Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

liệu BLDS 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng để định đoạt tài sản chung của họ hay không

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.77 KB, 24 trang )

Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

MỤC LỤC: ………………………………………………………………………1
MỞ ĐẦU:..........................................................................................................2
NỘI DUNG: ……………………………………………………………………..3
I.Lý luận chung:…………………………………………………………………3
1.Khái niệm di chúc và người thừa kế theo di chúc:………………………….3
1.1 Di chúc là gì?..............................................................................................3
1.2. Người lập di chúc:…………………………………………………………..4
II. Di chúc chung của vợ và chồng:…………………………………………….5
1. Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật
hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng…………………………………...5
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề……………………………………………………….5
1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân
trong việc lập di chúc…………………………………………………………….7
1.3. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng………………..8
1.4. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng……………………………10
1.5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung………………..13
1.6. Hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng……………………………...18
1.7. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung…………………………..19
III. Vấn đề còn vướng mắc và giải pháp:……………………………………..20
1. Có tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng?.................................20
2. Giải pháp:……………………………………………………………………..20
Kết luận:…………………………………………………………………………23
Danh mục tài liệu tham khảo:………………………………………………….24

1


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga


MSSV: 361907

MỞ BÀI:
Truyền thống văn hóa trọng gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa pháp lý
của Việt Nam. Điển hình như pháp luật dân sự cũng đã có nhiều điều luật phản ánh
sự gắn kết quyền và nghĩa vụ chặt chẽ của vợ chồng trong đời sống gia đình, thể
hiện rõ nét qua quyền lập di chúc chung để duy trì khối tài sản chung hợp nhất cho
con cháu của vợ chồng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định thì văn hóa
trọng tình này lại làm giảm hoặc thậm chí mất đi tính hợp lý mà pháp luật nên có.
Đó cũng là lí do em chọn đề tài “ Di chúc chung của vợi và chồng” cho bài tập lớn
học kì của mình. Có khá nhiều luật gia ủng hộ cho quyền lập di chúc chung của
vợ, chồng để định đoạt tài sản chung, thay vì mỗi bên chỉ được lập di chúc cá nhân.
Vấn đề tưởng chừng như đơn giản và không có gì phải bàn cãi, vì quan điểm ấy
không chỉ được bênh vực bởi luân lý mà còn được thừa nhận cả về mặt pháp lý.
Nhưng qua công tác nghiên cứu, cũng như qua tiếp cận với thực tiễn pháp lý về di
chúc chung của vợ, chồng đã cho thấy, đây là một vấn đề khá phức tạp mà luật
hiện hành chưa qui định đầy đủ, rõ ràng. Các thiếu sót, bất cập của luật, đã dẫn tới
hậu quả là, làm cho vấn đề này càng trở nên rắc rối thêm, thậm chí còn tạo ra nhiều
mâu thuẫn so với các qui định khác có liên quan. Từ đó, đòi hỏi cần phải lật lại vấn
đề: liệu BLDS 2005 có nên tiếp tục thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ,
chồng để định đoạt tài sản chung của họ hay không?

2


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

NỘI DUNG:
I.Lý luận chung:

1.Khái niệm di chúc và người thừa kế theo di chúc:
1.1 Di chúc là gì?
Di chúc đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại, với đủ các hình thức khác
nhau. Ngày nay mỗi nhà nước mỗi hệ thống pháp luật trên Thế Giới lại có những
quy định khác biệt về cùng một quan hệ pháp luật dân sự là hình thức của di chúc.
Sự đa dạng của hình thức di chúc bắt nguồn từ sự phong phú về nhiều vẻ của cuộc
sống con người, từ truyền thống lịch sử của mỗi quốc gia hay từ đặc điểm riêng
biệt của mỗi xã hội
Trong bộ luật dân sự Pháp ( hay còn gọi là bộ luật của Napoleon) quy định rất
chi tiết hình thức của di chúc, từ Điều 967 đến Điều 1001. Hình thức di chúc gồm
3 dạng : di chúc viết tay, công chứng thư, và bí mật di chúc (Điều 969)
Bộ luật Dân sự Nhật Bản thì quy định về hình thức di chúc từ các Đ967 đến
Đ984. Di chúc có các hình thức là viết tay, công chứng, hoặc dưới một dạng tài
liệu bí mật trừ trong một số trường hợp đặc biệt thì cho phép lập di chúc khác
( Đ967).
Theo BLDS Việt Nam thì quy định hình thức di chúc từ DD649 đến Đ661
những nhà làm luật Việt Nam quy định 2 hình thức di chúc là : Di chúc bằng văn
bản( chúc thư) và di chúc bằn miệng ( chúc ngôn).
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản là di sản của mình
cho người khác sau khi chết. Theo quy định này di chúc phải có các yếu tố sau:


Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải của bất cứ chủ thể nào
khác
3


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907





Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản của mình cho người khác
Chỉ có hiệu lực khi người đó chết
Di chúc là hành vi pháp lí đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc
phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và
các điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy, một người muốn
định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải tuân thủ các quy định của
pháp luật về thừa kế theo di chúc

Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho nguwoif
khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thực hiện trong di
chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế ( cá
nhân, tổ chức,…) và phân định tài sản, uyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ
tài sản.
1.2. Người lập di chúc:
Theo quy định của pháp luật tại Đ647 BLDS, người có thể lập di chúc là:
Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó mắc bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không nhận thức được và làm chủ được hành vi
của mình.
Người đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Vì vậy không
phân biệt tôn giáo, thành phần, dân tộc….Người từ đủ 18 tuổi có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế.
Tuy nhiên, người từ đủ 15 tuổi dến chưa đủ 18 tuổi ( có năng lực hành vi 1
phần) có thể lập di chúc với điều kiện lập thành văn bản và phải được cha mẹ hoặc
người giám hộ đồng ý. Sự đồng ý ở đây được hiểu là đồng ý cho họ lập di chúc còn
nội dung di chúc do họ tự định đoạt.
II. Di chúc chung của vợ và chồng:
4



Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

1. Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật
hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề
Xem xét trong Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có qui định
về vấn đề này. Đối chiếu với Luật La Mã cũng như Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp
thì thấy họ cũng không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ – chồng ( Điều
968 BLDS của Pháp: “Hai hay nhiều người không được lập di chúc chung để lại di
sản cho người thứ ba hay để lại di sản cho nhau”, Bộ luật Dân sự Pháp, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội. 2005, tr. 611).
Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ - chồng lại được thừa nhận trong tục lệ
của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các
xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc thông
dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ biến thời
bấy giờ ( Vũ Văn Mẫu, Les succesions testamentaires en droit vietnmaien (Thừa kế
theo di chúc trong luật Việt Nam), Luận án Paris, 1948, tr. 67, dẫn theo Nguyễn
Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật Dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ. TP
Hồ Chí Minh, 1999, tr.167). Quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất
coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết
trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung
để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết,
yêu thương giữa vợ - chồng.
Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính luân lý
đó. Nghiên cứu các Bộ Dân luật của các chế độ trước, thì thấy các Bộ Dân luật Bắc
và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng ( Điều
313 Dân luật Trung kỳ (tương tự, vấn đề cũng được qui định tại Điều 321 Dân luật

5


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

Bắc): “Người cha được lập chúc thư để xử trí tài sản chung của gia đình tuỳ theo ý
mình, nhưng phải có vợ chính đồng ý… Trừ tài sản của vợ chính ra thì người
chồng được làm chúc thư để xử trí tài sản của gia đình tùy theo ý mình, không có
vợ chính thuận tình cũng được”, Nhà in Viễn Đệ, 1947, tr. 94). Bộ Dân luật Sài
Gòn 1972 cũng cho phép vợ - chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản
chung ( Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn 1972: “Chúc thư chỉ có thể do một người
lập ra; hai người không thể cùng chung một chúc thư lợi tha hay lưỡng tương đắc
lợi. Đặc biệt, trong trường hợp chúc thư do hai vợ chồng cùng làm để sử dụng tài
sản chung, chúc thư được thi hành riêng về phần di sản của người chết trước,
người sống vẫn có quyền huỷ bãi hay thay đổi chúc thư về phần mình”. Nxb. Thần
Chung, Sài Gòn. 1973, tr. 150)
Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di
chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/71981 đã từng nhắc đến di chúc
chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990 tuy không trực tiếp qui định về di
chúc chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc
chung ( Điều 23 khoản 1 Pháp lệnh Thừa kế 1990: “Trong trường hợp di chúc lập
chung, mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần tài sản
của người chết trước có hiệu lực”) Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng được qui
định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005 (các Điều 663, Điều 664, Điều 668
BLDS 2005). Các qui định này trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với qui
định của BLDS 1995 (các Điều 667, Điều 671... BLDS 1995). Mặc dù vậy, việc
qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, bất cập
và chưa phù hợp với thực tế.
Có thể nói, pháp luật cận đại và luật hiện hành Việt Nam thừa nhận quyền lập

di chúc chung của vợ - chồng là thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn
kết trong gia đình, nhưng như vậy sẽ gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về
6


