MỞ ĐẦU
Gần đây cộng đồng đang xôn xao với những thông tin mà báo chí đăng tải, đặc biêt
là các tín đồ cuả báo mạng không còn xa lạ với nhg tin tức ''hot'' như ''đám cưới Hà Hồ
năm 17 tuổi, clip sự thật về cuộc thi Giọng hát Việt... hay hình ảnh của anh A bị công an
đang xử phạt và bị báo chí đăng hình ảnh lên mạng, ap-phich nhằm tuyên truyền việc ''đã
uống bia rượu thì không điều khiển xe cơ giới...'' Cụ thể nội dung của các bài báo này là
việc Hồ Ngọc Hà đã kết hôn năm 17 tuổi vì có thai hay vì tiền, ban tổ chức ch ương trình
Giong hát Việt có gian lận trong tuyển sinh...nhưng người ta cũng không quên đặt ra vấn
đề là các bài báo này có xâm phạm đến quyền bí mật đời tư của công dân hay không?
Việc đám cưới năm 17 cuả Hà Hồ có phải là bí mật đời tư? Việc email của Phương Uyên
bị người khác chụp chộm, việc sử dụng hình ảnh của anh A để tuyên truyền có phải là
xâm phạm bí mật đời tư? Pháp luật trao cho báo chí quyền tự do thông tin báo chí nhưng
mặt khác pháp luật lại bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá nhân. Các vụ việc nêu trên đều
thể hiện mối quan hệ này. Vì vậy để tìm hiểu và giả đáp tất cả những vấn đề này nhóm
em chọn đề tài '' sưu tầm hai vụ việc để phân tích về mối quan hệ giữa quyền bí mật
đời tư của cá nhân và quyền tự do thông tin của báo chí. Đưa ra bình luận, kiến nghị
của nhóm”.
NỘI DUNG
I.
Khái quát chung
1. Khái niệm.
a, Quyền bí mật đời tư
Điều 38 BLDS 2005 qui định:“1. Quyền bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và
được pháp luật bảo vệ.2. Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư của cá nhân
phải được người đó đồng ý; trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi
dân sự, chưa đủ mười lăm tuổi thì phải được cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên hoặc
người đại diện của người đó đồng ý, trừ trường hợp thu thập, công bố thông tin, tư liệu
theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.3. Thư tín, điện thoại, điện tín, các
hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật. Việc kiểm
soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được
thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.”.
Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể nào về khái niệm “ bí mật đời
tư” . quy định trên của BLDS cũng không phải là khái niệm quyền bí mật đời tư mà chỉ là
“quyền bí mật đời tư được nghi nhận như thế nào trong BLDS Việt Nam”. Vì vậy mà
hiện có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đề cập đến khái niệm bí mật đời tư. Theo cuốn
Đại từ điển Tiếng Việt thì bí mật được giải thích là “giữ kín, không để lộ ra, không công
khai”2. Một cách giải thích khác thì cho rằng: Bí mật “là thông tin cần che giấu, chỉ để
một số nhất định những người có liên quan được biết. Những thông tin được xác định là
bí mật chỉ mang ý nghĩa tương đối. Dưới góc độ này hay đối với một bên thì nó có thể
cần phải che đậy, giữ kín, nhưng dưới góc độ khác, đối với bên khác nó có thể không cần
che giấu. Tính bí mật có được do những gì chứa đựng trong thông tin đó có liên quan đến
một điều gì đó mà nếu để người không có nhiệm vụ biết thì có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu,
gây thiệt hại cho bên cần che giấu....
Theo quan điểmc của thầy TS. Lê Đình Nghị thì “Bí mật đời tư là những thông
tin, tư liệu (gọi chung là thông tin) về tinh thần, vật chất, quan hệ x ã hội hoặc những
thông tin khác liên quan đến cá nhân trong quá khứ cũng như trong hiện tại, được pháp
luật bảo vệ và những thông tin đó được bảo mật bằng những biện pháp mà pháp luật
thừa nhận”1 và nhóm cũng đồng tình với khái niệm của thầy Nghị đưa ra.
b, Quyền tự do báo chí
Tự do báo chí là quyền cơ bản của công dân, không chỉ được ghi nhận tại điều 69 Luật
hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 mà còn được
ghi nhận cả trong Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp, các điều ước
quốc tế, vv. Ngoài ra, quyền tự do báo chí còn được quy định tại luật báo chí năm 1989
sửa đổi năm 1999.. Điều 4. Quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của
công dân Công dân có quyền :Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất
nước và thế giới ;Tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,
bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân
nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin ;Phát biểu ý kiến về tình
hình đất nước và thế giới ;Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ;Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu
nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
và thành viên của các tổ chức đó.
