Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

NỘI DUNG HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA ASEAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.83 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
I.KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
(ASEAN) .............................................................................................................3
II.NỘI DUNG HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA ASEAN................3
1.Hợp tác kinh tế - thương mại trong khối ASEAN...............................................................3
1.1.Hợp tác trong lĩnh vực thương mại..............................................................................3
1.2. Hợp tác trong lĩnh vực đầu tư AIA..............................................................................4
1.3. Hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ....................................................................................4
1.4. Các chương trình hợp tác kinh tế khác........................................................................4
2.Hợp tác ngoài khối ASEAN................................................................................................4
3.Một số đánh giá về quá trình hợp tác kinh tế- thương mại của ASEAN.........................7

III. SỰ THAM GIA HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT NAM ASEAN.................................................................................................................7
1.Những kết quả đạt được......................................................................................................8
2.Sự tham gia hợp tác kinh tế - thương mại của Việt Nam – ASEAN...................................8

KẾT

LUẬN…………………………………………………………….

………..9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM
KHẢO….......................................................10

1


LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với EU, APEC… ASEAN là một trong những khu vực liên kết kinh tế
lớn nhất thế giới. Hiện nay ASEAN được đánh giá là một trong những khu vực
liên kết kinh tế hiệu quả và phát triển năng động nhất thế giới hiện nay. Ở các


nước ASEAN mỗi năm tiếp nhận hàng trăm tỷ USD đầu tư của thế giới vào khu
vực. Số vốn đầu được tăng nhanh chóng theo từng năm. Nếu năm 2005, tổng số
vốn đầu tư mà ASEAN thu hút được tăng 16,9% so với năm 2004, thì năm
2006, tổng số vốn đầu tư đã tăng 27,5%. Quan hệ kinh tế giữa các nước thành
viên ASEAN đang có sự liên kết ngày càng chặt chẽ hơn. Cơ cấu nền kinh tế
các nước đang có sự cơ cấu mạnh mẽ. Nhờ chính sách kinh tế “hướng ngoại”,
nền ngoại thương ASEAN đã phát triển nhanh chóng trong 20 năm qua, GPD
tăng gấp hơn 9 lần so với năm 1990 là 160 tỷ USD đạt 1.492 tỷ USD (năm
2009). Sau 4 thập kỷ tồn tại và phát triển, ASEAN đã lớn mạnh thành một trở
thành một thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp
cho hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các
nước và các tổ chức lớn trên thế giới.
ASEAN hợp tác trong ba lĩnh vực chính là an ninh – chính trị, kinh tế,
văn hóa – xã hội và đều đạt được những thành công vô cùng lớn. Trong đó, sự
hợp tác kinh tế - thương mại là một trong những nguyên nhân chính khiến cho
ASEAN có được sự phát triển "thần kỳ" trong thời gian qua. Vậy trong giai
đoạn hiện nay, thì sự hợp tác kinh tế - thương mại đó ra sao để cho ASEAN phát
triển hơn nữa trong thời gian tới? Và sự tham gia của Việt Nam vào sự hợp tác
đó như thế nào? Dưới đây là bài viết của nhóm về vấn đề "Phân tích nội dung
hợp tác kinh tế - thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay và sự
tham gia của Việt Nam".

2


I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG
NAM Á (ASEAN)
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày
08/08/1967 trên cơ sở bản Tuyên bố Băng cốc, ban đầu với 5 thành viên bao
gồm: Indonesia, Malaysia, Philippine, Singapo, Thái Lan. Hiện nay ASEAN có

