MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về thuế và pháp luật thuế
1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay
1.1/ Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế
1.2/ Định nghĩa thuế
1.3/ Đặc điểm của thuế
2. Pháp luật thuế
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
1/ Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lý quan trọng để ổn định nguồn thu, đáp ứng nhu
cầu chi của Nhà nước
2/ Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực hiện
đường lối trong một thời kì nhất định của Nhà nước
3/ Pháp luật thuế là cơng cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế và công bằng xã hội.
4/ Pháp luật thuế giúp Nhà nước kiểm tra gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh
5/ Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong
nước
6/ Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế
III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1/ Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập quốc tế
2/ Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều kiện phát
triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
A. LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, hội nhập quốc tế đang là một xu thế phát triển tất yếu,
cuốn hút tồn thể nhân loại hịa vào dịng chảy của nó. Q trình hội nhập quốc tế đã và
đang tạo ra những thời cơ và thách thức không nhỏ cho các quốc gia đang phát triển,
trong đó có Việt Nam. Một trong những thách thức ấy chính là việc xóa bỏ các rào cản
tự do hóa thương mại tồn cầu, trong đó quan trọng nhất là việc cắt giảm thuế quan và
dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan. Đây là vấn đề ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống chính
sách, pháp luật của Nhà nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó, bộ phận pháp luật chịu sự
tác động trực tiếp của trào lưu hội nhập chính là pháp luật thuế.
Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hệ
thống pháp luật thuế được hình thành và ngày càng phát triển. Pháp luật thuế có hệ
thống quy phạm phức tạp, chi tiết, thường xuyên được sửa đổi, thay thế, bổ sung để đáp
ứng yêu cầu của Nhà nước và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, pháp
luật thuế giữ một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, nếu khơng có hệ
thống pháp luật thuế thì khơng thể thì một quốc gia khơng thể phát triển tồn diện.
Với ý nghĩa to lớn đó, sau đây em xin được đi tìm hiểu vấn đề: “Vai trò của pháp
luật thuế ở nước ta hiện nay – các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trị đó trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” với mong muốn được hiểu biết
rõ hơn về các vai trò của hệ thống pháp luật thuế trong điều kiện của nước ta hiện nay.
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về thuế, pháp luật thuế
1. Khái quát chung về thuế trong nền kinh tế thị trường của nước ta hiện nay
1.1/ Sự ra đời và tính tất yếu khách quan của thuế
Thuế ra đời gắn liền với sự hình thành của Nhà nước, bởi Nhà nước ra đời, mục
đích ban đầu là phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị, kéo theo là cơ quan chức năng, cơ
quan quyền lực và công cụ thực hiện quyền lực. Các cơ quan này không tạo ra nguồn
vật chất cung cấp cho chính sự tồn tại và phát triển của bản thân mà trông chờ vào sự
đóng góp của tồn thể cơng dân. Bằng sức mạnh quyền lực chính trị của mình, Nhà
nước bắt buộc mọi công dân phải chuyển một phần thu nhập của mình vào tay Nhà
nước. Những khoản tiền mà cơng dân đóng góp từ thu nhập của mình chuyển cho Nhà
nước nhằm tạo ra nguồn vật chất cung ứng cho mọi hoạt động của Nhà nước gọi là thuế.
Vậy sự ra đời của thuế chính là sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.
Có thể nói, thuế là phạm trù lịch sử, là một tất yếu khách quan xuất hiện từ nhu cầu
đáp ứng chức năng của Nhà nước. Thuế được Nhà nước sử dụng như một công cụ kinh
tế quan trọng nhằm huy động nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh
2
kinh tế và điều hòa thu nhập.
1.2/ Định nghĩa về thuế
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thuế nhưng có thể hiểu một cách chung nhất đó
là: Thuế là khoản thu nộp mang tính bắt buộc mà các tổ chức hoặc cá nhân phải nộp cho
Nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định.
Như vậy, có thể thấy, bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với Nhà
nước, loại quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế. Bản chất này không thay đổi
trong những xã hội có chế độ kinh tế chính trị khác nhau. Bất kể xã hội nào cũng thể
hiện quan hệ thu và nộp như nhau.
1.3/ Đặc điểm của thuế
Thuế bao gồm bốn đặc điểm chính:
Thứ nhất, thuế là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách. Tính bắt buộc thể hiện ở
chỗ, đối với người nộp thuế, đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho Nhà nước
khi có đủ điều kiện. Đối với các cơ quan thu thuế, khi thay mặt Nhà nước thực hiện
những hành vi nhất định cũng không được phép lựa chọn thực hiện hay khơng thực hiện
hành vi thu thuế, có sự phân biệt đối xử đối với người nộp thuế.
Thứ hai, thuế gắn với yếu tố quyền lực. Thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
Nhà nước, thực hiện việc cung cấp cơ sở vật chất cho Nhà nước thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của mình. Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước tạo ra cho thuế tính cố
định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chỉ gắn với yếu tố quyền lực, thuế mới đảm
bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho Nhà nước.
Thứ ba, thuế khơng mang tính đối giá, khơng hồn trả trực tiếp. Nộp thuế là một
nghĩa vụ xã hội mà cơng dân khơng có quyền trốn tránh và cũng khơng có quyền địi
hỏi trao đổi ngang giá (đối giá trực tiếp). Số tiền thuế mà các cá nhân và tổ chức kinh tế
phải nộp không phụ thuộc vào mức độ thụ hưởng các dịch vụ công cộng do Nhà nước
cung cấp tức là lợi ích riêng mà tuỳ theo khả năng thu thuế. Bất kỳ ai, khi có đủ điều
kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với Nhà nước, không phân biệt họ đã
nhận được những lợi ích công cộng nào.