Tự do báo chí là những quyền tự do dân chủ là quyền nhân dân làm chủ. Nghĩa là
người dân được tự do về lời nói, thông tin, có quyền đưa ra những ý kiến của mình mà
không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào, có thể là những nhận xét, phán xét về các cơ quan
nhà nước, có thể là những câu nói, những bài báo viết về các lĩnh vực, ... Tuy nhiên, xét
trên khía cạnh áp dụng vào thực tế thì không phải tự do ngôn luận, tự do báo chí là muốn
nói gì thì nói, muốn viết gì thì viết mà tự do ngôn luận, tự do báo chí bị hạn chế khi nó
trái với các quyền và gí trị khác, nên quyền tự do này cũng được giới hạn theo quy định
của pháp luật.
2. Mối quan hệ giữa quyền bí mật đời tư của cá nhân và quyền tự do thông tin
của báo chí
.
Đây là hai quyền nhân thân được ghi nhận trong BLDS 2005 và giữa chúng có mối
quan hệ với nhau. Theo điều 38 BLDS, Việc thu thập, công bố thông tin, tư liệu về đời tư
của cá nhân phải được người đó đồng ý . Bên cạnh đó, Luật báo chí cũng đã quy định rõ
1
Bàn về khái niệm quyền bí mật đời tư. TS. Lê Đình Nghị – Giảng viên Khoa Luật Dân sự – Trường Đại
học Luật Hà Nội
quyền hạn của báo chí cũng như các nhà báo trong việc công bố tài liệu, thông tin nhằm
đảm bảo quyền tự do ngôn luận nhưng không được làm hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân.
Ngòai ra, theo quy chế dẫn nguồn tin do Bộ thông tin và Truyền thông ban hành
tháng 12/2008, Bộ đã nhấn mạnh: “cơ quan báo chí phải đảm bảo tính nguyên vẹn , chính
xác của thông tin được cung cấp, không được đăng phát những thông tin về nhân thân và
các mối quan hệ của cá nhân trong các vụ án, vụ việc tiêu cực khi không có căn cứ cho
rằng những nhân thân và các mối quan hệ đó liên quan đến vụ án, vụ việc tiêu cực hoặc
chưa có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, làm ảnh hưởng xấu đến đời tư
của công dân2.
Quyền tự do thông tin báo chí có thể hiểu là báo chí có quyền đưa mọi thông tin
đến độc giả một cách thiết thực nhất. Quyền tự do báo chí tuy được quy định theo hướng
rất mở rộng trong luật báo chí nhưng phải được hiện trên khuôn khổ của pháp luật và
không xâm hại đến những quyền lợi khác được pháp luật bảo vệ, trong đó có cả quyền bí
mật đời tư. Tuy công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, song bí mật đời tư của
mỗi cá nhân là quyền của mỗi cá nhân, phải được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
việc công bố thông tin, tư liệu về đời tư của mỗi cá nhân phải được người đó đồng ý, hoặc
trong trường hợp người đó đã chết, mất năng lực hành vi dân sự, chưa đủ 15 tuổi thì phải
được cha, mẹ, vợ, chồng con đã thành niện hoặc người đại diện cảu người đó đồng ý, trừ
trường hợp thu thập hoặc công bố thông tin , tư liệu theo quyết định của cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền.
Như vậy có thể thấy giữa quyền bí mật đời tư và quyền tự do báo chí có mối quan
hệ xung đột. Bởi quyền bí mật đời tư không chỉ hạn chế giới hạn quyền tự do thông tin
của báo chí trong một phạm vi nhất định, mà ngược lại, chính quyền tự do thông tin báo
chí lại là phương tiện quan trọng mà qua đó khiến mỗi cá nhân, công dân, đặc biệt là
những người nắm giữ các chức danh quan trọng, những người có sức ảnh hưởng đến xã
hội như nghệ sỹ, người của công chúng phải có trách nhiệm hơn trong chính đời tư của
mình.