10 thành viên với thêm sự gia nhập của Brunây (1985); Việt Nam (1995); Lào,
Mianma (1997) và Campuchia (1999). ASEAN được thành lập ra với mục tiêu
thúc đẩy sự hợp tác tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, thúc đẩy hòa bình và ổn
định khu vực, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, thịnh vượng và
trung lập. Sau một thời gian thành lập các thành viên ASEAN ngày càng hợp tác
chặt chẽ hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. ASEAN là một trong những khu
vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng
trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ
tăng trưởng trung bình của thế giới).
Năm 1992 hợp tác Kinh tế - thương mại ASEAN đi lên tầm cao mới với sự
thành lập khu vực mậu dịch thương mại tự do ASEAN (AFTA). Từ đó, sự hợp
tác trong khối ASEAN ngày một phát triển hơn nữa, trở thành đối tác quan
trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, đó là việc các quốc gia như Hàn Quốc,
Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ… luôn muốn được hợp tác lâu dài với ASEAN trên
nhiều lĩnh vực đặc biệt là về lĩnh vực kinh tế - thương mại.
Như vậy, sự ra đời của ASEAN tạo ra ra mối liên kết, hợp tác chặt chẽ
giữa các nước trong khu vực đặc biệt là trong lĩnh vực về kinh tế. Và tạo cơ sở
để xây dựng một khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định và phát triển.
II.
NỘI DUNG HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA ASEAN
1. Hợp tác kinh tế - thương mại trong khối ASEAN
1.1.Hợp tác trong lĩnh vực thương mại
Nội dung hợp tác chủ yếu và đặc biệt quan trọng của ASEAN là thúc đẩy tự
do hóa kinh tế - thương mại và liên kết kinh tế nội khối. Hợp tác lĩnh vực
thương mại của các thành viên ASEAN ngày càng chặt chẽ hơn và hiệu quả
hơn. Trước hết là hợp tác thương mại – AFTA. Chương trình hợp tác này thông
qua một hiệp định thương mại tự do xây dựng khu vực mậu dịch tự do (AFTA –
ASEAN Free Trade Area) giữa các nước trong khối ASEAN. Theo đó, các nước
sẽ thực hiện tiến trình giảm dần thuế quan, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế
quan đối với đa phần các nhóm hàng và hài hòa hóa thủ tục hải quan giữa các

nước, nhằm tăng cường hợp tác kinh tế sâu rộng và toàn diện, tạo điều kiện cho
sự phát triển chung của khu vực. Các quốc gia thỏa thuận, sẽ giảm thuế nhanh
đối với các mặt hàng có thuế xuất khẩu hiện tại trên 20% thì phải giảm xuống 05% vào năm 2003. Còn đối với mặt hàng có thuế xuất dưới 20% phải giảm thuế
xuống còn 0-5% vào năm 2000.(Lộ trình trên được áp dụng với các nước thành
viên sáng lập, còn đối với các thành viên còn lại chậm hơn, đối với Việt Nam là
2006, Lào và Myanmar năm 2008, Campuchia năm 2010). Ngoài ra các thành
3


viên ASEAN cũng thỏa thuận thống nhất chương trình hành động hải quan.
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Cham-am, Thái Lan đã kí kết Hiệp
định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) để thay cho Hiệp định CEPT.
Mục tiêu của Hiệp định này là đạt được sự lưu chuyển tự do của hàng hóa trong
ASEAN như một trong những công cụ chính đề xây dựng một thị trường và cơ
sở sản xuất thống nhất hướng tới hội nhập kinh tế sâu sắc hơn trong khu vực và
hướng tới xây dựng thành công AEC vào năm 2015.
1.2. Hợp tác trong lĩnh vực đầu tư AIA
Sự hợp tác của các quốc gia chặt chẽ của các thành viên ASEAN được thể
hiện thông qua hiệp định khung về đầu tư đầu từ ASEAN (AIA) được ký kết tại
AEM lần thứ 30 năm 1998. Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN nhằm
phối hợp hoạt động đầu tư nội khối, là khung pháp lý thúc đẩy đầu tư nước
ngoài ngoài khu vực, Hiệp định buộc các nền kinh tế các nước thành viên từng
bước xóa bỏ các rào cản với đầu tư, tự do hóa các luật lệ về chính sách đầu tư,
dành chế độ đối xử quốc gia và mở các ngành nghề đối với các nhà đầu tư
ASEAN vào năm 2010 hoặc tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. AIA thúc đẩy
sự di chuyển vốn, lao động có tay nghề, công nghệ giữa các nước thành viên.
Để thực hiện nội dung của hiệp định AIA, các nước ASEAN đã đề ra nhiều
chương trình hợp tác và thuận lợi hóa; chương trình xúc tiến và nhận thức;
chương trình tự do hóa....
1.3. Hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ

Dịch vụ cũng là một nội dung hợp tác rất quan trọng của các nước ASEAN
trong quan hệ kinh tế - thương mại, điều này được thể hiện qua việc các nước
ASEAN đã cùng nhau ký kết Hiệp định khung về hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ
(AFAS) năm 1995 tại Thái Lan1. Hiệp định này nhằm đẩy mạnh hợp tác giữa
các nước thành viên trong lĩnh vực dịch vụ, nhằm nâng cao hiệu quả cạnh tranh,
đa dạng hóa năng lục sản xuất, cung câp, phân phối dịch vụ trong nội bộ cũng
như ra ngoài khu vực. Ngoài ra hiệp định này còn xóa bỏ các hàng rào hạn chế
thương mại dịch vụ giữa các nước thành viên và thực hiện tự do hóa thương mại
dịch vụ bằng cách mở cửa rộng và thực hiện sâu sắc hơn những cam kết mà các
nước đã đưa ra tại WTO vì mục đích thực hiện khu vực mậu dịch trong
ASEAN.
1.4. Các chương trình hợp tác kinh tế khác
Ngoài các lĩnh vực trên thì các thành viên ASEAN còn hợp tác với nhau trên
nhiều lĩnh vực khác như: Chương trình hợp tác trong lĩnh vực năng lượng và
khoáng sản, tài chính và ngân hàng, nông nghiệp và công nghiệp..... Các nước
thành viên ASEAN đã có nhiều chương trình chặt chẽ và hiệu quả, nhằm xây
dựng Đông Nam Á trở thành một khu vực mậu dịch tự do.
2. Hợp tác ngoài khối ASEAN
Hợp tác ngoài khối ASEAN là sự giao lưu, cùng chung sức giúp đỡ lẫn nhau
1

/>4


giữa ASEAN và các quốc gia không thuộc khối này và là xu thế tất yếu của
trong quá trình phát triển của ASEAN. Từ khi thành lập đến nay, ASEAN đã có
những bước tiến không ngừng để khẳng định vị thế của mình trên trường quốc
tế. Với nội dung có hạn, nhóm tác giả sẽ phân tích rõ sự hợp tác của ASEAN +
3 và sự hợp tác giữa ASEAN và Hoa Kỳ
• ASEAN + 3

ASEAN+3 là sự hợp tác của khối ASEAN với ba nước thuộc khu vực Đông
Á: Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, là điểm nhấn nổi bật nhất trong việc
hợp tác của ASEAN với các đối tác ngoại khối.
Xuất phát từ vị trí giao thương vô cùng thuận lợi của các quốc gia Đông
Nam Á và sự gần gũi về địa lý, ASEAN và các quốc gia Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc nhanh chóng có sự hợp tác về nhiều mặt mà nổi trội là hợp tác về
kinh tế - thương mại. ASEAN+3 có quá trình hình thành từ khá lâu, từ tháng 4
năm 1997, ASEAN đề xuất tổ chức hội nghị cấp cao giữa ASEAN với Nhật
Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Tháng 12 năm 1997, hội nghị cấp cao lần thứ
nhất đã diễn ra ở Kuala Lumpur. Sau đó, đến năm 2000, tại hội nghị cấp cao lần
thứ tư tổ chức tại Singapore, ASEAN+3 chính thức được thể chế hóa.
Tại các hội nghị cấp cao và hội nghị bộ trưởng kinh tế của ASEAN+3, đã có
48 hiệp định trong 17 lĩnh vực được ký kết. Hội nghị Bộ trưởng Tài chính 10
nước ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN + 3) diễn
ra tại Thái Lan đã nhất trí kế hoạch kích cầu kinh tế và mở rộng quỹ cứu trợ
khẩn cấp “Sáng kiến Chiang Mai” (CMI) từ 80 tỉ USD lên 120 tỉ USD. Sự hợp
tác kinh tế - thương mại này đã thúc đẩy kinh tế của các quốc gia thành viên
phát triển vô cùng nhanh chóng. Tăng trưởng GDP của ASEAN+3 lên tới 4,6%
trong năm 2010 so với mức 0,9% của năm 20092.
Bên cạnh đó, ASEAN cũng tiến hành hợp tác kinh tế - thương mại với từng
quốc gia. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN. Sau 20 năm
thiết lập quan hệ đối thoại, kim ngạch thương mại ASEAN-Trung Quốc đã
tăng gần 29 lần, từ mức 7,9 tỷ USD năm 1991 lên 229,7 tỷ USD năm 2010, và
đạt 171,12 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2011, tăng 25% so với cùng kỳ năm
trước3. ASEAN cũng dần thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung
Quốc.
Mối quan hệ hợp tác giữa ASEAN – Hàn Quốc cũng đã có những thành tựu
vô cùng đáng kể. Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ hai mà ASEAN đàm
phán Hiệp định thương mại tự do (sau Trung Quốc). Hiệp định này quy định các
thỏa thuận thương mại hàng hóa ưu đãi giữa 10 Quốc gia Thành viên ASEAN