Thứ tư, thuế đảm bảo việc chi tiêu cho lợi ích cơng cộng. Tổng thu nhập từ thuế
Nhà nước chỉ chi một phần cho quản lý hành chính, đại bộ phận số thu nhập cịn lại
được chuyển giao cho dân chúng thông qua các hoạt động sự nghiệp và phúc lợi cơng
cộng như: văn hố, giáo dục, y tế, an ninh quốc phịng, thơng tin, thể thao, bảo vệ môi
trường, bảo trợ xã hội…
2. Pháp luật thuế
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người
3
nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác
định trước.
Như vậy, pháp luật thuế chính là quan hệ thu, nộp thuế giữa Nhà nước và cư dân
dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm
phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó, lựa chọn áp dụng các quy phạm
pháp luật phù hợp nhằm đạt được hiệu quả điều chỉnh cao.
II. Vai trò của pháp luật thuế ở nước ta hiện nay
Pháp luật thuế không chỉ quy định nội dung các thứ thuế mà còn xác lập các quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể, các biện pháp bảo đảm thực hiện thu, nộp thuế. Chính vì
vậy, pháp luật thuế là nhân tố quyết định ý nghĩa kinh tế xã hội của thuế và có vai trị
quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập quốc tế như
hiện nay, thuế cũng như pháp luật thuế đang có một vị trí, vai trị vô cùng quan trọng.
1. Pháp luật thuế tạo cơ sở pháp lí quan trọng để ổn định nguồn thu, được
Nhà nước sử dụng như một công cụ chủ yếu để tập trung một phần của cải vật
chất trong xã hội vào ngân sách Nhà nước, đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước
Pháp luật thuế bao gồm các quy phạm pháp luật xác định quyền thu thuế của Nhà
nước, nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể khi có đủ các điều kiện. Điều này có nghĩa
nguồn thu từ thuế chỉ có thể có được khi các bên thực hiện đúng quy định pháp luật
thuế.
Nhà nước ban hành pháp luật thuế và ấn định các loại thuế áp dụng đối với các
pháp nhân và thể nhân trong xã hội. Cũng như pháp luật nói chung, pháp luật thuế có
chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Mục đích chủ yếu và quan trọng nhất cuả sự điều
chỉnh quan hệ pháp luật thu - nộp thuế là nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước. Việc các
chủ thể nộp thuế - thực hiện nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật thuế đã tạo
ra nguồn tài chính quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn thu ngân sách, đáp
ứng được các nhu cầu chi tiêu thiết yếu của nhà nước. Do đó, sự thay đổi của các quy
định pháp luật thuế đều ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhà nước. Như vậy, nguồn
thu từ thuế có vị trí quyết định đến cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước.
Trong xã hội hiện đại, ngân sách nhà nước có ý nghĩa sống cịn đối với bất kì quốc
gia nào. Đối với nước ta, xuất phát từ vai trò của nhà nước trong sự ngiệp phát triển
kinh tế, xã hội nên hoạt động thu ngân sách nhà nước càng trở nên quan trọng và cần
thiết. Chính điều này đã một lần nữa gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của pháp luật
thuế.
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu nội bộ của
nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất phát từ phạm vi hoạt
động mà đòi hỏi Nhà nước phải ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật thuế để tập
4
trung nguồn tài chính vào ngân sách Nhà nước từ đó mới đáp ứng được nhu cầu chi tiêu
ngày càng tăng.
Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, hệ thống
pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Pháp luật thuế
nói chung và thuế nói riêng không chỉ là công cụ quan trọng để phân phối lại tổng sản
phẩm xã hội và thu nhập quốc dân theo đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
mà còn điều chỉnh được hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các nguồn thu
nhập, mọi tiêu dùng xã hội.
Theo kết quả nghiên cứu về lịch sử tồn tại và phát triển của thuế qua các thời kì, ở
các quốc gia đã cho thấy: thu từ thuế chiếm phần lớn tổng thu ngân sách nhà nước. Ở
Việt Nam, từ những năm 1990 trở lại đây, nguồn thu từ thuế đáp ứng phần lớn các
khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước. Các luật thuế được ban hành đều xác nhận “động
viên một phần thu nhập vào ngân sách Nhà nước” như một lý do cơ bản. Khoản thu từ
thuế chiếm khoảng 90% tổng thu ngân sách Nhà nước, phải đảm nhiệm cho hàng loạt
các yêu cầu chi tiêu cho bộ máy nhà nước, cho cộng đồng xã hội. Với những lý do đó,
bất kì quốc gia nào cũng cần phải xây dựng hệ thống pháp luật thuế đầy đủ với tư cách
là căn cứ pháp lý vững chắc để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. mọi thay
đổi về cơ cấu hệ thống luật thuế, nội dung từng luật thuế đều ảnh hưởng trực tiếp tới kết
quả thu ngân sách nhà nước từ thuế. Vì vậy, có thể khẳng định vai trị của pháp luật thuế
trong việc tạo căn cứ pháp lý hình thành nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước.
2. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ điều tiết nền kinh tế, thực
hiện đường lối trong một thời kì nhất định của Nhà nước
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, pháp luật thuế cịn có vai
trị quan trọng trong việc điều tiết vĩ mơ đối với nền kinh tế. Ðiều 26 Hiến pháp 1992
ghi nhận: “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách”. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam, pháp luật thuế đóng vai
trị là cơng cụ điều tiết vĩ mơ của Nhà nước. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp
luật thuế, Nhà nước thể chế hoá và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế,
điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.