II. Hai vụ việc về mối quan hệ giữa quyền bí mật đời tư của cá nhân và quyền
tự do thông tin của báo chí
1. Vụ việc thứ nhất (3)
Tóm tắt vụ việc:
Ông Trần Tiến Đức, ngụ tại phường 10, quận Phú Nhuận, TP Hồ Chí Minh được
Toà án Nhân dân quận Phú Nhuận xử cho ly hôn với vợ của ông là bà N.T.T vào ngày
15/12/1994. Tháng 10 năm 1996, Nhà xuất bản Trẻ phối hợp với Báo Tuổi Trẻ xuất bản
cuốn “Ký sự pháp đình”, tác giả là nhà báo Thuỷ Cúc, trong đó có bài “Tổ ấm”. Đây là
bài ký sự, có nội dung viết về phiên toà ly hôn của ông Trần Tiến Đức, mặc dù họ tên của
nguyên đơn đã được viết tắt là T.T.Đ.
2
3
/> />
Sau khi cuốn sách được phát hành, thông qua một ng ười bạn, được ông Đức biết nội
dung bài báo và giữa năm 2006, ông Trần Tiến Đức đ ã khởi kiện vụ án xâm phạm đời tư
tại Toà án nhân dân Quận 3, TP Hồ Chí Minh đối với các đồng bị đơn: Nhà xuất bản Trẻ,
Báo Tuổi Trẻ và nhà báo Thuỷ Cúc. Ông Đức cho rằng mình đã bị xâm phạm bí mật đời
tư khi bài “Tổ ấm” đề cập đến quá khứ của bà N.T.T (vợ cũ của ông) và quyền truy nhận
cha cho con của ông, bên cạnh đó nhà báo Thuỷ Cúc còn nêu quan điểm cá nhân xúc
phạm đời sống riêng tư của ông Đức... Ông Đức đưa ra yêu cầu: Cấm tái bản, cấm lưu
hành “Tổ ấm”, đăng cải chính xin lỗi trên báo, bồi thường tinh thần bằng tiền theo mức
cụ thể như sau: tác giả (nhà báo Thuỷ Cúc) bồi thường 3 triệu đồng, Nhà xuất bản Trẻ và
Báo Tuổi Trẻ mỗi đơn vị 3,5 triệu đồng.
Phản bác lại những yêu cầu của nguyên đơn, đại diện của nhà báo Thuỷ Cúc cho
rằng: yêu cầu của nguyên đơn là vô lý, không thể chấp nhận được. Bài viết “Tổ ấm” là ấn
phẩm ký sự pháp đình, không bôi nhọ danh dự, nhân phẩm cũng nh ư bí mật riêng tư của
ai – những thông tin đã công khai tại phiên toà chứ không phải là bí mật đời tư. Bài viết
đã được “gọt rũa” cẩn thận, đã viết tắt tên của những người liên quan.
Nhà xuất bản Trẻ không đồng ý đăng cải chính trên báo bởi theo Nhà xuất bản trẻ,
“bí mật” là những gì không được công khai, mặt khác đây là bài viết dạng ký sự nên tác
giả có thể lồng thêm ý kiến cá nhân vào.
Đại diện Báo Tuổi Trẻ trình bày: Báo Tuổi Trẻ không đăng bài báo này trên Báo
Tuổi Trẻ và cũng không liên kết với Nhà xuất bản Trẻ phát hành ấn phẩm nêu trên nên
không liên quan đến việc xúc phạm ông Đức và yêu cầu được đưa ra khỏi vụ kiện.
Về phía nguyên đơn, ông Đức có đưa ra một số tranh luận:
Thứ nhất, cuốn “Ký sự pháp đình” có bài viết “Tổ ấm” là ấn phẩm của Báo Tuổi Trẻ
vì trên trang bìa của cuốn sách có in logo của Báo Tuổi Trẻ, trong cuốn sách: “Nhà xuất
bản Trẻ và Báo Tuổi Trẻ phối hợp”. Do đó, đây chính là sự liên kết giữa hai đơn vị này
nên cả hai phải liên đới bồi thường.