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

di chúc làm nảy sinh nhiều bất cập không thể giải quyết được, thậm chí, còn làm
phá vỡ tính hệ thống của chế định quyền thừa kế.
1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân
trong việc lập di chúc
Điều 646 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý
chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.
Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi chủ
thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề pháp lý
liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được tiến hành sau
khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 qui định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo
ra sự mâu thuẫn so với Điều 646 nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung
của vợ chồng sẽ dẫn đến các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ
thuật pháp lý. Ví dụ như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc
sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung...
Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia
đình, thì việc qui định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần thiết. Cũng cần
phải nói thêm là, trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của các chế độ trước, việc
thừa nhận quyền lập di chúc chung không chỉ để củng cố tình thương yêu đoàn kết
trong gia đình, mà việc lập di chúc chung, trước hết, là nhằm tạo ra giải pháp
phòng ngừa, tạo ra sự chế ước đối với người chủ gia đình, theo quan điểm phụ hệ,
để bảo vệ quyền thừa kế của những người thân thích khác trong gia đình (Xem

Nguyễn Ngọc Điện, sđd, tr. 172).
.
1.3. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng
7


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

- Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Điều 663 BLDS 2005 qui định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định
đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là để định
đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Sẽ đơn giản, nếu vợ, chồng chỉ có tài sản chung.
Nhưng sẽ phức tạp, nếu vợ, chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng, mà
họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong cùng một di chúc. Trong trường
hợp đó, sẽ có nhiều vấn đề pháp lý đặt ra rất khó xử lý, như: vấn đề hiệu lực của di
chúc chung sẽ được xác định như thế nào; phần di chúc định đoạt tài sản riêng có
phải là một di chúc riêng; sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc
liên quan tới tài sản riêng của họ có hiệu lực hay chưa... Đây là những vấn đề pháp
lý phức tạp mà BLDS 2005 chưa tiên liệu được.
Như vậy, nếu qui định trên được thực hiện đúng, thì vợ, chồng không thể dùng
di chúc chung để định đoạt tài sản riêng của mình. Điều này sẽ dẫn tới hai hệ quả
là:
* Khi vợ, chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó chỉ được định đoạt tài sản
chung. Nếu vợ, chồng muốn định đoạt phần tài sản riêng, thì họ phải lập một tờ di
chúc khác. Sẽ phức tạp nếu một người có nhiều sản nghiệp khác nhau (tài sản riêng
hoặc tài sản với vợ hay chồng hợp pháp khác). Điều này sẽ gây ra trở ngại tâm lý
không nhỏ khi người ta muốn lập di chúc chung, vì như thế sẽ tạo ra thêm nhiều
khó khăn cho các bên liên quan, như phải lập nhiều tờ di chúc khác nhau, thay vì
chỉ cần duy nhất một tờ di chúc.

* Nếu trong di chúc chung vợ - chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản riêng
thì di chúc đó sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Điều này dẫn tới
việc, chỉ dựa vào một tờ di chúc, người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên cùng sản
nghiệp của một người. Từ đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác, như việc xác định
8


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị; sự ra đời của những người mới nằm
trong hàng thừa kế, sau khi một bên vợ hoặc chồng chết mà di chúc chung vẫn
chưa phát sinh hiệu lực; cơ sở để xác định giá trị một suất di sản bắt buộc... là
những vấn đề pháp lý không dễ dàng giải quyết.
- Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng
BLDS 2005 không qui định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi lập di chúc
chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như việc hai bên
lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực hay không? Di chúc vốn
là một loại giao dịch pháp lý đơn phương và không mang tính chất đền bù. Việc
cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau, đã biến loại giao
dịch này thành giao dịch pháp lý song phương và mang tính chất có đền bù, làm
thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Pháp luật của các chế độ trước tuy có thừa
nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, nhưng luôn cấm vợ, chồng lập di chúc
chung để thừa kế lẫn nhau. Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn qui định: “... hai người
không thể cùng làm chung một chúc thư... lưỡng tương đắc lợi” (tức thừa kế lẫn
nhau - Tác giả chú thích). Việc pháp luật hiện hành không cấm đoán vợ, chồng lập
di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng những sẽ không đạt được mục đích tăng
cường tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, mà có thể còn gây nên nhiều hệ
luỵ không thể lường trước được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc giả
tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật; hoặc làm gia tăng nguy cơ khiến các

bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các bên thực
hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau.
- Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được qui định rõ tại Điều
699 BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ
9