Ðiều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước
trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thông qua các quy định của pháp luật thuế về cơ
cấu các loại thuế, phạm vi đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn giảm thuế…Nhà nước
chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này của pháp luật thuế
được thể hiện ở chỗ pháp luật thuế là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư
của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội. Dựa vào
cơng cụ thuế, Nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.
5
Hệ thống pháp luật thuế cũng có khả năng định hướng chi tiêu xã hội, điều chỉnh
thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Việc tiêu dùng xã hội, ở mỗi quốc gia có
những định hướng khác nhau thùy theo điều kiện thực tế. Pháp luật thuế Việt Nam ghi
nhận rõ sự hạn chế chi tiêu của các đối tượng đối với hàng hóa, dịch vụ chưa phù hợp
với giai đoạn hiện tại. Nhằm hạn chế việc tiêu dùng đối với một số hàng hóa, dịch vụ,
Nhà nước tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu…đối với việc sản
xuất kinh doanh, tiêu dùng các loại hàng hóa đó. Trong khi đó lại khuyến khích, tạo cơ
hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng hóa, dịch vụ thiết yếu
của đời sống xã hội. Ðiều tiết tiêu dùng là hoạt động quan trọng của Nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường.
Không những vậy, thông qua các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước chủ động
can thiệp đến cung – cầu của nền kinh tế. Sự tác động của Nhà nước để điều chỉnh cung
– cầu của nền kinh tế một cách hợp lý sẽ có tác động lớn đến sự ổn định và tăng trưởng
kinh tế. Bằng các quy định của pháp luật thuế, Nhà nước tác động tích cực đến cung –
cầu của nền kinh tế trong tất cả các giai đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðể thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến
khích xuất khẩu, pháp luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có các quy định khuyến
khích hoặc hạn chế việc xuất, nhập khẩu đối với một số hàng hóa. Sự khuyến khích
hoặc hạn chế này thể hiện tập trung ở biểu thuế áp dụng có tính chất phân biệt đối với
các loại hàng hóa xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu
dẫn đến tình trạng suy thối về tài chính ở một số doanh nghiệp. Ðối với những ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngồi các quy định chung, pháp
luật thuế cịn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế nhằm khắc phục sự suy thối về
tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.
Thuế góp phần khuyến khích khai thác ngun liệu, vật tư trong nước để đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu. Thơng qua pháp luật thuế, Nhà nước có tác động tích
cực trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển trên cơ sở tận dụng và sử dụng hợp lý và có
hiệu qủa các nguồn lực cuả đất nước trong việc điều chỉnh cung – cầu và cơ cấu kinh tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật thuế góp phần phát huy cao độ
các nguồn nội lực, thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng sức sản xuất, khuyến khích xuất
khẩu, khuyến khích đầu tư, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ
trọng công nghiệp – dịch vụ, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững, góp
phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân.
Ở Việt Nam, bên cạnh những vai trò chung đối với nền kinh tế xã hội, pháp luật
thuế còn được Nhà nước sử dụng như một cơng cụ thể hiện chính sách xã hội
6
3. Pháp luật thuế là cơng cụ góp phần đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế và công bằng xã hội
Hệ thống pháp luật thuế mới được áp dụng thống nhất chung cho các ngành nghề,
các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo sự bình đẳng và cơng bằng
xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi thể nhân và pháp nhân.
Sự bình đẳng và cơng bằng được thể hiện thơng qua chính sách động viên giống
nhau giữa các đơn vị, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế có những điều kiện hoạt
động giống nhau, đảm bảo sự bình đẳng và công bằng.
Vấn đề điều tiết thu nhập cũng đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Sự vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường đòi hỏi Nhà nước phải sử dụng đồng
bộ nhiều công cụ khác nhau để khắc phục sự mất cân đối về mặt xã hội trong đó có mất
cân đối về thu nhập. Nhà nước sử dụng pháp luật thuế làm cơng cụ để điều hịa vĩ mơ
thu nhập trong xã hội. Sự điều tiết này thể hiện ở chỗ thông qua các quy định của pháp
luật thuế, Nhà nước thực hiện việc điều tiết thu nhập của các đối tượng nộp thuế và các
thành viên trong xã hội. Sự thay đổi của pháp luật thuế về cơ cấu các loại thuế trong hệ
thống thuế, về thuế suất... đều có tác động đến thu nhập và sử dụng thu nhập trong xã
hội.
Có thể khẳng định pháp luật thuế có vai trò quan trong trong việc giúp Nhà nước
thực hiện các chính sách xã hội của mình. Nhà nước điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng
cách giàu nghèo, góp phần thực hiện cơng bằng, bình đẳng xã hội. Bằng những quy
định của pháp luật thuế, Nhà nước phát huy trách nhiệm của mỗi cá thể đối với cộng
đồng xã hội.
4. Pháp luật thuế được sử dụng như một công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt
động sản xuất kinh doanh
Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế cùng với đối
tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy đinh gắn với chế độ chứng
từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mơ kinh doanh, hình thái kinh doanh, cơ cấu tổ
chức… Điều đó cũng có nghĩa bằng việc quy định những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ
thuế, Nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế; trên cơ sở đó, có hệ thống pháp luật được
ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng trong từng giai đoạn ở tầm vĩ mô
cũng như biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác,
cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế, các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp
luật thuế nói riêng và vi phạm trong q trình hoạt động gắn với tư cách của đối tượng
nộp thuế nói chung.