Ông Đức đưa ra ý kiến: đối với nhà báo Thuỷ Cúc, mặc dù tên nhân vật trong bài
báo đã được viết tắt, nhưng lại đề cập đến công việc và con ng ười của ông, sự đề cập đó
để mọi người nhận ra ông khi đọc bài viết đó. Thậm chí, bài viết c òn vẽ hình biếm hoạ ba
đứa con của ông - đó là sự xúc phạm. Ông Đức cũng cho rằng nếu bài viết trong ấn phẩm
này tiếp tục được phát hành sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của các con ông về sau.
Tòa án Nhân dân Quận 3 TP.HCM nhận định: Hội đồng xét xử ba đồng bị đơn là
nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ đã có hành vi xâm phạm đời tư của
ông TTĐ và đã quyết định: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là ông Trần Tiến Đức,
buộc nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ phải đăng lời cải chính trên
Báo Tuổi Trẻ 1 kỳ/1 bị đơn; buộc ba đồng bị đơn phải liên đới bồi thường cho ông Đức
1,75 triệu đồng tiền tổn thất về tinh thần (Nhà báo Thuỷ Cúc 1 triệu đồng, Nhà xuất bản
Trẻ 500 nghìn đồng và Báo Tuổi Trẻ 250 nghìn đồng). Ngoài ra, Hội đồng xét xử cũng
tuyên buộc Nhà xuất bản Trẻ không được lưu hành, không được tái bản cuốn Ký sự pháp
đình của nhà báo Thuỷ Cúc có bài viết “Tổ ấm”.
Không đồng ý với phán quyết của Toà án cấp s ơ thẩm, các đồng bị đơn đã kháng
cáo với lý do: Bản án sơ thẩm được tuyên không có căn cứ pháp luật; Hội đồng xét xử đã
tự “sáng tác” luật, lạm quyền trong khi xét xử bởi vì pháp luật chưa có định nghĩa thế nào
là bí mật đời tư, mặt khác những thông tin được công khai tại phiên tòa không thể xem là
“bí mật”. Ngoài ra, tác phẩm “Tổ ấm” của nhà báo Thuỷ Cúc không đề cập cụ thể đến tên
của ông Trần Tiến Đức…
Với những nhận định tương tự như Toà án cấp s ơ thẩm, Hội đồng xét xử cấp phúc
thẩm đã bác kháng cáo của các đồng bị đơn, y án sơ thẩm.
•
Bình luận vụ việc và hướng giải quyết của nhóm:
Trong vụ việc trên, có thể thấy một vấn đề lớn đặt ra hiện nay đó là: các vụ việc
được giải quyết tại Tòa án, và theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thì
các đương sự phải có nghĩa vụ đưa ra các chứng cứ để chứng minh, cung cấp chứng cứ,
tài liệu cho Tòa án. Nhưng những chứng cứ, tài liệu đó nếu bình thường không được công
bố thì có thể thuộc về bí mật riêng tư của chủ sở hữu thông tin, tài liệu. Tuy nhiên sau khi
những thông tin đó được Hội đồng xét xử nêu ra tại T òa thì có thể còn được coi là bí mật
nữa không? Và việc những thông tin, tài liệu đó được đưa ra tại tòa, tranh luận, phân tích
thì báo chí có được quyền đăng tải và có phải xin phép chủ sỡ hữu thông tin hay không ?.
Trong vụ việc nêu trên, nhà báo Thủy Cúc khi tiến hành đăng tải những thông tin về
ông Trần Tiến Đức và gia đình, người thân của ông đã không có bất kỳ sự xin phép nào.
Các đồng bị đơn là nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ kháng cáo với
lý do những thông tin được công khai tại phiên tòa không thể xem là bí mật; tác phẩm
“Tổ ấm” của nhà báo Thuỷ Cúc không đề cập cụ thể đến tên của ông Trần Tiến Đức mà
họ tên của ông đã được viết tắt là T.T.Đ. Còn các cấp Tòa án của TP.HCM thì thống nhất
quan điểm, cho rằng nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ đã có hành vi
xâm phạm đời tư của ông Đức.