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao
động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không
được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp
luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà
không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không
dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì những người đó có được chia
thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng qui định tại Điều 699 để xin được
hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào. Ví dụ: ông A và bà B cùng lập di
chúc chung để lại toàn bộ tài sản cho người con cả là C. Di chúc chung của ông A
và bà B đã xâm phạm tới quyền được hưởng di sản bắt buộc của các con chưa
thành niên khác của ông A và bà B, cũng như của cha, mẹ ông A và cha, mẹ bà B.
Vậy, di chúc này có bị vô hiệu một phần không, những người thừa kế bắt buộc này
có được khởi kiện đòi chia thừa kế của A, B hay không... là những vấn đề chưa
được BLDS 2005 làm rõ, nên chắc chắn sẽ dẫn tới nhiều vướng mắc trong việc
thực thi pháp luật. Không loại trừ trường hợp người vợ hay người chồng còn sống,
vì lý do nào đó, đã khởi kiện đòi hưởng thừa kế bắt buộc từ phần di sản của người
kia trong di chúc chung thì cũng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết.
Ví dụ: phần tài sản của người còn sống trong tài sản chung của vợ, chồng bị
tịch thu hoặc bị toà án phân chia để trả nợ riêng của người đó, làm cho một phần di

chúc chung liên quan tới tài sản của họ vô hiệu, thì họ có được quyền xin hưởng
thừa kế bắt buộc từ phần di sản còn lại của người chết trước trong di chúc chung
được không?
1.4. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng
Di chúc cá nhân được lập theo 1 trong 2 hình thức là di miệng và di chúc viết,
theo những thủ tục rất chặt chẽ. Dường như ý chí của nhà làm luật muốn di chúc
chung sẽ được lập theo những hình thức tương tự như di chúc cá nhân. Nhưng thực
10


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

tiễn cho thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải lúc nào
cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung của vợ, chồng.
- Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng?
Theo Điều 651, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá nhân: “Trong trường
hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác
mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Do đó, vợ chồng
không thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng, vì các lý do:
Một là, muốn lập di chúc chung, vợ - chồng phải có sự bàn bạc và thống nhất ý chí
chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết đe dọa thì điều
này là hạn hữu. Khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, thì việc lập di chúc
chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá nhân của mỗi người.
Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý
chí chủ quan của mình mà không có sự thống nhất ý chí với người kia.
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng, không cho
phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát biểu. Vậy,
sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng người trình bày
riêng ý nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá nhân; còn nếu một người đại

diện trình bày ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ, thì cũng giống như
đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực
tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt do cái chết đe dọa cả hai, để một người
phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.
Ba là, sau 3 tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một người còn
sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan tới người
còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì theo Điều 651 khoản 1: “ Sau 3
tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng
11


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”. Trong khi đó, di chúc chung chỉ có
hiệu lực khi cả hai người đều đã chết.
Bốn là, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, chết của cả 2 người, việc tiếp
nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không chính xác.
Ý nguyện của người chết lại không được thể hiện ra thành một dạng vật chất định
hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa đổi mà lại không có chứng
cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận của vợ, chồng. Việc chứng minh được tính chất
đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng trong trường hợp này sẽ không bảo
đảm được tối đa tính trung thực, khách quan.
Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở nên
phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của chính
người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
- Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc viết tay mà không có người làm chứng?
Điều 655 BLDS qui định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “Người lập di
chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Về mặt lôgic, hai người không thể
cùng một lúc viết cùng một nội dung trên cùng một tờ di chúc. Vậy phải từng

người viết xong, rồi sau đó, từng người ký tên vào bản di chúc đó. Vấn đề đặt ra là
di chúc do một người viết và người kia chỉ ký tên hoặc điểm chỉ thì có hiệu lực
pháp luật không? Hoặc mỗi người viết một đoạn để nói về những quyết định của
mình về từng vấn đề khác nhau, rồi sau đó, cùng ký tên vào di chúc thì có được
không? Chúng tôi cho rằng, nếu chỉ một người viết toàn bộ di chúc, rồi cả hai cùng
ký vào bản di chúc thì không đảm bảo thủ tục lập di chúc viết tay, dễ dẫn đến sự
ngụy tạo chữ ký để giả mạo di chúc chung, mà không có cơ sở để giám định bút
tích của người lập di chúc. Nhưng việc cả hai cùng nhau và thay nhau viết bằng
chữ viết của chính mình để định đoạt tài sản chung, thì không thể thực hiện được
12