7
5. Thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến hành bảo hộ đối với nền sản xuất
trong nước
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thông qua pháp luật thuế, Nhà nước tiến
hành bảo hộ đối với nền sản xuất trong nước còn yếu kém về nhiều mặt nhằm tăng
cường sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đồng thời, pháp luật thuế hiện nay còn được coi là một trong những vũ khí cạnh
tranh sắc bén của mỗi nước trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết ở các
nước, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á đều đang ra sức sửa đổi, bổ
sung, hồn thiện hệ thống pháp luật thuế của mình cho hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu
tư.
6. Pháp luật thuế quản lý các hoạt động thu, nộp thuế
Từ phương diện quản lý Nhà nước, pháp luật thuế được xem như một công cụ hữu
hiệu trong việc quản lý các hoạt động thu, nộp thuế nhằm khai thác vai trị tích cực và
hạn chế những tiêu cực của hoạt động này. Quan hệ thuế về bản chất là một quan hệ
phân phối của cải dưới hình thức giá trị nên tự bản thân nó đã là một mảnh đất màu mỡ
làm nảy sinh các hoạt động xã hội tiêu cực, làm phương hại đến lợi ích chung của cộng
đồng. Bởi vậy, bằng pháp luật thuế, Nhà nước đã đưa ra các giới hạn “hành lang”, thiết
lập các “hàng rào pháp lý” để các chủ thể có được sự tự do trong khn khổ. Vượt ra
ngồi khn khổ đó, đương nhiên họ sẽ phải chịu các chế tài nghiêm khắc.
Tóm lại, pháp luật thuế ra đời do yêu cầu của việc điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực thuế. Nói cách khác, pháp luật thuế ra đời là do đòi hỏi của cuộc sống các
quan hệ thuế. Đến lượt mình, pháp luật thuế tác động trở lại làm cho các quan hệ thuế
phát sinh, phát triển theo chiều hướng mà Nhà nước mong muốn. Trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng có vai trị
vơ cùng quan trọng trong việc kiến tạo một mơi trường chính trị, kinh tế - xã hội ổn
định, tiến bộ, làm nền tảng, cơ sở vững chắc cho công cuộc hội nhập và phát triển thành
công.
III. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế và sự cần thiết phải hoàn thiện hệ
thống pháp luật thuế trong tiến trình hội nhập quốc tế
Trong vài thập kỷ gần đây, quốc tế hóa các hoạt động kinh tế của từng quốc gia đã
và đang trở thành xu thế phổ biến ở hầu hết các nước. Hiện tượng này xuất hiện do một
số nguyên nhân chủ yếu như: (1) trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia, đặc biệt là
mức độ phát triển các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực đã đạt tới mức
phải phải địi hỏi có sự phối hợp chính sách để điều chỉnh các quan hệ kinh tế đó; (2) sức
8
ép từ bên ngoài khu vực đối với các quốc gia trong khu vực làm cho các quốc gia trong
hku vực nhận thấy cần phải có sự phối hợp hành động để đối phó với các thế lực bên
ngồi; (3) bản than nền kinh tế thị trường phát triển mà mỗi quốc gia đã và đang xây
dựng hay theo đuổi đòi hỏi thực hiện các hoạt động kinh tế vượt ra ngồi khn khổ biên
giới mỗi quốc gia.
Trước thực tế đó, liên kết kinh tế đa phương đã và đang được hình thành và phát
triển mạnh. Để liên kết kinh tế, dù là liên kết trong khu vực hay liên kết với các nước
ngoài khu vực, các quốc gia thường cam kết về nhiều mặt, trong đó khơng thể thiếu
những cam kết về chính sách thuế. Sở dĩ các quốc gia thường đưa ra những thỏa thuận
về chính sách thuế mà quốc gia phải theo đuổi trong quá trình hội nhập là nhằm thúc
đẩy phát triển các quan hệ kinh tế giữa các nước có thỏa thuận, khuyến khích giao lưu
thương mại giữa các nước này.
Để đạt được mục tiêu đó, các quốc gia cần phải xây dựng cho mình một hệ thống
pháp luật thuế hoàn hảo, đáp ứng được những địi hỏi của thực tiễn. Trong tiến trình hội
nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã và đang xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế cho riêng mình.
2. Các giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của pháp luật thuế trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
Pháp luật thuế có vai trị quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Tuy
nhiên, hệ thống pháp luật thuế ở nước ta hiện nay vẫn gặp phải một số vướng mắc đòi
hỏi phải được khắc phục kịp thời. Để khắc phục được tình trạng đó, chúng ta cần phải
có những giải pháp hữu hiệu, phù hợp với từng giai đoạn của đất nước. Có hai giải pháp
chính để khắc phục tình trạng đó cũng như nhằm phát huy vai trị của pháp luật thuế, đó
là: các giải pháp chung và giải pháp cụ thể đối với từng loại thuế.
2.1/ Các giải pháp chung
- Xây dựng hệ thống pháp luật thuế, quy định các sắc thuế hợp lý phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội.
Khi đặt ra các sắc thuế trong hệ thống pháp luật thuế cần phải đặt các sắc thuế này
trong hoàn cảnh thực tế, phù hợp với khả năng áp dụng có hiệu quả của nó. Đồng thời,
các sắc thuế đặt ra phải thống nhất với nhau trong mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt và
lợi ích lâu dài, giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của các tổ chức, cá nhân nộp thuế,
giữa tích lũy và tiêu dùng...