Như vậy, có sự khác nhau hoàn toàn trong quan điểm, lập luận giữa bên bị đơn và
Tòa án. Điều này xuất phát từ một nguyên nhân c ơ bản đó là luật thực định không có quy
định rõ ràng như thế nào là bí mật đời tư, và giới hạn những thông tin, hành vi đưa thông
tin của nhà báo như thế nào để không xâm phạm bí mật đời tư của công dân. Do đó sẽ
còn nhiều quan điểm trái chiều sau khi vụ án được xét xử và quyết định bản án có hiệu
lực pháp luật.
•
Quan điểm của nhóm và hướng giải quyết:
Thời điểm xảy ra vụ việc trên, báo chí đưa tin và đã có khá nhiều bình luận xoay
quanh kết quả giải quyết vụ việc, bình luận quy định của pháp luật hiện hành, trong đó có
nhiều ý kiến, đánh giá của các Luật sư, chuyên gia pháp lý. Theo đó nhiều quan điểm đưa
ra trái chiều nhau và có những lập luận riêng. Ở đây, nhóm cũng xin đưa ra quan điểm
ủng hộ cách giải quyết của Hội đồng xét xử sơ thẩm và phúc thẩm Tòa án nhân dân Quận
3 TP.HCM và Tòa án nhân dân TP. HCM; với những lý do như sau:
- Thứ nhất, Pháp luật hiện hành không quy định một cách rõ ràng, cụ thể về vấn đề
quyền bí mật đời tư, không đưa ra một khái niệm nào về bí mật đời tư; ngay tại thời điểm
ông Đức tiến hành khởi kiện vụ án, Bộ luật dân sự 2005 đã có hiệu lực nh ưng quy định về
vấn đề bí mật đời tư cũng không khác g ì so với Bộ luật dân sự 1995 . Tuy nhiên, dù luật
không đưa ra khái niệm bi mật đời tư nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng: bí mật đời tư
là những thông tin, tư liệu liên quan đến cá nhân mà cá nhân đó không muốn cho người
khác biết. Báo chí có quyền đưa tin, nhưng với những thông tin về bí mật đời tư của cá
nhân thì việc đưa tin phải được sự đồng ý của cá nhân đó. Về mặt ý chí, đương sự trong
vụ việc hoàn toàn không muốn tiết lộ hay công khai những thông tin về cá nhân, về gia
đình và thân nhân của mình, điều này sẽ ảnh h ưởng tới cuộc sống, sinh hoạt của họ. Báo
chí có quyền đưa tin đúng sự thật về bối cảnh, khung cảng, diễn biến vụ việc của một
phiên tòa diễn ra công khai; nhưng không thể viện lý do quyền được thông tin mà khai
thác đời tư của đương sự, đi bình luận về gia đình, thân nhân của họ. Cần phải hiểu là
công khai thông tin tại Toà án không đồng nghĩa với việc mất tính bảo mật của thông tin
đó.
Do đó, việc tòa án đưa ra xét xử công khai một vụ án là thẩm quyền của tòa đã được
pháp luật quy định. Tuy nhiên, tiến trình tố tụng này không đồng nghĩa với việc công bố
bí mật đời tư của những người liên quan. Do vậy, việc công khai chuyện riêng t ư của họ
trên các phương tiện truyền thông khi chưa được sự chấp thuận của họ là vi phạm pháp
luật...
Thứ hai, phía bên bị đơn là nhà báo Thuỷ Cúc, Báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ
không thể lập luận rằng bài viết “Tổ ấm” của nhà báo Thuỷ Cúc đã không đề cập cụ thể
đến tên của ông Trần Tiến Đức mà họ tên của ông đã được viết tắt là T.T.Đ. Bởi vì:
không phải không có ai nhận ra được câu chuyện và sự việc diễn ra trong bài viết, mà
người thân, hàng xóm ông Đức sẽ dễ dàng nhận ra ngay nội dung câu chuyện, ông Đức và
thân nhân, gia đình của ông. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt, cuộc sống
hàng ngày của ông Đức và người thân. Và bài viết này cũng không có hư cấu, thêm bớt
hay thay đổi tên địa danh, tên viết tắt của nhân vật cũng không được thay đổi, do đó mà
không thể một lý do là tên của ông Đức đã được viết tắt mà không xâm phạm bí mật đời
tư. Thêm vào đó, một sự vi phạm khác là trong bài viết còn vẽ hình biếm hoạ ba đứa con
của ông.
