Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.88 KB, 15 trang )

HÀ DUY TÂN - DS33A 058

ĐỀ SỐ 9: Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp
chủ yếu để phát huy vai trò đó trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập quốc tế
MỤC LỤC

1


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

1.

PHẦN MỞ ĐẦU
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế ra đời và tồn tại là khách quan,

là điều kiện vật chất quan trọng để nhà nước tồn tại và phát triển. Để tạo lập
cơ sở pháp lý ổn định vững chắc cho nguồn thuế, thực hiện các mục tiêu kinh
tế - xã hội, đòi hỏi nhà nước vần phải ban hành hệ thống pháp luật thuế đồng
bộ. Việc nghiên cứu vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường và hội nhập quốc tế có ý nghĩa rất quạn trọng trong việc nâng
cao hệ thống pháp luật thuế. Từ việc nghiên cứu đó hệ thống quy phạm pháp
luật thuế có thể thường xuyên sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp ứng như cầu
của nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội.

2.

PHẦN NỘI DUNG

2.1.



Những vấn đề cơ bản về pháp luật thuế

2.1.1. Thuế và pháp luật thuế
● Thuế vừa là phạm trù kinh tế, vừa là phạm trù lịch sử. Lịch sử xã hội
loài ngươi đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn với
sự hình thành và phát triển của nhà nước. Có rất nhiều cách định nghĩa, nhưng
chúng đề có các nét chung sau: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà
các tổ chức hoặc các nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện
nhất định, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành,
không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
● Thuế bao giờ cũng mang những đặc tính nhất định. Đó là: Thuế là
khoản thu bắt buộc nộp vào ngân sách; Thuế gắn với yếu tố quyền lực nhà
nước; Thuế không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp.
● Thuế liên quan đến quyền lợi trực tiếp của người nộp thuế và nhà
nước. Người nộp thuế phải trích một phần tài sản để chuyển cho nhà nước mà
không thể khước từ hay trì hoãn. Ngược lại, nhà nước nào cũng phải thu thuế
để đảm bảo nguồn vật chất đầu vào cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ.
Việc thu thuế phải đạt được mục tiêu điều hòa lợi ích giữa hai bên. Bởi vậy,
việc đánh thuế cần tuân thủ một số nguyên tắc sau:
2


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

- Thứ nhất, đánh thuế phải đảm bảo công bằng. Mọi đối tượng có năng
lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên quan đến thuế
như nhau phải đươc đối xử về thuế như nhau.
- Thứ hai, đánh thuế phải đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và
người nộp thuế. Thuế phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng

không được để cho người nộp thuế lâm vào tình trạng khốn cùng. Đây là yêu
cầu quan trọng để đảm bảo tính "trung lập" của thuế.
- Thứ ba, đánh thuế phải đản bảo dễ hiểu, đạt hiệu quả. Các loại thuế
phải đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu cho mọi đối tượng và có tính ổn định đồng thời
hệ thống thuế phải tổ chức sao cho chi phí quản lý thu thuế không cao hơn
mức mà mục tiêu đề ra cho phép.
- Thứ tư, đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối
tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần. Điều này đặt ra yêu cầu hệ
thống pháp luật thuế một quốc gia phải "bóc tách" những phần của đối tượng
tính thuế đã nằm trong diện chịu loại thuế đó ở giai đoạn trước.
● Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của luật thuế ở Việt
Nam cho thấy pháp luật thuế ra đời rất sớm. Nhà nước với tư cách là chủ thể
quyền lực, sử dụng công cụ riêng là pháp luật để tập trung bộ phận của cái xã
hội mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng nắm giữ của cải đó. Điều
này cũng giúp cho việc phân biệt giữa luật thuế với luật ngân sách Nhà nước
mặc dù giữa luật thuế và luật ngân sách Nhà nước có mối liên hệ nội tại.
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách
nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước.
2.1.2. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
a)

Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn

thu, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước

3



HÀ DUY TÂN - DS33A 058

Nhà nước ban hành pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật
xác định quyền thu thuế của nhà nước, nghiwã vụ nộp thuế của các chủ thể có
điều kiện. Thuế là nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu
nguồn thu ngân sách Nhà nước. Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và
pháp triển của thuế qua các thời kỳ, ở các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế
chiếm phần lớn tổng thu ngân sách Nhà nước. Ở Việt Nam, từ những năm
1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các khoản chi tiêu ngân
sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động viên một
phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ
thuế chiếm khoản 90% tổng thu ngân sách Nhà nước. Điều này lý giải cơ cấu
cân đối ngân sách Nhà nước được pháp luật ghi nhận. Điều 8 Luật Ngân sách
Nhà nước quy định rõ “Ngân sách Nhà nước được cân đối theo nguyên tắc
tổng thu từ thuế, phí, lệ phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp
phần tích lũy ngày càng cao vào đầu tư phát triển”.
Hầu hết các quốc gia, thuế là hình thức chủ yếu mà pháp luật quy định
để thu ngân sách Nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa
chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện kinh
tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban
hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập trung nguồn tài chính vào
ngân sách Nhà nước, từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi ngày càng tăng.
b)

Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế,

thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của nhà nước
Nhà nước, bằng pháp luật có khả năng quản lý, điều tiết tới mọi mặt
của đời sống kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế, Nhà nước thể hiện
ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông

qua đó thực hiện công bằng xã hội.
Pháp luật thuế còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối
với nền kinh tế của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp
luật thuế, Nhà nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền
4


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội. Điều tiết đối với nền kinh tế là
yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế
thị trường.
Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà nước có thể thay đổi cơ cấu
đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp hành chính. Để thực
hiện cơ cấu đầu tư định trước, pháp luật thuế có những quy định cụ thể khcá
nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu tiên và đối tượng bị hạn chế. Điều
này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm kiếm thu nhập của đối tượng đầu tu, qua
đó có thể làm thay đổi luồng vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư
khác.
Thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động can
thiệp đến cung - cầu của nền kinh tế, định hướng chi tiêu xã hội. Để hạn chế
việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai
đoạn hiện tại, Nhà nước tăng thuế suất, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập
khẩu… đối với việc sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Để
thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến
khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định
khuyến khích hoặc hạn chế việc xuất khẩu, nhập khẩu đối với một số hàng
hóa. Sự khuyến khích hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng
có tính chấp phân biệt đối với các loại hàng hóa xuất nhập khẩu. Đối với
những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, tạo cơ

hội tối đa cho mọi đối tượng đều có thể tiếp cận; ngoài các quy định chung,
pháp luật thuế còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục
sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích cực trong việc thúc đẩy
sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có hiệu quả các
nguồn lực của đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.
c)

Nhà nước có thể sử dụng công cụ pháp luật thuế để kiểm tra gián

tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh
5


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế, các cơ quan quản lý
thuế cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy
định gắn với chế độ chứng từ hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh
doanh, hình thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng
việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp
quản lý nền kinh tế, trên cơ sở đó có hệ thông pháp luật được ban hành, sửa
đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng
như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô.
Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời
những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình
hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
d)


Pháp luật thuế là công cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các

thành phần kinh tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các
ngành nghề, các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự
bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân
và pháp nhân. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua chính sách
động viên giống nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
có những điều kiện hoạt động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công
bằng.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước
phải sử dụng đồng bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục những sự mất
cân đối về mặt xã hội trong đó có mất cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng
pháp luật thuế làm công cụ để điều hòa vĩ mô thu nhập trong xã hội. Nhà
nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các
thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế và cơ cấu các loại thuế
trong hệ thống thuế, về thuế suất… đều có tác động đến thu nhập và sử dụng

6


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

thu nhập trong xã hội. Pháp luật thuế còn được nhà nước sử dụng như một
công cụ thể hiện chính sách xã hội.
2.2.