Khi xây dựng hệ thống các sắc thuế ở nước ta cần quán triệt các nội dung sau: (1) –
Đặt ra các sắc thuế với tỷ lệ nhất định phải phù hợp với điều kiện phát triển của từng
ngành nghề, từng loại hình doanh nghiệp, đồng thời phải cân nhắc tới sự ảnh hưởng của
thuế đối với giá cả hàng hóa tiêu dùng; (2) – Chú trọng hồn thiện một số sắc thuế có tỷ
9
trọng lớn hơn trong tổng số thu ngân sách nhằm đảm bảo nguồn thu ổn định cho Ngân
sách Nhà nước như: Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu; thuế thu nhập cá
nhân...; (3) – Khi thiết lập các sắc thuế chỉ nên đặt mỗi sắc thuế một mục đích chính, cịn
các mục đích khác của sắc thuế nếu có là do mục đích chính đem lại; (4) – Hoàn thiện hệ
thống pháp luật thuế theo hướng mở rộng diện thu, giảm số lượng thuế suất ở mức hợp
lý, vừa phải, khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp và dân cư thực hành mở rộng đầu
tư, thuận tiện cho cơng tác thu nộp thuế. Đồng thời cũng hồn thiện hệ thống pháp luật
thuế theo hướng giảm dần các diện được miễn giảm thuế nhưng tránh miễn giảm thuế
một cách tràn lan dẫn đến xói mịn nguồn thu ngân sách; (5) – Khi xác định cơ cấu các
sắc thuế cần xác định rõ ranh giới điều tiết của từng đối tượng. Trên cơ sở đó có thể đưa
thêm những sắc thuế cần thiết hoặc bớt đi một vài sắc thuế khơng phù hợp.
- Thiết lập và hồn thiện các sắc thuế phù hợp với tính chất của từng loại thuế.
Biện pháp này gắn liền với từng loại thuế cụ thể.
2. 2/ Các giải pháp cụ thể
a/ Về thuế xuất, nhập khẩu
Hồn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hồn thiện pháp luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu nói riêng là q trình hoạt động thực tiễn mang tính đặc thù của các nhà
lập pháp. Hoạt động này vừa đòi hỏi các chủ thể thực hiện phải tuân thủ một số ngun
lý nhất định mang tính lý thuyết, vừa địi hỏi phải tính đến khía cạnh thực tiễn của q
trình phát triển khách quan của pháp luật.
Pháp luật về thuế xuất nhập khẩu (2005) cần phải có những chính sách tích cực để
khuyến khích tối đa sản xuất hàng xuất khẩu; thực hiện cam kết quốc tế đồng thời bảo
hộ sản xuất trong nước có chọn lọc, có thời hạn trong thời gian chưa phải cắt giảm thuế
theo cam kết quốc tế; góp phần tăng cường quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu; chống
lại các biện pháp trợ giá, bán phá giá hàng nhập khẩu vào Việt Nam và phân biệt đối xử
với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, thu gọn mức thuế suất một cách hợp lý. Cụ thể
là:
Trước hết, cần xây dựng lại biểu thuế nhập khẩu phù hợp với những cam kết cắt
giảm thuế quan trên cơ sở phân tích, đánh giá một cách cụ thể năng lực cạnh tranh của
các ngành kinh tế hiện có và các ngành kinh tế mũi nhọn, có khả năng phát triển trong
tương lai với những lợi thế mà ngành đó có thể đem lại trong q trình hội nhập. Biểu
thuế nhập khẩu cần có tác dụng bảo hộ hợp lý, có điều kiện, có thời hạn đối với một số
ngành hàng hóa cần thiết phải bảo hộ như:
- Cắt giảm thuế quan đối với những mặt hàng khơng có tiềm năng phát triển trong
tương lai.
10
- Bên cạnh đó, cần bảo hộ một số nhóm sản phẩm của các ngành sản xuất có ý
nghĩa chiến lược nhựng hiện còn thiếu sức cạnh tranh như: lúa gạo, dược phẩm, sản
phẩm máy móc phụ tùng nơng nghiệp…
Thứ hai, để bảo vệ sản xuất trong nước, trong hệ thống các quy định về thuế xuất
nhập khẩu cần nghiên cứu, ban hành một số văn bản pháp quy về một số loại thuế khác
như:
- Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Đây là loại thuế nhằm mục đích bảo
vệ thị trường nội địa khi nhập những hàng hóa phá giá, hàng hóa dược trợ cấp. Hàng
nhập phá giá là những hàng hóa được đưa vào thị trường trong nước với mức giá thấp
hơn hơn rất nhiều so với “giá thông thường” được bán trên thị trường của nước nhập
khẩu. Nhờ thuế chống bán phá giá mà Nhà nước có thể nâng giá những hàng hóa này
lên ngang mức trung bình trên thị trường quốc tế và đảm bảo đem lại nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước.
- Thuế đối kháng (thuế chống phân biệt đối xử), được áp dụng như một biện pháp
bảo vệ trong những trương hợp sau: (1) Bảo vệ thị trường nội địa nếu nhập những hàng
hóa với số lượng nhất định mà gây thiệt hại cho sản xuất trong nước; (2) Hành vi trả đũa
hoặc thực hiện trừng phạt đối với những biện pháp phân biệt đối xử của những nước
tham gia vào mối quan hệ đối ngoại khi vi phạm lợi ích của nhau hoặc lợi ích của các
doanh nghiệp trong nước; (3) Đây là một phương thức ngăn chặn các hành vi cạnh tranh
khơng thiện chí của các cơng ty nước ngồi.