và Hàn Quốc, trong đó quan trọng nhất là cam kết cắt giảm và xóa bỏ thuế suất
2

/>3

5


đối với tất cả các dòng thuế trong một giai đoạn nhất định 4. Năm 2009, Hàn
Quốc là đối tác thương mại lớn thứ năm của ASEAN với tổng giá trị thương
mại lên tới 74,7 tỷ đô la Mỹ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Hàn Quốc vào
ASEAN là 1,4 tỷ đô la Mỹ. Với việc ký kết và thực hiện Hiệp định AKTIG,
quan hệ thương mại giữa ASEAN và Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng. Hàn
Quốc và ASEAN cũng thỏa thuận ký kết các hiệp định thương mại dịch vụ và
đầu tư.
• Hợp tác giữa ASEAN- Hoa Kỳ.
Sau một thời gian ra đời và phát triển, ASEAN dần trở thành một trung tâm
thương mại lớn ở Châu Á, với những thuận lợi vô cùng lớn trong giao thương
hàng hóa trên biển. Đây là nguyên nhân cho sự hợp tác kinh tế - thương mại của
các khu vực kinh tế lớn trên thế giới, trong đó có Hoa Kỳ.
Quan hệ đối thoại ASEAN-Hoa Kỳ được bắt đầu từ năm 1977. Trong những
giai đoạn đầu hai bên ưu tiên cho hàng hoá, mở cửa thị trường và thị trường
vốn, hoạt động của các tập đoàn xuyên quốc gia, chuyển giao công nghệ, phát
triển nguồn năng lượng, vận tải biển và an ninh lương thực. Thương mại
ASEAN-Hoa Kỳ đã tăng lên gần 4 lần từ 23 tỷ USD năm 1980 đến 80 tỷ USD
năm 1996. ASEAN là đối tác thương mại lớn thứ tư của Hoa Kỳ sau Canada,
Nhật và Mexico. Đối với Hoa Kỳ, ASEAN là một trong những thị trường xuất
khẩu tăng trưởng nhanh nhất. Trong những cuộc họp gần đây giữa ASEAN-Hoa
Kỳ, các vấn đề an ninh, chính trị, hợp tác phát triển và các vấn đề kinh tế đã
được đưa vào chương trình nghị sự. Các vấn đề được thảo luận gồm thương

mại, hàng hoá, hợp tác đầu tư, và liên minh tăng trưởng lẫn nhau (AMG).
Sáng kiến Doanh nghiệp ASEAN (EAI) được Tổng thống Hoa Kỳ công bố
trong cuộc gặp với một số nhà lãnh đạo ASEAN tham dự Hội nghị Thượng đỉnh
APEC tại Los Cabos. ASEAN đã hoan nghênh sáng kiến EAI và đề xuất ý
tưởng thành lập Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư ASEAN-Hoa Kỳ
(TIFA) sau khi các hiệp định khu vực mậu dịch tự do song phương giữa các
nước thành viên ASEAN và Hoa Kỳ được ký kết.
Năm 2005, lãnh đạo Nhà nước và Chính phủ các nước ASEAN và Hoa Kỳ
đã nhất trí thông qua Tuyên bố Tầm nhìn chung về Tăng cường Quan hệ Đối tác
ASEAN – Hoa Kỳ nhằm tạo cơ sở và khuôn khổ cho việc phát triển quan hệ
toàn diện và lâu dài giữa hai bên sau hơn 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại 5.
Tháng 08-2006, ASEAN và Hoa Kỳ đã ký kết hiệp định về thuận lợi hóa và đầu
tư. Năm 2008 Hoa Kỳ là nhà đầu tư lớn thứ 3 vào ASEAN với 5,3% tương ứng
là 3,2 tỉ USD. Thương mại hai chiều giữa ASEAN và Hoa Kỳ đã đạt trên 200 tỷ
USD.
4