Thứ ba, về các căn cứ pháp lý, mặc dù pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể như
thế nào là bí mật đời tư, xác định được một cách r õ ràng ranh giới giữa thông tin được coi
là bí mật đời tư và thông tin không được coi là bí mật đời tư...Nhưng có thể vận dụng các
quy định pháp luật liên quan để có thể thấy được cơ sở pháp lý, chứng minh trong trường
hợp này phía bị đơn đã có sự xâm phạm bí mật đời tư của ông Đức.
Điều 25, Điều 38 Bộ luật Dân sự 2005 về quyền bí mật đời tư quy định: “Quyền bí
mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, công bố
thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân của cá nhân đó phải được người đó đồng ý…. Thư tín,
điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo an
toàn và bí mật…”. Như vậy, quyền bí mật đời tư là một trong những quyền nhân thân
được pháp luật tôn trọng, bảo vệ và khi muốn đăng tải, công bố thông tin về đời tư của
một cá nhân thì về mặt ý chí phải được cá nhân đó đồng ý.
Điều 13, Điều 161 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2005 có qui định trách nhiệm của cơ
quan, người tiến hành tố tụng, theo đó: “...3. Cơ quan, người tiến hành tố tụng dân sự
phải giữ bí mật nhà nước, bí mật công tác theo quy định của pháp luật; giữ gìn thuần
phong mỹ tục của dân tộc, giữ bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của
các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ.”
Luật Báo chí, Nghị định số 51/2002/NĐ – CP ngày 26/4/2002 của Chính Phủ h ướng
dẫn chi tiết thi hành Luật Báo chí, khi qui định về “Những điều không được thông tin
trên báo chí” có qui định: “... Không được đăng, phát tin bài ảnh hưởng xấu đến đời tư,
công bố tài liệu, thư riêng của cá nhân khi chưa được sự đồng ý của người viết thư,
người nhận thư hoặc người chủ sở hữu hợp pháp tài liệu, bức thư đó....”.
Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì theo quy định tại Điều 25 BLDS,
cá nhân có quyền: tự mình cải chính; hoặc yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai; và yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc
người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Tại Điều 161 Bộ luật tố tụng Dân sự cũng quy định trong trường hợp quyền bí mật
đời tư bị xâm phạm, cá nhân có quyền: “… tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án… tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình”.
Như vậy, với những lập luận trên đây, nhóm đưa ra quan điểm đồng t ình với cách
giải quyết của Tòa án, và cách giải quyết này là có cơ sở pháp lý.
2. Vụ việc thứ hai4
Tóm tắt vụ việc:
Tối 9/9/2012, ngay khi tập ba vòng Đối mặt chương trình Giọng hát Việt đang phát
sóng, cộng đồng mạng bắt đầu xôn xao về một clip được cho là chụp lại từ hộp thư điện
tử của giám đốc âm nhạc Phương Uyên . Clip được dựng khá công phu, dài 8 phút 25
giây với câu mở đầu: “Những thắc mắc mà báo chí chưa giải đáp về Giọng hát Việt sẽ
được trả lời tại đây”. Sau đó, người này đặt ra câu hỏi “Vì sao các thí sinh toàn hát tiếng
Anh?” và trả lời bằng cách chia sẻ một email được cho là gửi từ đội của Trần Lập đến
Phương Uyên: Trần Lập muốn đổi cho Bảo Anh - Thanh Thủy hát bài Giọt sương và
chiếc lá của Hồ Hoài Anh, vì e ngại các thí sinh hát tiếng Anh quá nhiều, nhưng “còn xa
lạ với số đông khán giả Việt Nam”. Song, Phương Uyên không đồng ý. Cô trả lời email:
“Thứ nhất, mình phải chọn bài hợp giọng. Thứ hai, bài đó chưa đủ đẳng cấp để hát trong
chương trình này”. Bên cạnh đó, người này đưa ra những bằng chứng cho thấy Giọng hát
Việt dàn dựng sẵn kịch bản để thí sinh nào bị loại và thí sinh nào đi vào vòng trong.