Việc ban hành các loại thuế này là hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn
cũng như các nguyên tắc hội nhập, thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cần phải lưu ý đến các vấn đề có tính
lý luận và thực tiễn sau: (1) việc xây dựng và hoàn thiện về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu phải xuất phát từ cơ sở chính trị - pháp lý là quan điểm, đường lối chính sách phát
triển kinh tế - xã hội của Đảng và chiến lược xây dựng pháp luật của Nhà nước; (2) việc
xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải xuất phát từ
hoàn cảnh thực tế của đất nước trong giai đoạn hiện tại và bối cảnh hội nhập quốc tế
của Việt Nam; (3) việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu phải xuất phát từ những hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành về thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu ở Việt Nam
b/ Về thuế giá trị gia tăng (GTGT)
Thuế GTGT (2008) là một trong những loại thuế gián thu điều tiết một phần vào
thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa dịch vụ. Mọi tổ chức, cá nhân thơng qua việc
tiêu dùng hàng hóa dịch vụ thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Do đó, thuế
GTGT có tính trung lập cao, diện điều chỉnh rộng và tương lai sẽ trở thành sắc thuế chủ
11
yếu, chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu ngân sách và sẽ bù đắp được nguồn thuế nhập
khẩu khi cắt giảm thuế quan theo cam kết hội nhập. Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay cho
thấy, pháp luật về thuế GTGT chưa đảm bảo nguyên tắc minh bạch; những vấn đề liên
quan đến phạm vi áp dụng cũng như liên quan đến thuế suất và nguyên tắc công bằng
của Luật thuế GTGT chưa được giải quyết triệt để. Để thực hiện tốt chức năng của
mình, sắc thuế này cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng:
- Mở rộng đối tượng chịu thuế, giảm bớt số nhịm hàng hóa, dịch vụ khơng chịu
thuế nhằm ổn định nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và tạo điều kiện cho việc tính
thuế, khấu trừ thuế được liên hồn giữa các khâu trong q trình sản xuất, kinh doanh.
- Giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp, khuyến khích xuất khẩu hàng hóa,
dịch vụ.
- Tiến tới áp dụng một mức thuế suất để đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế và
đơn giản trong việc tính thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ.
- Nghiên cứu hồn thiện các phương pháp tính thuế để bảm bảo công bằng và tránh
hiện tượng trốn thuế, lậu thuế; nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế của cơ quan
thuế và giảm chi phí cho người nộp thuế.
c/ Về thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt (2008) là loại thuế gián thu vào một số hàng hóa, dịch vụ mà
Nhà nước cần điều tiết thu nhập và hạn chế hướng dẫn tiêu dùng, phù hợp với thông lệ
quốc tế. Hướng sửa đổi, bổ sung cho loại thuế này là:
- Mở rộng hơn nữa đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số hàng hóa,
dịch vụ tiêu dùng cao cấp và một số hàng ngoại trên cơ sở phân loại chính xác các nhóm
mặt hàng cần thực hiện chủ trương điều tiết đúng hướng sản xuất, tiêu dùng và phân
phối thu nhập.
- Điều chỉnh lại mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt cho phù hợp với mục tiêu điều tiết
thu nhập và hướng dẫn tiêu dùng.
- Nghiên cứu để tiến tới xóa bỏ quy định miễn, giảm thuế nhằm đảm bảo công
bằng về nghĩa vụ thuế và phù hợp với thông lệ quốc tế.
d/ Về thuế thu nhập doanh nghiệp
Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu, thu vào phần thu nhập của các cơ
sở sản xuất kinh doanh nhằm thực hiện các mục tiêu tạo nguồn thu lớn cho NSNN,
quản lý và điều tiết nền kinh tế, thu hút các nguồn vốn đầu tư, khuyền khích xuất khẩu,
đổi mới công nghệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện chính sách xa hội…
Tuy đã tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng để đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc hội nhập và phát triển, thuế thu nhập doanh nghiệp (2008) cần phải tiếp tục hoàn
thiện hơn nữa theo các hướng sau:
12
Thứ nhất, về đối tượng nộp thuế: phải chuyển toàn bộ các hộ sản xuất kinh doanh
cá thể, những cá nhân hành nghề độc lập, những cá nhân có tài sản cho thuê sang áp
dụng thuế thu nhập cá nhân. Khi đó, pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp của Việt
Nam sẽ đúng với tên gọi của nó và đảm bảo tính tương đối đơng bộ với pháp luật thuế
thu nhập công ty ở các nước khác. Mặt khác, việc đưa các cá nhân kinh doanh ra khỏi
đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp vừa đảm bảo sự công bằng giữa các đối
tượng nộp thuế là cá nhân có thu nhập, vừa đảm bảo thuận tiện hơn cho công tác quản
lý thu nộp thuế.
Thứ hai, áp dụng mức thuế suất phổ thông chung cho tất cả các chủ thể kinh
doanh, các hình thức đầu tư khơng phân biệt để bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ thuế và
cạnh tranh trong cơ chế thị trường, phù hợp với cam kết quốc tế. Cụ thể, giảm mức thuế
suất thu nhập doanh nghiệp từ 28% xuống 25% và sau năm 2010 có thể áp dụng mức
thuế suất 20% để bảo đảm sự cơng bằng, bình đẳng cho mọi cơ sở kinh doanh trong
nước và nước ngồi, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũ và mới. Việc điều chỉnh
theo hướng này sẽ khuyến khích các cơ sở kinh doanh tích cực mở rộng và tăng vốn đầu
tư. Đồng thời tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tin tưởng vào chính
sách thuế của Nhà nước ta.