/>
5

/>56NQu1c
6


3. Một số đánh giá về quá trình hợp tác kinh tế- thương mại của ASEAN

Kim ngạch nội khối ASEAN tăng gấp 2 lần trong 5 năm qua, đạt 1.710 tỉ
USD (năm 2008). Thương mại nội khối tăng đồng nghĩa với việc hậu cần nhập
khẩu và hậu cần xuất khẩu tăng, các dịch vụ hậu cần và giao thông vận tải sẽ
ngày càng sinh ra nhiều lợi nhuận. Quá trình hợp tác đã mang lại những kết quả

đáng khích lệ đối với các quốc gia trong ASEAN. Những dự án của các nước
ASEAN có mặt trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế như khai thác dầu khí, công
nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, nông lâm thủy sản,
khách sạn du lịch, ngân hàng, tài chính, xây dựng khu đô thị mới, văn phòng và
căn hộ cho thuê, khu công nghiệp - khu chế xuất. Hiện có khoảng 300 dự án của
các nước ASEAN đã đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu hút hàng vạn
lao động, trong đó những dự án phát triển nông nghiệp và công nghiệp thực
phẩm thu được lợi nhuận đáng kể
Kết quả hợp tác kinh tế trong ASEAN tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn
nhưng chưa thực sự tạo ra bước phát triển đột biến trong quan hệ kinh tế thương
mại. Thị phần thương mại nội khối mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị
thương mại của cả khối. Tỷ lệ hàng hóa ASEAN tham gia thị trường toàn cầu
chỉ ở mức 6%, là mức thấp so với quy mô GDP của khối. Từng nền kinh tế
ASEAN chưa thực sự là những nền kinh tế mạnh và đang ở trong những giai
đoạn phát triển kinh tế rất xa nhau. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa tiến trình hội
nhập kinh tế toàn khối trong vòng 3 - 5 năm tới để cạnh tranh với các đối tác
đang trỗi dậy.
Hợp tác nội khối ASEAN đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù
thương mại nội khối ASEAN đã duy trì ở mức ổn định 25% tổng khối lượng
thương mại toàn khu vực, song nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU
(hơn 70%), thì rõ ràng mức hội nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao.
Điều quan trọng nữa là mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển
ASEAN 6 (Bruney, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore)
với ASEAN 4 (Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar) khá cao - được coi là yếu
tố cản trở chính của sự liên kết kinh tế6.
Mặc dù vậy, với những tiềm lực sẵn có và khả năng của các quốc gia, trong
tương lai, mối quan hệ giữa ASEAN và các nước này sẽ tiếp tục được đẩy mạnh
và có thêm nhiều thành công khác
III. SỰ THAM GIA HỢP TÁC KINH TẾ - THƯƠNG MẠI CỦA VIỆT
NAM - ASEAN.

Sau 9 năm kể từ ngày 28 tháng 7 năm 1995, ngày Việt Nam chính thức gia
nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), quan hệ kinh tế giữa Việt Nam
6

/>7


với các nước thành viên khác trong Hiệp hội không ngừng phát triển sâu rộng,
góp phần thúc đẩy tiến trình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
1. Những kết quả đạt được
ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nước ta và là một
trong những động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng
trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển
năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có
mức tăng trưởng cao. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt
Nam, trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Kim ngạch xuất khẩu của
Việt Nam sang ASEAN tăng từ 2,9 tỷ USD năm 2003 lên tới 8,9 tỷ USD năm
2009. Cơ cấu xuất khẩu của nước ta sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều
hướng tích cực, nâng cấp cả về chất lượng và giá trị. Trong quan hệ về đầu tư
trực tiếp nước ngoài, ASEAN là nguồn cung ứng FDI lớn nhất với 60 tỷ USD,
đóng góp khoảng 56% tổng giá trị vốn FDI đầu tư vào Việt Nam.
Đi đôi với quan hệ hợp tác đầu tư, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các
nước ASEAN cũng không ngừng phát triển. Thị trường ASEAN hiện chiếm
khoảng 20% kim ngạch xuất khẩu và khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu của
Việt Nam, trong đó Singapo, Philipin, Thái Lan và Inđônêxia là những khách
hàng lớn. So với năm 1994, năm trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của ASEAN, kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN hiện
nay đã gấp hàng chục lần7.
Không chỉ đạt được những kết quả hợp tác kinh tế đang ghi nhận từ các quốc
gia thành viên ASEAN, nền kinh tế Việt Nam cũng đã đạt được những bước tiến