Thực trạng việc áp dụng pháp luật thuế ở Việt Nam

2.2.1. Năng lực thuế thấp

Nguồn thu thuế ở nước ta chiếm tỷ trọng còn hạn chế trong tổng thu
Ngân sách Nhà nước với khoảng 60% trong khi đó các nước phát triển trên
90% (các nước Bắc Âu trên 95%). Thu từ thuế gián thu (bao gồm thuế nhập
khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, phí xăng, dầu) chiểm tỷ
trọng lớn trong đóng góp ngân sách Nhà nước, 46% trong giai đoạn 2001 2005. Trong đó thuế nhập khẩu đóng góp tới 1/3 tổng thu ngân sách Nhà
nước. Tuy nhiên, khoản thu này đang giảm đi do các hiệp định tự do hóa
thương mại mà Việt Nam đang tham gia.
Kể từ khi gia nhập WTO, thu thuế về xuất nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt
và VAT hàng nhập khẩu bị giảm sút do cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực. Việc cắt giảm thuế quan theo các hiệp định đã ký kết dẫn đến tổng
thu nhập nhập khẩu giảm theo. Kinh tế thế giới khủng hoảng và kinh tế Việt
Nam cũng chịu tác động mạnh. Ngoài ra chính sách giãn thuế và giảm thuế
cũng đã làm cho giảm thu thuế 5 – 6% so với được giao. Theo báo cáo của
Tổng cục thống kê, việc thực hiện các giải pháp về thuế làm giảm số thu
ngành thuế năm 2009 khoảng 16 – 20% so với dự toàn được giao.
2.2.2. Thất thu thuế lớn
Mặc dù ngành thuế ngày càng có nhiều nỗ lực, nhưng các biện pháp
chống thất thu thuế xem ra chưa hữu hiệu, dường như người ta mới tận thu
được với các đơn vị và công dân gương mẫu trong nghĩa vụ thuế, còn những
người cố tình trốn thuế thì không bị chế tài. Tình trạng này không những thể
hiện trong thuế thu nhập cá nhân mà thể hiện rất dễ thấy trong thuế giá trị gia
tăng. Rất nhiều doanh nghiệp, khách sạn, cửa hàng… không làm hóa đơn cho
khách hàng, còn khách hàng thì rất nhiều người cũng không có nhu cầu lấy
hóa đơn (trừ những doanh nghiệp cần có hóa đơn để khấu trừ thuế giá trị gia
7


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

tăng). Phần lớn khoản doanh thu không nhỏ đó Nhà nước không thu được

thuế, cả thuế giá trị gia tăng lẫn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tình trạng đó
không những gây tổn hại cho lợi ích của đất nước mà còn tạo ra sự bất bình
đẳng về nghĩa vụ thuế của công dân, vô hình chung tạo thêm sự cạnh tranh
không lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
Thanh tra Chính phủ đã có một cuộc điều tra về tổng lượng thất thu của
ngành thuế trong thời gian qua. Thanh tra chính phủ cho biết, sau khi hoàn tất
việc thanh tra tại Tổng Cục thuế, Cục thuế Hà Nội và Cục thuế Tp Hồ Chí
Minh đã phát hiện nhiều sai phạm. Thanh tra Chính phủ cho rằng, việc Bộ Tài
Chính, Tổng cục thuế và một số Cục thuế địa phương ban hành văn bản
không đúng quy định của pháp luật về thuế đã dẫn đến thất thu thuế và trực
tiếp ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh doanh.
Qua thanh tra, Cục thuế Hà Nội bị cho là phải có trách nhiệm khi để tất
thu 459,8 tỷ đồng tiền thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp
trong hoạt động kinh doanh ôtô và xe máy trên địa bàn từ năm 2005 tới năm
2007. Đồng thời Cục thuế Hà Nội phải có trách nhiệm thu hồi 3,736 tỷ đồng
tiền thuế do 48 doanh nghiệp thuộc đơn vị này quản lý kê khai thiếu.
2.2.3. Việc áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế còn nhiều yếu kém và
bất cập
a)