Thứ ba, rà soát lại chế độ ưu đãi miễn, giảm thuế theo hướng trọng tâm, hướng các
biện pháp ưu đãi khuyến khích vào các mục tiêu phát triển kinh tế.
Thứ tư, cần có sự phân tách giữa thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ đầu tư gián
tiếp để xác định thu nhập chịu thuế và áp dụng chính sách khuyến khích riêng theo
hướng ưu đãi về mặt thuế suất.
Thứ năm, luật thuế thu nhập doanh nghiệp có thể tham khảo, học hỏi kinh nghiệm
của các nước hiện nay về những quy định về hạn chế và tiến đến xóa bỏ ưu đãi thuế
nhằm mang lại sự cạnh tranh lành mạnh cho tất cả các công ty tham gia vào hoạt động
giao dịch quốc tế.
e/ Thuế thu nhập đối với người thu nhập cao (thuế thu nhập cá nhân)
Thuế thu nhập cá nhân (2007) cùng với thuế thu nhập doanh nghiệp là hai loại thuế
trực thu chủ yếu trong hệ thống pháp luật thuế. Là sắc thuế thể hiện trách nhiệm, nghĩa
vụ đóng góp của mọi cá nhân cho ngân sách Nhà nước. Hướng lâu dài là phải nâng cao
tỷ trọng thuế trực thu trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, cũng như đối với
doanh nghiệp, trình độ kinh tế, nguồn thu nhập của đại bộ phận dân cư nước ta cịn thấp.
Vì vậy, giải pháp để phát huy vai trị của loại thuế này nói riêng và hệ thống pháp luật
thuế nói chung là vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp vừa mở rộng diện động viên một
phần thu nhập của mọi cá nhân vào ngân sách Nhà nước, góp phần thực hiện cơng bằng
xã hội, đặc biệt là điều tiết vào thu nhập cao do việc phân hóa thu nhập trong xã hội,
13
nâng cao vị trí của sắc thuế này trong hệ thống pháp luật thuế. Để làm được điều này
cần phải:
- Tiếp tục sửa đổi các quy định về thuế thu nhập cá nhân cho phù hợp Luật thuế thu
nhập cá nhân. Cụ thể như sau:
+ Mở rộng đối tượng chịu thuế trên cơ sở bổ sung thêm thu nhập của các hộ kinh
doanh, thu nhập của những người hành nghề độc lập, thu nhập của những người có tài
sản cho thuê, thu nhập từ việc cho vay vốn, thu nhập từ lãi cổ phần, từ trái phiếu, từ tiền
gửi ngân hàng của cá nhân…vào đối tượng chịu thuế.
+ Mở rộng đối tượng nộp thuế trên cơ sở bổ sung thêm những hộ kinh doanh,
những người có tài sản cho thuê, những người hành nghề độc lập, những người có thu
nhập từ việc cho vay vốn và mở rộng đối tượng nộp thuế bằng cách hạ mức khởi điểm
chịu thuế và thuế suất.
- Thu hẹp dần khoảng cách khởi điểm chịu thuế giữa người trong nước và người
nước ngoài.
f/ Thế tài nguyên
Để pháp luật thuế tài nguyên phát huy hiệu quả các vai trị của mình, các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật thuế cần phải nghiêm chỉnh thực hiện các giải pháp sau:
Một là, Nhà nước cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung những điểm không phù hợp
của Luật thuế tài nguyên. Trên cơ sỏ đó, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành thống nhất để tránh tính trạng các
quy định của pháp luật thuế tài nguyên hiện quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác
nhau vữa phức tạp chồng chéo, vừa mâu thuẫn và khơng đảm bảo tính pháp chế.
Hai là, phải tiếp tục mở rộng đối tưọng chịu thuế trên nguyên tắc tất cả các loại tài
nguyên thiên nhiên khai thác đều phải chịu thuế.
Ba là, cần quy định lại giá tính thuế đối với tài nguyên thiên nhiên phải là giá do
Nhà nước quy định. Việc quy định giá tính thuế như vậy phản ánh đúng tính chất của
loại thuế này. Đồng thời, để đơn giản hóa việc tính thuế tài nguyên, hạn chế những tiêu
cực xảy ra, nâng cao hiệu quả quản thuế.
Bốn là, quy định lại mức thuế suất tài nguyên hướng tơi mục tiêu tăng thu NSNN
và nhằm bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Việc xác định mức thuế suất tài nguyên đối với
từng loại tài nguyên cần dựa vào các yếu tố như: (1) tính chất quý hiến của tài nguyên
khai thác; (2) điều kiện khai thác, vận chuyển; (3) yêu cầu quản lý Nhà nước đối với
từng loại tài ngun. Ngồi ra, cịn tính đến thông lệ quốc tế và đối sách thị trường tiêu
thụ.
Năm là, sửa đổi một số quy định về miễn, giảm thuế tài ngun. Rà sốt lại tồn bộ
những trường hợp miễn, giảm thuế tài nguyên trong pháp luật hiện hành cần thiết phải
14
thu hẹp và có thể loại bỏ các trường hợp miễn giảm thuế để bảo đảm sự bình đẳng, cơng
bằng cho các tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên. Việc làm này nhằm tăng
nguồn thu NSNN và đơn giản hóa pháp luật thuế tài nguyên.