thông qua sự tác động của Khu vực. Ví dụ: theo đánh giá chung, Khu vực
thương mại tự do ASEAN-Hàn Quốc đã đem lại những lợi ích đáng kể cho các
nền kinh tế ASEAN, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt
Nam có thể khai thác hạn ngạch thuế quan với thuỷ sản, mặt hàng xuất khẩu có
kim ngạch hàng đầu của ta vào Hàn Quốc. Bên cạnh đó, thuế suất mà Hàn Quốc
dành cho các sản phẩm mà ta có thế mạnh như dệt may, giày da, sản phẩm chế
biến cũng rất thấp, góp phần tạo cơ hội xuất khẩu quan trọng cho các mặt hàng
này. Với những lợi thế như trên, cho tới nay AKFTA đã tác động rất tích cực tới
quan hệ thương mại ASEAN - Hàn Quốc. Có thể nói đây là Khu vực thương
mại tự do đem lại lợi ích lớn nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam xét trên khía
cạnh tận dụng các ưu đãi của Hiệp định.
2. Sự tham gia hợp tác kinh tế - thương mại của Việt Nam – ASEAN
Hợp tác kinh tế - thương mại của Việt Nam thể hiện chủ yếu ở việc tham gia
Cộng đồng kinh tế ASEAN AEC và khu vực mậu dịch AFTA.
Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia xây dựng
AEC. Đến năm 2010, nước ta đã giảm thuế nhập khẩu cho 10054 dòng thuế
xuống mức 0-5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế,
7

Con số và Sự kiện, Số 8/2004
8


trong đó có 5488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%. Nước ta cũng tham gia hợp tác
một cách toàn diện cùng các nước ASEAN khác từ các lĩnh vực truyền thống
như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn
thông, đến các lĩnh vực mới như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh,
bảo vệ người tiêu dùng. Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước trong khu
vực nhưng Việt Nam là một trong 4 thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt
nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC.

Ngoài việc phải tiến hành xóa bỏ hàng rào thuế quan, Việt Nam còn đồng
thời thực hiện xóa bỏ rào cản phi thuế quan vào năm 2015. Thực hiện các sáng
kiến về tạo thuận lợi cho thương mại; thúc đẩy hợp tác hải quan nhằm đơn giản
hóa thủ tục hải quan; thiết lập cơ chế hải quan một cửa trong ASEAN vào năm
2012; đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa tiêu chuẩn và phù hợp chính sách với
các thành viên khác của ASEAN
Đặc biệt, trong năm 2010, Việt Nam đã đảm nhiệm thành công vai trò Chủ
tịch ASEAN. Chúng ta không chỉ tham gia với tức cách là một quốc gia thành
viên mà còn tham gia dẫn dắt tiến trình hợp tác chung của ASEAN. Thực hiện
AEC vẫn được Việt Nam lựa chọn là một nội dung quan trọng nhất trong
Chương trình nghị sự của ASEAN trong năm 2010. Đặc biệt, ta đã cùng với các
thành viên ASEAN đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sớm khắc phục tình trạng chậm
thực hiện của khả nhiều hiệp định quan trọng liên quan đến AEC.
Hiện nay Việt Nam đang tham gia rất tích cực vào sự hợp tác kinh tếthương mại của ASEAN trên hầu hết các lĩnh vực hợp tác của các nước thành
viên nhằm xây dựng một khu mậu dịch tự do ASEAN. Trong điều kiện sự chênh
lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa Việt Nam với hầu hết các nước thành
viên ASEAN còn lớn như hiện nay, những nỗ lực thực hiện các cam kết trong
AFTA được các nước ASEAN đánh giá cao.
3. Một số khó khăn và hạn chế trong quá trình hợp tác kinh tế thương mại giữa Việt Nam và ASEAN
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Việt Nam vẫn còn khá nhiều khó khăn
cũng như vướng mắc trong quá trình hợp tác. Tuy xuất khẩu vào ASEAN tăng
nhưng lại phụ thuộc nhiều vào giá lương thực và dầu mỏ là các mặt hàng Việt
Nam xuất khẩu lớn vào ASEAN và nhiều nước không đưa vào lộ trình cắt giảm,
Hiệp định CEPT/AFTA không tác động đến các mặt hàng này.
Trong 5 năm từ 2003-2008 xuất khẩu tăng bình quân 28,4%. Nhập khẩu từ
ASEAN cũng tăng và phụ thuộc vào giá sản phẩm dầu, 5 năm tăng bình quân
27,2%. Nếu trừ xuất khẩu lương thực và dầu thô thì xuất khẩu tăng chậm hơn
nhập khẩu. Điêù đó chứng tỏ sức cạnh tranh về hàng hoá của Việt Nam thấp
thua các nước ASEAN. Tỷ lệ nhập siêu bình quân là 27%, cao hơn rất nhiều so
với mức nhập siêu chung của Việt Nam trên tất cả các thị trường.