Xác định sai số tiền thuế
Trong nhiều trường hợp, cơ quan quản lý thuế là chủ thể trực tiếp xác

định số tiền thuế hoặc kiểm tra việc tự xác định số thuế của chủ thể nộp thuế
nhưng đã xác định sai số thuế. Việc xác định sai số thuế thường dẫn đến tranh
chấp, khiếu nại do cơ quan thuế đã xác định số tiền thuế phải nộp nhiều hơn
thực tế.
b)

Thụ động trong việc ra quyết định, còn trông chờ hướng dẫn của cấp


trên
Một trong những đặc trưng của áp dụng pháp luật chính là đưa những
quy định áp dụng chung vào từng trường hợp cụ thể. Tuy những hướng dẫn
8


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền như Bộ Tài chính và Tổng cục thuế đã
tương đối đầy đủ, nhưng việc vận dụng tại các cơ quan quản lý thuế tại địa
phương còn nhiều lúng túng. Điều đó chứng tỏ, việc nắm vững và vận dụng
pháp luật thuế của các Cục thuế địa phương còn rất nhiều hạn chế.
c)

Chậm trễ trong việc thực hiện các ưu đãi thuế:
Ưu đãi thuế là những quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ

thể nộp thuế trong hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chia sẻ gánh nặng thuế
khi chủ thể nộp thuế gặp những sự cố khách quan bất lợi (thiên tai, địch họa,
tai nạn bất ngờ…). Chính sách ưu đãi thuế chỉ thực sự có hiệu quả khi việc
triển khai thực hiện được nhanh chóng và đúng đối tượng.
Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, những hồ sơ đề nghị miễn thuế,
giảm thuế hoặc hoàn thuế bị cơ quan thuế xử lý một cách chậm trễ. Đôi khi,
công chức quản lý thuế còn đòi hỏi những điều kiện về giấy tờ, hồ sơ, sổ sách
vượt ra ngoài những yêu cầu của pháp luật. Không kể dến mục đích gây khó
khăn để thực hiện hành vi tham nhũng, thì những yêu cầu quá mực này đã cản
trở chủ thể nộp thuế thực hiện quyền của mình một cách hợp pháp, làm giảm
hiệu ứng tốt của chính sách ưu đãi thuế.
d)


Còn nhiều tranh chấp về thuế dẫn đến khiếu nại tố cáo không được

giải quyết thỏa đáng.
Hiện nay có nhiều việc khiếu nại, tố cáo việc thực hiện pháp luật thuế.
Đây là quyền của cá nhân, tổ chức và việc có khiếu nại, tố cáo không đồng
nghĩa với việc công chức quản lý thuế hay cơ quan quản lý thuế đã vi phạm
pháp luật. Bên cạnh những trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo thỏa đáng,
đúng pháp luật, cũng vẫn còn xảy ra tình trạng khiếu nại, tố cáo không được
giải quyết đúng thời hạn, dây dưa, vòng vo dẫn đến những phản ứng tiêu cực
tiếp theo của cá nhân, tổ chức khiếu nại, tố cáo. Bên cạnh đó, hiện tượng bao
biện, không nhận trách nhiệm và không xử lý đúng pháp luật công chức quản
lý thuế, cơ quan quản lý thuế mắc sai phạm cũng làm cho sự việc càng trở nên
phức tạp hơn.
9