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

trên thực tế, vì như vậy, tức là hai người phải cùng viết giống nhau về cùng một nội
dung, thành 2 đoạn khác nhau trên tờ di chúc, mà như vậy thì giống với di chúc cá
nhân nhiều hơn. Một bên cũng không thể “uỷ quyền” cho người kia thay mặt để
viết ra toàn bộ di chúc, vì trái với nguyên tắc di chúc viết tay phải được viết trực
tiếp bằng chữ viết tay. Mặt khác, làm như vậy giống như là viết hộ di chúc, nên sẽ
phải tiến hành theo một thủ tục khác, trước mặt ít nhất hai người đủ điều kiện làm
chứng để chứng kiến việc lập di chúc chung.
Tóm lại, pháp luật cần phải qui định hình thức riêng cho di chúc chung của vợ
chồng, chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. BLDS 2005 chưa
qui định cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục. Tốt nhất, chỉ nên
thừa nhận vợ, chồng được lập di chúc bằng hình thức văn bản có người làm chứng
hoặc văn bản có công chứng, chứng thực.
1.5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung
Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng phải dựa
trên nguyên tắc nhất trí. Khoản 2 Điều 664 BLDS 2005 qui định: “Khi vợ hoặc

chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự
đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ
sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Điều này tạo ra sự thống nhất
cao cho việc lập di chúc chung cũng như việc sửa đổi, bổ sung... di chúc chung.
Tuy vậy, nếu một bên muốn thay đổi quyết định trong di chúc chung mà bên kia
không đồng ý, thì các bên cũng không được quyền thay đổi. Qui định này tạo ra
những vấn đề bất cập sau:
- Thứ nhất, qui định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cũng như vi phạm nguyên tắc tự nguyện
trong việc lập di chúc. Nếu một bên vợ hoặc chồng, vì lý do nào đó mà bắt buộc
13


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung đã lập, nhưng không được sự
đồng ý của người kia, thì việc sửa đổi, bổ sung đó sẽ không được luật chấp nhận.
Thiết nghĩ, qui định này đã xâm phạm quyền tự do định đoạt của người có tài sản
và xâm phạm tới sự tự nguyện trong việc lập di chúc, thậm chí, xâm phạm tới lợi
ích chính đáng của cá nhân khi cấm họ đưa ra những quyết định cá nhân, nhằm bảo
đảm lợi ích cho mình. Điều đó cũng không công bằng đối với bên muốn được sửa
đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung.
- Thứ hai, qui định này cũng tỏ ra thiếu nhất quán vì không cho phép một bên tự ý
sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ - chồng còn sống, nhưng lại cho phép một
bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản
của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Sự thiếu nhất quán trong qui định
trên không thể giải thích được, vì thực chất, cả hai trường hợp này đều giống nhau
là khi một bên sửa đổi, bổ sung di chúc chung đều không có sự đồng thuận của
người kia. Trong khi việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ, chồng cần phải

bảo đảm nguyên tắc nhất trí giữa vợ, chồng với tư cách là các đồng sở hữu chủ của
tài sản chung. Do đó, nếu đã cho phép một bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc
chung khi một bên đã chết, thì cũng cần phải công nhận quyền của một bên được
tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan đến tài sản
của mình, khi không tìm thấy sự đồng thuận của bên kia.
- Thứ ba, qui định trên cũng chưa dự liệu các khả năng khác khiến di chúc phải bị
sửa đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ, chồng do vợ, chồng
đã mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc chồng còn sống,
nhưng đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị mất trí,
bị bệnh lú lẫn tuổi già... khiến cho họ không còn thể hiện được ý chí cá nhân được
nữa. Điều này chưa được qui định rõ ràng trong luật, nên dễ dẫn đến sự lúng túng

14


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

và thiếu nhất quán trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề
vừa nêu.
Suy cho cùng, lập di chúc chung là sự thể hiện tập trung của nguyên tắc củng cố
tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình. Nhưng việc níu kéo các bên vợ chồng,
buộc họ phải nhất trí với nhau, trong hoàn cảnh mâu thuẫn giữa họ không thể dung
hoà được nữa, thì việc lập di chúc chung hay cố giữ lại di chúc chung cũng không
phải là cách hữu hiệu khiến cho họ trở nên thương yêu, đoàn kết với nhau hơn, mà
chưa biết chừng, đó còn là tiền đề làm cho mâu thuẫn giữa các bên càng trở nên
trầm trọng thêm, nhất là khi ý nguyện tự do của một bên (muốn sửa đổi, bổ sung di
chúc chung) bị bên kia khước từ.
1.6. Hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều tranh cãi

giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo BLDS 2005. Sở dĩ có
sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời
điểm mở thừa kế ( “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết”
(khoản 1 Điều 634 BLDS 2005). Thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng: là
thời điểm làm phát sinh quyền thừa kế, là mốc tính thời hiệu khởi kiện, là thời
điểm để xác định giá trị di sản, xác định phạm vi những người thừa kế của người
chết).

Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ
thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp
này đã đơn giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc
chung một lần), so với giải pháp của BLDS 1995( Điều 671 BLDS 1995: “Trong
trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần
15


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu
lực…”. Cũng cần nói thêm là giải pháp này không thoả đáng, vì như thế khác nào
thực thi hai di chúc khác nhau của hai cá nhân, làm cho việc phân chia di sản trong
khối tài sản chung của vợ, chồng, trên thực tế, trở nên rắc rối và phức tạp).
Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại thời điểm
người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:
- Thứ nhất, phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết
trước
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng
của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có
nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu

lực dựa vào “cái chết sau cùng”, thì sẽ có ít nhất hai lần “chia thừa kế” đối với di
sản của người vợ hay người chồng chết trước. Lần thứ nhất là chia thừa kế đối với
phần di sản là tài sản riêng hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di
chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế. Lần thứ hai là chia thừa kế phần di sản
định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực. Người
thừa kế của bên chết trước sẽ phải mất hai lần yêu cầu phân chia di sản và rất có
thể, toà án sẽ phải hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên di
sản của cùng một người. Điều này không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của
người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn
cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế (Như việc xác
định di sản của người chết, xác định người thừa kế của người chết trước và việc
thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu người chết có để lại món nợ đối với người thứ ba) ,
thậm chí, có thể còn vi phạm nguyên tắc “nhất sự bất tái cứu” trong tố tụng (vụ
việc đã xét xử xong rồi thì toà án không thụ lý, giải quyết lại), vì phải tiến hành xét
xử nhiều lần để phân chia di sản của người chết.
16


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

- Thứ hai, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những
người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở
thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người
thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết
đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung
di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng
vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người thừa kế hợp pháp của người
chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa

thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh...), làm những người này mất
quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp của
công dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ.
- Thứ ba, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách
của người được thừa hưởng di sản
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người được chỉ
định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di
chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa
kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp
pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác
định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với
người vợ, chồng sau...), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã
được định đoạt trong di chúc chung hay không; hoặc những được chỉ định trong di
chúc chung chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, nhưng chết sau thời điểm mở
thừa kế của người vợ hay chồng đã quá cố, thì họ có thuộc thừa kế theo di chúc
chung hay không... là những vấn đề chưa được qui định trong pháp luật hiện hành,

17


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư cách người thừa kế và các qui định
khác có liên quan.
- Thứ tư, làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người
chết trước
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10
năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với
phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn

nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo... mà
người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung chưa được công
bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không còn, thì quyền lợi
của người thừa kế của người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp
của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp luật qui định rõ.
Vấn đề đã đuợc chúng tôi đề cập trong một bài viết khác về thời hiệu khởi kiện
thừa kế ( Xem: Lê Minh Hùng, Thời hiệu khởi kiện thừa kế - Thực trạng pháp luật
và hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2004, tr. 40)

- Thứ năm, nếu tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di
sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do
sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức
phức tạp, việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó
khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung, không đơn
giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới thời
hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những
người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động
18


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

của nó... Qua đó, sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở nên khó
khăn, phức tạp thêm.
1.7. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung
Di chúc chung có nhiều tính chất khác biệt so với di chúc cá nhân. Dù vậy, nhà
làm luật vẫn không dự liệu các căn cứ riêng biệt đương nhiên làm chấm dứt di
chúc chung.

Như đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của
quan hệ vợ - chồng, đó là tình cảm vợ - chồng và tài sản chung của vợ - chồng.
Nếu hai yếu tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trên thực tế
sẽ phát sinh nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi, như
trường hợp: các bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân đang
tồn tại; một bên mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết và người còn lại đã kết hôn
với người khác, sau đó người bị tuyên bố chết còn sống trở về, nhưng không thể tái
hợp quan hệ vợ chồng; hoặc sau khi có di chúc chung, vợ chồng lại định đoạt tài
sản chung vào một mục đích khác, như tặng cho, bán; vợ hay chồng còn sống đã
kết hôn với người khác hoặc có những quyết định làm ảnh hưởng tới hiệu lực hoặc
sự tồn tại của di chúc chung (như quyết định sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ
phần di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung của vợ,
chồng...). Đây là những trường hợp dẫn đến việc chấm quan hệ vợ - chồng, hoặc
chấm dứt tình trạng sở hữu chung đối với tài sản, hoặc trực tiếp làm chấm dứt di
chúc chung. Tuy vậy, những tình huống này không được dự liệu của pháp luật, nên
sẽ dẫn tới sự lúng túng trong việc thực thi di chúc chung, vì không ai dám chắc là
di chúc chung có đương nhiên bị mất hiệu lực, trong những tình huống đó hay
không.
III. Vấn đề còn vướng mắc và giải pháp:
19


