường có trường hợp miễn thường không không khấu
trừ thiệt hại nhỏ hơn hoặc bằng mức miễn thường thì không không bồi thường
còn lớn hơn mức đó thì bồi thường không khấu trừ. Mức miễn thường có thể
quy định bắt buộc hoặc để bên mua tuỳ ý lựa chọn.
Mức miễn thường đưa vào hợp đồng xuất phát từ mục đích khác nhau: có
thể để loại bỏ tổn thất dạng hao hụt tự nhiên, thương mại khỏi trách nhiệm bảo
hiểm hoặc để tránh bỏ ra các chi phí về giám định, thu thập hồ sơ thủ tục thanh
toán không mang lại hiệu quả kinh tế đối với những tổn thất nhỏ. Đặc biệt sẽ
đáp ứng được nhu cầu tự gánh chịu một phần tổn thất để giảm phí bảo hiểm,

8



đồng thời là một biện pháp góp phần ngăn ngừa rủi ro đạo đức, giảm thiểu nguy
cơ tinh thần trong kinh doanh bảo hiểm.
Bồi thường, trả tiền theo tỷ lệ: có nhiều loại tỷ lệ chi phối cách tính số
tiền bồi thường BH
+ Tỷ lệ số tiền bảo hiểm/ Giá trị bảo hiểm. (BH dưới giá trị)
+ Tỷ lệ bồi thường cụ thể nếu khách hàng chấp nhận thì ký hợp đồng đối với tất
cả các tổn thất xảy ra người được bảo hiểm chỉ được bồi thường một phần thiệt
hại theo tỷ lệ thoả thuận đó. Lý do bắt nguồn từ chủ ý muốn tác động đến ý thức
trách nhiệm của bên được bảo hiểm trong việc bảo vệ an toàn đối tượng bảo
hiểm và hạn chế tổn thất ngay từ khi ký hợp đồng. Đó là biện pháp cần thiết với
một số nghiệp vụ bảo hiểm như: Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, Tín dụng thương
mại, bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm vật nuôi cây trồng- những loại bảo hiểm có
tính phức tạp trong quản lý rủi ro và dễ bị chi phối bởi nguy cơ tinh thần.
+ Tỷ lệ theo phí bảo hiểm: số tiền bồi thường bảo hiểm hoặc trả tiền bảo
hiểm bị giảm đi bởi tỷ lệ:

số phí bảo hiệm đã nộp

số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp.
Cách xác định này thường áp dụng khi có sự nhầm lẫn sai sót trong cung
cấp thông tin và thông báo rủi ro thay đổi của bên mua bảo hiểm. Chẳng hạn, sự
nhầm lẫn tuổi của người được bảo hiểm khi tham gia bao hiểm nhân thọ dẫn
đến việc định mức phí trong hợp đồng thấp hơn mức phí tương ứng với độ tuổi
đúng của người được bảo hiểm, bởi vậy DNBH phải giảm số tiền trả bảo hiểm
nếu như không muốn áp dụng biện pháp khác.
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và việc giải quyết tranh chấp.
- Ngày tháng năm ký kết hợp đồng.
2. Ý nghĩa của điều khoản bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh và
mối quan hệ của điều khoản bảo hiểm với hợp đồng bảo hiểm.

2.1 Ý nghĩa của điều khoản bảo hiểm trong hoạt động kinh doanh bảo
hiểm:

9


Điều khoản bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm đều đóng vai trò là
quan trọng cho các hoạt động đầu tư và phần lớn các hoạt động kinh doanh khác
của công ty bảo hiểm. Mỗi điều khoản sẽ là cơ sở tạo thành các yếu tố liên
quan, từ đó thiết lập hợp đồng kinh doanh, hình thành ra các quan hệ kinh doanh
giữa các đối tác như nhân lực, khách hàng, nhà thầu, chi phí, quyền lợi và trách
nhiệm…Xây dựng được hợp đồng với các điều khoản mẫu chuẩn sẽ giúp công
ty tập trung quản lý vào các vấn đề thiết yếu, đồng thời tạo thuận lợi trong việc
thu hút khách hàng. Muốn vậy, trước tiên, các công ty phải xác định từ mối
quan hệ làm ăn, sau đó là xác định những điều khoản và nội dung thiết yếu của
mối quan hệ kinh doanh đó, chẳng hạn như quyền và trách nhiệm của các bên,
bồi thường như thế nào khi có thiệt hại xảy ra… Những bản dự thảo hợp đồng
tạm trong quá trình lên kế hoạch kinh doanh sẽ đảm bảo cho công ty sớm nhận
diện và xử lý kịp thời các vấn đề thiết yếu có thể bị bỏ qua.
Điều khoản bảo hiểm cần sự cân nhắc kỹ lưỡng trước khi thỏa thuận và
giao kết. Thực tế cho thấy đó cú nhiều trường hợp các bên giao kết hợp đồng
với nhau và tiến hành các thực hiện quan hệ bảo hiểm, nhưng rồi khi một tranh
chấp nhỏ xảy ra, một trong hai bên đối tác lại lợi dụng sự thiếu chặt chẽ trong
các điều khoản đó được giao kết để thu lợi riêng cho mình. Chẳng hạn, các điều
khoản mẫu do công ty bảo hiểm cung cấp đều hướng đến một mục tiêu duy nhất
mà tăng lợi nhuận của công ty và càng hạn chế rủi ro càng tốt. Do vậy, đôi lúc
công ty bảo hiểm sẽ đưa ra những điều khoản mà nếu như chủ thể tham gia bảo
hiểm không am hiểu về kiến thức pháp luật rất dễ bị mắc sai lầm. Lúc này,
người thiệt hại sẽ là chính những khách hàng đó, mặc dù họ đó thực hiện đúng
theo những gỡ đó giao kết.