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

2.2.4. Nguyên nhân của thực trạng thực thi pháp luật thuế
a)

Ý thức chấp hành pháp luật thuế của nhiều chủ thể nộp thuế còn yếu

kém.
Việc nộp thuế là nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp
luật nhằm đảm bảo duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, và đồng thời để
nhà nước thực hiện các chức năng của mình. Tuy nhiên, do các lợi ích nhận
được của nhà nước thường không cụ thể, nên đối với một số chủ thể nộp thuế,
những thiệt hại vật chất cụ thể dường như lớn hơn so với những giá trị vô

hình mà nhà nước đem lại. Chính vì vậy, thay vì hợp tác, nhiều chủ thể nộp
thuế sử dụng nhiều thủ đoạn để làm giảm số thuế phải nộp một cách trái pháp
luật.
b)

Trình độ công chức quản lý thuế còn nhiều hạn chế.
Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật thuế có nhiều thay đổi

căn bản, số lượng chủ thể nộp thuế ngày càng nhiều hơn. Bên cạnh đó, những
thủ đoạn gian lận thuế ngày càng tinh vi hơn đã gây khó khăn không nhỏ cho
công tác quản lý thuế. Mặc dù hầu hết công chức quản lý thuế đều ý thức
được việc trau dồi, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, nhưng mức độ không
đồng đều. Nhiều địa phương, trình độ học vấn của công chức quản lý thuế
chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, nên khi thực hiện công tác áp dụng pháp
luật còn nhiều lúng túng, làm sai hoặc sợ làm sai dẫn đến chậm trễ trong việc
ra quyết định.
c)

Trong công tác quản lý và ra quyết định quản lý thuế còn nhiều tiêu

cực.
Những tiêu cực như đưa và nhận hối lộ, công chức thuế thông đồng với
chủ thể nộp thuế để gian lận thuế vẫn còn xảy ra. Mặc dù trong thời gian vừa
qua, công tác phòng và chống tham nhũng được đẩy mạnh, nhưng nhiều vụ
việc trốn lậu thuế bị phát hiện thường có liên quan đến công chức quản lý
thuế. Từ những phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng và các vụ
việc đã được cơ quan chức năng phát hiện và xử lý, thì có thể khẳng định
10



HÀ DUY TÂN - DS33A 058

rằng, những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động quản lý thuể
còn khá phổ biến như đưa và nhận tiền hối lộ, hoặc đòi được hối lộ bằng
nhiều hình thức tinh vi khác.
d)

Cơ sở hạ tầng đầu tư cho ngành thuế còn chưa thỏa đáng để đáp

ứng nhu cầu nhiệm vụ.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là công nghệ
thông tin, thì những ứng dụng tiến bộ này vào hoạt động quản lý nhà nước
ngày càng được đẩy mạnh. Với số lượng rất lớn các chủ thể nộp thuế, việc
ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế nếu được đầu tư thoả
đáng sẽ đem lại những cải thiện đáng kể, nhằm giảm chi phí xã hội dành cho
công tác quản lý thuế, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, hiện nay, việc
triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho ngành thuế nhìn chung còn chậm
và chưa đồng đều, cùng với hạn chế trong công tác đào tạo công chức quản lý
thuế và chủ thể nộp thuế về các kỹ năng cần thiết để sử dụng công nghệ thông
tin, nên đã hạn chế đáng kể đến hiệu quả áp dụng pháp luật.
e)

Còn nhiều hạn chế về tính hợp lý và sự minh bạch của hệ thống

pháp luật thuế.
Hiệu quả áp dụng pháp luật chịu ảnh hưởng lớn nhất từ chính các quy
định pháp luật được áp dụng. Nếu pháp luật phù hợp với thực tiễn kinh tế xã
hội và có tính định hướng, thì sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội và ngược
lại, nếu pháp luật bất cập thì sẽ kìm hãm sự phát triển. Hệ thống pháp luật
thuế của nước ta hiện nay đang trong giai đoạn hoàn thiện nên không tránh

khỏi những bất cập. Bên cạnh đó, nền kinh tế phát triển nhanh, “bỏ xa” những
quy định pháp luật cũng là một thực tế. Hiện nay, hệ thống pháp luật thuế còn
nhiều quy định mâu thuẫn, chồng chéo và không hợp lý, nên khi áp dụng vào
thực tiễn sẽ gặp khó khăn, không hiệu quả.
2.3.