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

1. Có tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng?
Có thể thấy, pháp luật hiện hành vẫn chưa có giải pháp nào để giải quyết tốt các
vấn đề pháp lý phức tạp được đặt ra đối việc lập, sửa đổi, huỷ bỏ di chúc chung và
xác định hiệu lực thực thi của di chúc chung. Bản chất của di chúc vốn là giao dịch
pháp lý đơn phương của cá nhân. Không thể có sự tham dự ý chí của nhiều cá nhân

trong việc lập di chúc. Nếu thừa nhận di chúc chung, pháp luật có thể đạt được
mục đích tốt đẹp là hướng các bên trong quan hệ thừa kế cần quan tâm hơn việc
tăng cường tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình. Nhưng không nên nhầm
lẫn việc tăng cường đoàn kết trong gia đình với việc phải cùng nhau lập di chúc
chung. Chưa kể việc lập di chúc chung xong rồi lại bất đồng trong việc sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung; hay sau khi một bên vợ hoặc chồng chết
trước, nhưng người thừa kế hợp pháp không thể xin phân chia di sản thừa kế hoặc
chia thừa kế bắt buộc... thì có thể còn tạo hiệu ứng ngược. Bởi thế, không nên thừa
nhận loại hình di chúc chung của vợ chồng và cần qui định minh thị trong luật cấm
nhiều người lập di chúc chung, kể cả vợ chồng.
Việc bảo đảm quyền lợi thừa kế của gia đình và của người thân thích không thể
trông đợi vào việc lập di chúc chung, mà đã có các giải pháp khác hữu hiệu hơn,
như thừa kế bắt buộc, tước quyền thừa kế, thừa kế thế vị, thừa kế theo các hàng
thừa kế...
2. Giải pháp :
Dường như kiến nghị bãi bỏ qui định di chúc chung của vợ, chồng là không khả
thi, vì đây là một thực tiễn pháp lý và tục lệ, đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt
Nam. Vấn đề cần thiết hiện nay là, làm sao vẫn duy trì di chúc chung nhưng phải
hạn chế tối đa những rắc rối, phức tạp do việc thừa loại di chúc này mang lại. Bởi

20


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

thế, tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau đây phục vụ cho việc nghiên cứu để sửa
đổi, bổ sung các qui định pháp luật có liên quan tới di chúc chung của vợ, chồng:
- Thứ nhất, cần phải tách vấn đề di chúc chung của vợ chồng ra khỏi di chúc của
cá nhân và thiết kế thành một mục riêng trong chương thừa kế theo di chúc

Như đã phân tích trên, tuy di chúc chung của vợ chồng cũng là một loại di chúc
được lập, sửa đổi, bổ sung và phát sinh hiệu lực gần giống như một di chúc thông
thường. Nhưng di chúc chung còn có những đặc thù: (i) do hai ý chí cá nhân cùng
tham gia định đoạt dựa trên mối quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực; dùng để định
đoạt khối tài sản chung của vợ chồng; có hiệu lực không đồng thời với thời điểm
mở thừa kế của bên chết trước... do đó, cần phải được qui định thành một mục
riêng; hoặc chí ít, cũng cần phải định rõ những ngoại lệ của di chúc chung so với di
chúc cá nhân, trong các điều luật tương ứng qui định về di chúc cá nhân.
- Thứ hai, nội dung của mục này cần phải làm rõ các vấn đề sau đây:
+ Qui định quyền lập di chúc chung của vợ chồng, khi hôn nhân đang còn tồn tại,
phải tuân thủ các qui định chung về năng lực lập di chúc, các yêu cầu để di chúc có
hiệu lực cũng tương tự như di chúc của cá nhân;
+ Qui định về hình thức bắt buộc mà di chúc chung phải tuân thủ. Chỉ nên lập di
chúc chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng (nếu cả hai đủ điều kiện
minh mẫn, sáng suốt, không thuộc trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể
chất liên quan tới chức năng lập, kiểm tra nội dung di chúc); hoặc văn bản công
chứng, chứng thực.
+ Qui định quyền được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của một
bên, khi vợ chồng còn sống, vẫn phải có sự đồng ý của vợ, chồng. Nhưng nếu một
bên cần sửa đổi mà bên kia nhất quyết không đồng ý hoặc không thể biểu lộ ý chí
một cách tự nguyện, thì người kia có quyền tự lập di chúc cá nhân hoặc có quyền
21