Điều khoản bảo hiểm là cơ sở đảm bảo cho sự tự do thỏa thuận giữa các
bên tham gia quan hệ bảo hiểm. Tự do thoả thuận là một trong những nguyên
tắc quan trọng trong giao kết hợp đồng kinh doanh. Điều này có nghĩa là các
bên được phép lựa chọn hình thức thích hợp khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, để
bảo đảm an toàn pháp luật trong các giao dịch hợp đồng giữa các bên, cũng như
10


để bảo vệ trật tự pháp luật và lợi ích kinh doanh đối với một số loại hợp đồng
pháp luật đòi hỏi người chịu trách nhiệm ở công ty giao kết hợp đồng phải tuân
theo những hình thức nhất định, ngược lại, hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực.
Điều khoản bảo hiểm thể hiện dưới hình thức văn bản hợp đồng có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến vấn đề kinh
doanh. Điều khoản bảo hiểm trong các hợp đồng bảo hiểm là cách thức thể hiện
ý chí ra bên ngoài dưới hình thức nhất định của các chủ thể giao kết. Thông qua
cách thức biểu hiện này, người ta có thể biết được nội dung của giao dịch kinh
doanh đó xác lập. Các điều khoản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng,
bởi đó là chứng cứ xác nhận các quan hệ kinh doanh đó và đang tồn tại giữa các
bên, từ đó xác định trách nhiệm khi có vi phạm xảy ra. Trong trường hợp pháp
luật có quy định giao dịch kinh doanh phải được thể hiện bằng hình thức văn
bản hoặc phải được công chứng, chứng thực, đăng ký hay xin phép thì các bên
phải tuân thủ quy định về hình thức khi ký kết hợp đồng.
Điều khoản hợp đồng cũng có ý nghĩa trong việc lưu ý các bên cần thận
trọng hơn khi giao kết kinh doanh và nhằm đảm bảo tính rõ ràng của việc tồn tại
các giao dịch kinh doanh, quyền và nghĩa vụ cũng như đặc điểm của quan hệ
pháp luật kinh doanh.
2. Mối quan hệ giữa điều khoản bảo hiểm và hợp đồng bảo hiểm:
Hợp đồng bảo hiểm được cấu thành từ nhiều bộ phận, trong đó điều
khoản bảo hiểm có thể xem là bộ phận quan trọng nhất. Về cơ bản, các yếu tố
cấu thành bảo hiểm là các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, các

yếu tố này được xếp thành nhóm điều khoản chung, nhóm điều khoản bổ sung
và nhóm điều khoản riêng.
- Nhóm các điều khoản chung: Đây là nhóm các điều khoản có nội dung
giống nhau ở hầu hết các hợp đồng bảo hiểm có cùng một nghiệp vụ bảo hiểm
cho cùng một đối tượng bảo hiểm. Vì thế, các điều khoản chung này thường
được các doanh nghiệp bảo hiểm soạn thảo và in sẵn trong các tài liệu dưới các

11


tên gọi như: quy tắc bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, đơn bảo hiểm. Các điều
khoản chung của hợp đồng bảo hiểm: phạm vi bảo hiểm, nghĩa vụ của các bên...
- Nhóm các điều khoản riêng: Đây là những điều khoản tạo nên tính đặc
thù cho mỗi hợp đồng bảo hiểm và do đó chỉ được in trước một phần. Những
thông tin này chỉ được hoàn tất khi các bên đó thỏa thuận xong về hợp đồng bảo
hiểm. Các điều khoản riêng: đối tượng bảo hiểm, người được bảo hiểm, thời hạn
bảo hiểm, phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm...
- Nhóm các điều khoản bổ sung: áp dụng chung cho mọi hợp đồng bảo
hiểm cùng loại nghiệp vụ được giao kết theo kiểu đồng loạt...
Ngược lại, điều khoản bảo hiểm không thể đứng riêng lẻ mà phải sắp xếp
trong một hệ thống trong hợp đồng bảo hiểm. Các điều khoản có mối quan hệ
liên kết với nhau và là cơ sở để thực hiện nhau. Một hợp đồng bảo hiểm hoàn
thiện là một hợp đồng bao hàm đầy đủ các loại điều khoản theo quy định của
pháp luật.
B. KẾT LUẬN.
Bảo hiểm là một lĩnh vực tài chính rất quan trọng đối với các quốc gia nói
chung và với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro,
bảo hiểm ngày nay đó trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu quả
cho nền kinh tế. Thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian qua đó cho
thấy sự lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều tiềm năng phát

triển trong tương lai. Điều khoản bảo hiểm sẽ là một phần làm nên thành công
của những hợp đồng bảo hiểm nói riêng và của nền kinh doanh bảo hiểm nói
chung.

12


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Huyền Trang, Những vấn đề lý luận và thực tiễn về điều khoản
loại trừ trỏch nhiệm bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm. 2009. Khúa luận tốt
nghiệp. Người hướng dẫn: TS Nguyễn Văn Tuyến;
2. Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
3. TS.Phạm Văn Tuyết,Bảo hiểm và kinh doanh bảo hiểm theo phỏp luật tại
Việt Nam. 2007. Nhà xuất bản Tư pháp;
4. www.baohiemacelife.vn;
5. ;
6. .

13


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Doanh nghiệp bảo hiểm:

DNBH

Bảo hiểm:

BH


Hợp đồng bảo hiểm:

HĐBH

Bảo hiểm nhân thọ:

BHNT

14



×