Một số giải pháp để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều

kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế

11


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

Đất nước ta đang tiếp tục triển khai đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa, đẩy mạnh hội nhập khu vực và quốc tế, điều này đã và
đang rất cần một nguồn tài chính đủ mạnh. Trong bối cảnh như vậy, việc hoàn
thiện quản lý thuế - nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước cần tiền hành
với những nội dung sau:
2.3.1. Hoàn thiện nhanh chóng hệ thống pháp luật thuế
- Hệ thống thuế phải bao quát hết các nguồn thu và tăng thu, có nghĩa là
phải huy động mọi nguồn thu, tăng thu trên cơ sở mở rộng diện thu với mức
thuế suất vừa phải và đơn giản (thuế suất cao và thấp quá sẽ mất tác dụng của
thuế).
- Thực hiện chính sách thuế bình đẳng đối với các thành phần kinh tế,
các tầng lớp dân cư, chống tình trạng trùng lặp trong thuế, chống thuế chồng
lên thuế.
- Đơn giản hóa chính sách thuế, đơn giản cả về mặt thuế suất, thủ tục,
dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, dễ được đông đảo người nộp thuế chấp

nhận.
- Chính sách thuế phải có tác dụng tích cực trong phân phối thu nhập,
điều tiết thu nhập hợp lý, tạo công bằng xã hội.
- Chính sách thuế phải bảo đảm ổn định trong một thời gian dài, tránh
tình trạng thay đổi quá nhiều, gây trở ngại cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ.
- Thu hẹp phạm vi diện miễn giảm thuế, tập trung vào các yêu cầu cơ
bản của chính sách kinh tế, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội.
- Nâng cao hiệu lực pháp lý và hiệu quả của chính sách thuế. Áp dụng
nghiêm minh hình thức thưởng phạt trong thuế, loại bỏ các khoản thu thuế
không hiệu quả, do chi phí để thu thuế lớn hơn cả số tiền thu thuế được.
2.3.2. Tăng cường thanh tra kiểm tra để phát hiện và xử lý ngay sai
phạm.
12


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

Công tác thanh tra, kiểm tra cần được ngành Thuế đẩy mạnh và làm
quyết liệt trong thời gian tới. Theo đó, ngành thuế sẽ đẩy mạnh việc kiểm
soát, xử lý triệt để các khoản nợ đọng thuế, trình cấp có thẩm quyền các biện
pháp xử lý vướng mắc về nợ thuế, tập trung lực lượng triển khai các biên
pháp thu hồi nợ thuế, triển khai cá biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu hồi nợ
đọng.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế để lựa chọn những đối
tượng có dấu hiệu gian lận thuế, bổ sung vào kế hoạch thanh tra, kiểm tra, đặc
biệt tập trung vào nhóm doanh nghiệp lớn, các Tập đoàn, tổng công ty, các
địa bàn trọng điểm có số thu lớn, các ngành hàng, các lĩnh vực, các loại hình
tổ chức có dấu hiệu thất thu lớn. Tập trung tổng hợp, rà soát các kết quả sau

thanh tra để có biện pháp xử lý đôn đốc, thu hồi kịp thời các khoản mà thanh
tra đã kết luận vào ngân sách Nhà nước.
2.3.3. Tăng cường kỷ cương kỷ luật, đổi mới phương pháp làm việc, củng
cố năng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và phát triển cơ sở hạ tầng ngành
thuế.
Sự phát triển ngày càng phức tạp của nền kinh tế đòi hỏi hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng phải phát triển tương xứng. Bên
cạnh đó, cần tăng cường kỷ cương kỷ luật, đổi mới phương pháp làm việc,
củng cố năng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, tạo sự chuyển bước đầu về chất
lượng nguồn nhân lực của ngành thuế.Xây dựng quy chế và thực hiện luân
phiên, luân chuyển cán bộ; thực hiện nghiêm túc các quy định về văn minh
công sở. Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ công chức về
chuyên môn nghiệp vụ, tin học, lý luận chính trị, đạo đức tác phong nghề
nghiệp, trong đó đảm bảo bồi dưỡng kỹ năng quản lý thuế cho 100% cán bộ
thuế.
Cơ sở hạ tầng ngành thuế cũng cần phải tiếp tục được hoàn thiện nhằm
gia tăng tính hiệu quả của công việc, giảm thiểu thời gian và chi phí cho chủ
thể nộp thuế khi thực hiện nghĩa vụ thuế.
13