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

sửa đổi, bổ sung một phần di chúc chung trong phạm vi phần tài sản của mình.
Điều này làm cho các bên vợ, chồng luôn phải tìm thấy sự đồng thuận, kể cả trong
việc lập hay sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung; đồng thời cũng

nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi cá nhân với quyền lợi chung của vợ,
chồng trong việc lập di chúc chung. Người ta không thể bị bắt buộc phải lập di
chúc chung và càng không thể bị bắt buộc phải giữ nguyên nội dung di chúc chung
đã lập, khi không tìm thấy sự đồng thuận ở người bạn đời của mình trong việc sửa
đổi, bổ sung di chúc chung. Cũng cần nói thêm rằng, khi các bên còn sống, di chúc
chung vẫn chưa có hiệu lực, và người ta vẫn có nhiều cách để làm mất hiệu lực của
di chúc chung, mà không cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hay huỷ bỏ di chúc
chung đó.
+ Luật cần dự liệu các căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ chồng
một cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các trường
hợp tương ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh cãi
không cần thiết, khi các bên liên quan tiến hành phân chia di sản dựa trên di chúc
chung của vợ - chồng.
+ Cần phải dung hòa giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung với lợi
ích chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Thừa nhận thời điểm
phát sinh hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng là thời điểm bên sau cùng chết,
nhưng cũng cho phép những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết
trước có quyền xin chia thừa kế đối với phần di sản của vợ, chồng không được
định đoạt trong di chúc chung. Đối với phần tài sản đã định đoạt trong di chúc
chung thì cho phép các bên thừa kế bắt buộc được nhận phần di sản bắt buộc, nếu
việc kéo dài tình trạng không phân chia di sản, theo hiệu lực của di chúc chung, có
ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi hợp pháp của họ; đồng thời cần phải xác
định rõ trong luật khoảng thời gian mà di sản chưa được phân chia thì được trừ
22


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

vào thời hiệu khởi kiện thừa kế. Và, việc kéo dài thời điểm phát sinh hiệu lực của

di chúc chung sẽ chấm dứt, nếu người còn sống kết hôn với người khác hoặc họ đã
lập di chúc khác để thay thế, huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan tới
phần tài sản của họ trong tài sản chung, mà việc đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của di
chúc chung hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản chung của vợ chồng.

KẾT LUẬN:
Giữa ý định muốn bỏ định chế di chúc chung của vợ, chồng với việc giữ lại các
qui định này, thì quan điểm muốn giữ lại có phần thắng thế do tục lệ, do thực tiễn
pháp lý và thực tế đời sống đang đặt ra nhu cầu phải điều chỉnh bằng luật việc vợ,
chồng muốn cùng nhau lập di chúc chung. Qua nghiên cứu vấn đề trên cũng cho
thấy, di chúc chung của vợ, chồng hoàn toàn không phải là vấn đề đơn giản. Luật
thực định chỉ dùng một hai điều luật ngắn để điều chỉnh vấn đề này, rõ ràng là chưa
tương xứng và không đủ liều lượng cần thiết. Việc này cũng giống như dùng chiếc
áo trẻ em để mặc cho một cơ thể người lớn. Đó sẽ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
sự bất cập và thiếu nhất quán trong việc thực thi pháp luật về vấn đề liên quan. Bây
giờ mà kiến nghị Quốc hội sửa đổi, bổ sung qui định về di chúc chung trong BLDS
2005 là quá sớm, nhưng nghiên cứu vấn đề để chuẩn bị tiền đề tư tưởng phục vụ
cho việc sửa đổi, bổ sung nội dung này trong BLDS 2005 là việc nên làm ngay và
hoàn toàn không phải là quá sớm.

23


Họ và tên: Trần Thị Ngọc Nga
MSSV: 361907

Danh mục tài liệu tham khảo:

1.
2.

3.
4.
5.
6.

Giáo trình luật dân sự Đại học luật Hà Nội
Bộ luật dân sự 2005
Thừa kế theo di chúc trong luật Việt Nam – Vũ Văn Mẫu (Luận Văn)
Luật thừa kế Việt Nam – TS. Phùng Trung Lập
Bộ luật dân sự Nhật bản, Bộ luật dân sự Pháp
Tài liệu trên mạng

24



×