Trong một số email trao đổi giữa người được cho là Phương Uyên với các thí sinh, một số
email có tên người gửi là “Trang Ốc”, “Nguyen Linh”, “Đồng Lan”... đ ã “tâm sự” và
“năn nỉ” giám đốc âm nhạc tư vấn và chọn bài giúp.
Ngoài ra, còn có một cuộc đối thoại được cho là giữa Ph ương Uyên với một nhân
vật là giám đốc sản xuất chương tr ình của công ty Cát Tiên Sa và một thí sinh tên Linh...
4
/>
Ở phần cuối, tác giả của đoạn clip tiết lộ danh sách các thí sinh được sắp xếp sẵn sẽ đi
vào vòng liveshow ở 4 tập của vòng Đối đầu. Người này còn đăng rất nhiều hình ảnh của
Thiều Bảo Trang và cho rằng cô đã được Phương Uyên chọn để “gửi gắm” và đội Hồ
Ngọc Hà.
Sau đó ban tổ chức chương trình THE VOICE đã tổ chức một buổi họp báo công
khai để làm rõ vụ việc, tại buổi họp báo của ch ương trình, giám đốc âm nhạc Phương
Uyên đã thừa nhận nhân vật trong cuộn băng ghi âm lén kia những đoạn email được kẻ
xấu chụp lại từ email của mình. Nhạc sỹ ph ương uyên và ban tổ chức chương tr ình the
voice sẽ phối hợp với cơ quan công an để tìm ra người đã tung clip hãm hại minh.
Tuy chưa tìm ra được thủ phạm tung clip của Phương Uyên lên và phía nhạc sỹ
Phương uyên cũng không muốn kiện người hãm hại mình. Tuy nhiên từ vụ việc này
chúng ta sẽ tìm hiểu xem việc xâm phạm bí mật đời tư cá nhân của người khác trong vụ
việc này có phải là vi phạm pháp luật không, đứng trên khía cạnh pháp luật thì sẽ được
xử lý như thế nào.
•
Phân tích và bình luận
Trong vụ việc nêu trên, có thể nhận thấy, hành vi của người được coi là thủ phạm
tung clip của Phương Uyên lên mạng là hành vi sẽ được xem xét dưới góc độ pháp luật,
có xâm phạm bí mật đời tư của vị giám đốc âm nhạc Phương Uyên hay không? Và hành
vi của “kẻ xấu” chụp lại những đoạn email từ email của Phương Uyên đó có bị coi là
hành vi xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân hay không ? Và việc báo chí công bố những
thông tin nội bộ của ban tổ chức chương tr ình mà chưa được sự đồng ý của ca sĩ Phương
Uyên cũng như ban tổ chức cuộc thi The Voice liệu có xâm phạm bí mật đời tư hay
không ?
Theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Dân sự 2005 về quyền bí mật đời tư thì: “Quyền
bí mật đời tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Việc thu thập, công
bố thông tin, tư liệu về đời tư cá nhân của cá nhân đó phải được người đó đồng ý…. Thư
tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được đảm bảo
an toàn và bí mật…Việc kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin
điện tử khác của cá nhân được thực hiện trong trường hợp pháp luật có quy định và phải
có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.
Trong trường hợp quyền bí mật đời tư bị xâm phạm, theo quy định tại Điều 161 Bộ
luật tố tụng Dân sự, cá nhân có quyền: “… tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp khởi kiện vụ án… tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình”.
Riêng Bộ luật Hình sự (Điều 125) có quy định: Người nào có hành vi trái pháp luật
xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử lý kỷ
luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì tùy trường hợp sẽ bị phạt
cảnh cáo, phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến
một năm, phạt tù đến hai năm.
Như vậy, pháp luật hiện hành có các quy định để bảo vệ quyền bí mật đời tư của cá
nhân. Việc phát tán, công bố các thông tin có trong thư tín, điện thoại, điện tín, các hình
thức thông tin điện tử khác của cá nhân chỉ được phép và được thực hiện khi pháp luật có
quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mọi cá nhân, tổ
chức không được tùy tiện kiểm soát những thông tin này của cá nhân. Như vậy, trong vụ
việc nêu trên, người mà được coi là “kẻ xấu” đã đăng tải đoạn video cùng những đoạn
email chụp được của Phương Uyên rõ ràng là đã vi phạm quy định của pháp luật.