Việt Nam chưa tận dụng được chế độ ưu đãi về thuế trong ASEAN. tỷ lệ
hàng hoá lấy giấy chứng nhận xuất xứ để hưởng chế độ ưu đãi còn thấp. Chỉ
9


khoảng 10% kim ngạch xuất khẩu có giấy chứng nhận xuất xứ để hưởng chế độ
ưu đãi
Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập
khẩu giảm. Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan
thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc
các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh khốc liệt trên
thị trường khu vực: cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển, nhưng đồng thời có
thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt
ngành, dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các
doanh nghiệp Việt Nam.
KẾT LUẬN
Như vậy, từ khi ra đời cho tới nay hợp tác kinh tế - thương mại giữa các
thành viên của ASEAN cũng như việc hợp tác của ASEAN với các đối tác bên
ngoài ngày càng phát triển tòa diện hơn trên tất cả các lĩnh vực thương mai, dịch
vụ và đầu tư... Trong giai đoạn hiện nay thì việc hợp tác kinh tế- thương mại
này ngày càng chặt chẽ hơn, sâu rộng và hiệu quả hơn. Việt nam đang tham gia
rất tích cực vào quá trình hợp tác của ASEAN và đạt được nhiều thành công tốt
đẹp. Việc ASEAN đang phát triển nhanh, mạnh và vững chắc về sự hợp tác kinh
tế - thương mại đã làm cho khu vực Đông Nam Á dần trở thành nơi có sự phát
triển kinh tế năng động bậc nhất thế giới nâng cao vị thế của ASEAN trên
trường quốc tế.
Do kiến thức còn hạn chế nên trong quá trình tìm hiểu và phân tích còn
nhiều điểm thiếu sót, mong các thầy cô quan tâm chỉ bảo.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!


10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật quốc tế; Trường đại học Luật Hà Nội; Nxb CAND; Hà
Nội 2004.
2. Giáo trình Kinh tế quốc tế (chương trình cơ sở); GS,TS Đỗ Đức Bình,
PGS.TS Nguyễn Thường Lạng; Trường Đại học Kinh tế quốc dân; NXB Đại
học Kinh tế quốc dân; Hà Nội 2008
3. Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế; Trường đại học Kinh tế quốc dân;
Nxb Lao động
4. Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC); Nguyễn Thu Trang; Khóa luận tốt
nghiệp trường đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2011.
5. Tự do hóa thương mại trong khuôn khổ Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á- ASEAN; Lại Ngọc Thạch, khóa luận tốt nghiệp trường đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội,2011.
6. Các trang web:
/> />
/> />859/view#5rzMk56NQu1c
/> />4-04-22.2018/2004/2004_00045/MItem.2004-12-07.0940/MArticle.2004-1207.1146/marticle_view

11



×