Sáu là, cần tăng cường công tác quản lý thuế tài nguyên, cần có sự phối hợp chặt
chẽ giữa các cơ quan ban ngành và các địa phương trong quản lý và thu thuế tài nguyên
khác.
g/ Về thuế sử dụng đất
Đất đai là một tài ngun có một vị trí vơ cùng quan trọng, là cơ sở của hạ tầng sản
xuất và đời sống; là tư liệu sản xuất đặc biệt của sản xuất nơng nghiệp. Các chính sách
thuế liên quan đến đất đai phải nhằm góp phần và quản lý, sử dụng đất đai hợp lý, tiết
kiệm, có hiệu quả, đồng thời tăng tỷ trọng các nguồn thu này trong tổng thu NSNN.
Theo hướng nêu trên, mọi tổ chức, cá nhân sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất hoặc
tiền thuê đất, nộp thuế sử dụng đất. Mọi hoạt động chuyển nhượng đất đều phải được
điều tiết thu nhập vào Ngân sách Nhà nước. Luật thuế sử dụng đất cần phải được sửa
đổi theo hướng:
- Mọi tổ chức, cá nhân sử dụng đất đều phải nộp thuế sử dụng đất (trừ trường hợp
cho thuê đất). Đất được sử vào mục đích kinh doanh phải được tiều tiết cao hơn đất ở,
đất xây dựng cơng trình; đất ở, đất xây dựng cơng trình thu cao hơn đất sử dụng vào
mục đích nơng nghiệp, lâm nghiệp, ni trồng thủy sản.
- Căn cứ tính thuế là: diện tích, giá tính thuế, thuế suất. Giá tính thuế được xác định
theo giá các loại đất do UBND tỉnh, thành phố quy định sát với giá thị trường.
h/ Về luật quản lý thuế
Trong thời gian tới, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần hồn thiện hơn nữa
Luật quản lý thuế (2006) để quy định cụ thể hơn về cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của
các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý thuế; pháp điển hóa các quy định về
nghiệp vụ, quy trình quản lý thuế nằm rải rác trong rất nhiều văn bản. Luật cần mở rộng
thêm nhiệm vụ, quyền hạn cho cơ quan thuế. Ví dụ như: trao quyền khởi tố, điều tra
một số loại tội phạm nhất định trong lĩnh vực thuế cho các cơ quan thuế. Luật này cũng
cần có các quy định tạo cơ sở pháp lý cho cơ chế điều hành thu thuế theo hướng chủ thể
nộp thuế tự khai, tự tính, tụ nộp thuế.
k/ Về kĩ thuật lập pháp
Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính cần phối hợp tiến hành tổng rà soát lại hệ thống các
văn bản pháp quy hiện có liên quan đến hệ thống pháp luật thuế để từ đó đánh giá sự
đồng bộ và mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam đối với đòi hỏi của các Hiệp
định mà chúng ta đã kí kết nói riêng và u cầu của hội nhập nói chung làm định hướng
cho việc hồn thiện pháp luật thuế.
15
3. Nhận xét
Trên đây là những đề xuất nội dung cơ bản cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
thuế theo định hướng chiến lược phát triển kinh tế xa hội của nước ta. Việc nghiên cứu
những nội dung cơ bản hồn thiện pháp luật thuế này có ý nghĩa quan trong trong việc
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hoàn thiện pháp luật thuế trên thực tế. Chỉ trên cơ sở
xây dựng định hướng đúng đắn, khoa học, giải quyết thỏa đáng những vấn đề lý luận và
thực tiễn trong việc ban hành các quy phạm pháp luật thuế mới tạo ra khả năng xây
dựng được một hệ thống pháp luật thuế mang nhân tố khoa học, hợp lý. Tuy nhiên, vấn
đề hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế ở nước ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế vẫn là một nhu cầu bức thiết của nước ta hiện nay. Việc
nghiên cứu để xác lập định hướng và nội dung cơ bản để hoàn thiện hệ thống pháp luật
thuế là hoạt động thiết thực, cần phải được thực hiện ngay. Chỉ có như vậy, vai trị của
pháp luật thuế mới được đảm bảo.
C. KẾT LUẬN
Trên cơ sở những vấn đề được trình bày ở trên, có thể kết luận rằng, việc sửa đổi,
bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế là hết sức cần thiết. Bởi sự sửa đổi đó
khơng chỉ góp phần tăng cường vai trị của pháp luật thuế trong hoạt động thu ngân
sách, nhằm từng bước thay thế sự sút giảm các loại thuế khác trong q trình hội nhập
kinh tế quốc tế mà cịn đảm bảo tốt hơn nữa sự công bằng trong nghĩa vụ đóng thuế thu
nhập, từng bước góp phần hạn chế khoảng cách giàu nghèo ngày càng có xu hướng gia
tăng trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc ban hành và hoàn thiện
hệ thống pháp luật thuế ở thời điểm hiện nay là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn kinh tế
quốc dân và phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước ta.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà
Nội năm 2008
2. Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tài chính, Hà Nội năm 2007
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Khóa luật tốt nghiệp, Nguyễn Văn Trung, “Hoàn
thiện pháp luật thuế ở Việt Nam nhằm đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế”, Hà Nôi
2004.
4. “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
thuế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đề tài khoa học cấp trường
năm 2008.
5. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005
6. Luật thuế GTGT năm 2008
7. Luật thuế TTĐB năm 2008
8. Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008
9. Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007
Cùng một số website và tài liệu khác...
17