HÀ DUY TÂN - DS33A 058

2.3.4. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật thuế và tăng cường ý
thức pháp luật cho mỗi người dân
Tuyên truyền, phổ biến sâu rộng, thường xuyên trong mọi tổ chức và
dân cư về các luật thuế và các văn bản dưới luật để họ hiểu rõ, nhận thức
trách nhiệm, nghĩa vụ của người nộp thuế và tổ chức thực hiện tốt. Tạo điều
kiện cho dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, đây là một sức mạnh to lớn
để thực hiện chính sách trốn thuế, lậu thuế…

Ý thức chấp hành pháp luật thuế không phải có được ngay lập tức bằng
các mệnh lệnh hành chính. Nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở nước ta
còn non trẻ, do vậy chưa đủ thời gian để các cá nhân, tổ chức trong xã hội thật
sự quen với những đòi hỏi của nó, trong đó có nghĩa vụ nộp thuế. Ý thức chấp
hành pháp luật được nâng lên thông qua nhiều phương thức, trong đó, công
tác tuyên truyền phổ biến phải được thực hiện hiệu quả. Theo đánh giá của
chúng tôi, mặc dù đã có nhiều chuyển biến, nhưng công tác tuyên truyền phổ
biến pháp luật thuế hiện nay còn cứng nhắc, chung chung, do vậy hiệu quả
còn nhiều hạn chế.

3.

PHẦN KẾT LUẬN
Thuế và nhà nước là hai phạm trù lịch sử luôn đi cùng nhau, chi phối và

phụ thuộc nhau. Vì vậy, thuế vừa là công cụ kinh tế hỗ trợ cho sự tồn tại của
nhà nước và bộ máy nhà nước; mặt khác thuế được nhà nước sử dụng như là
loại công cụ để thực hiện những nhiệm vụ mục tiêu nhất định. Mặc dù bất kỳ
nhà nước có chủ quyền nào cũng được quyền đánh thuế nhưng để nguồn thu
từ thuế trở thành hiện thực, nhà nước phải sử dụng pháp luật như là công cụ
hữu hiệu và đặc thù nhất của mình để giải quyết các mục tiêu định trước. Để
có thể thực hiện được mục tiêu đề ra của nhà nước, pháp luật thuế cần tiếp tục
được thay đổi, hoàn thiện cho phù hợp với yêu cầu của điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế.

14


HÀ DUY TÂN - DS33A 058


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình: Luật thuế Việt Nam, Đại học luật Hà Nội. Nxb Tư

pháp, Hà Nội, 2005.
2.

Đại từ điển kinh tế thị trường, Viện nghiên cứu và phổ biến tri

thức bách khoa, Hà Nội, 1998.
3.

Phạm Thị Giang Thu, “Những yêu cầu và mục tiêu cơ bản của

việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước
và pháp luật, số 3, tháng 3/2008.
4.

“Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực thuế”, Ths. Trần Vũ Hải – Đại

học Luật Hà Nội.
5.

Luật quản lý thuế 2006.

6.

Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005.


7.

Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008.

8.

Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008.

9.

Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008.

10.

Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2008.

11.

Luật thuế tài nguyên năm 2009..

12.

Luật thuế sư dụng đất phi nông nghiệp năm 2010.

13.

luattaichinh.wordpress.com

14.


/>
15



×