Tuy nhiên cũng phải thấy một điều, việc người này phát tán những thông tin có được
từ Email của Phương Uyên đã giúp công chúng nhìn ra được sự thật, một chương trình
với quy mô và thu hút khán giả trên cả nước, nhưng xảy ra điều này là khó có thể chấp
nhận. Đây được xem như là hành vi mặc dù vi phạm pháp luật về đảm bảo an toàn, bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân, nhưng lại có
tác dụng làm rõ sự thật, đưa sự thật đến với công chúng, vạch ra những sai trái trong một
chương trình truyền hình quy mô.
Về vấn đề báo chí công bố những thông tin nội bộ của ban tổ chức chương trình mà
chưa được sự đồng ý của ca sĩ Phương Uyên cũng như ban tổ chức cuộc thi The Voice:
Xét ở khía cạnh những thông tin trên là đúng sự thật, và thông tin đó giúp công
chúng nhìn ra được có sự không khách quan trong cuộc thi The Voice; nên báo chí đang
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình đó là phản ánh sự thật, định hướng dư luận xã hội
được quy định tại Điều 6 Luật Báo chí 1999: “Báo chí có những nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
Thông tin trung thực về tình hình trong nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất
nước và của nhân dân;
Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn chỉ,
mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu
cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đoàn kết toàn dân,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn
luận của nhân dân;
Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới; đấu tranh phòng, chống các
hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác;...”.
Tại Điều 2 Luật Báo chí ghi nhận việc bảo đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí:
“Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình.
Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ ;
không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động.
Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân...”.
Như vậy, trong vụ việc này, có thể khẳng định báo chí đ ã thực hiện việc đưa thông
tin, phản ánh thông tin để giúp công chúng nhìn nhận ra sự thật, phản ánh trung thực
thông tin và giúp định hướng dư luận xã hội. Điều này được pháp luật hiện hành không
những khuyến khích mà còn quy định đó như là một thẩm quyền, một nhiệm vụ của báo
chí. Do đó không thể nói trường trường hợp này việc báo chí công bố những thông tin
nội bộ của ban tổ chức chương trình mà chưa được sự đồng ý của ca sĩ Phương Uyên
cũng như ban tổ chức cuộc thi The Voice là xâm phạm bí mật đời tư được.
III. Kiến nghị của nhóm.
Thông qua hai vụ việc nêu trên, cũng như thực tiễn hiện nay, khi mà thông tin báo
chí phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân cao, đứng trước nguy cơ
báo chí có thể xâm phạm bí mật đời tư của cá nhân bất cứ lúc nào khi đăng tải những
thông tin cá nhân và thông tin về thân nhân, gia đình của người đó. Trong khi đó pháp
luật hiện hành vẫn chưa có một khung pháp lý cụ thể nào để điều chỉnh vấn đề này. Các
vụ việc về xâm phạm quyền bí mật đời tư của cá nhân khởi kiện ra Tòa án ngày càng
nhiều, mà Tòa án khi tiến hành xét xử, áp dụng luật nội dung để giải quyết cũng không
khỏi lúng túng và sau khi xét xử thì vấp phải nhiều ý kiến trái chiều; vì quan điểm về bí
mật đời tư có sự khác nhau giữa các chủ thể. Từ những hạn chế trong 2 vụ việc trên và
thực tế pháp luật Việt Nam hiện hành, theo nhóm, trong thời gian tới pháp luật Việt Nam
cần hoàn thiện quy định về quyền bí mật đời tư theo một số hướng sau:
Thứ nhất, về khái niệm bí mật đời tư. Thế nào là bí mật đời tư? pháp luật hiện nay
chưa đưa ra được một khái niệm cụ thể để xác định đâu là bí mật đời tư do đó không thể
xác định được ranh giới giữa vi phạm bí mật đời tư và không vi phạm bí mật đời tư. Mặc
dù là một phạm trù tương đối tuy nhiên các nhà làm luật có thể đưa ra nội hàm của khái
niệm này để xác định.
Về nguyên tắc luật, “Quyền bí mật đời tư” là không đồng nhất với khái niệm “Quyền
riêng tư”. Quyền riêng tư cũng liên quan đến cá nhân, tuy nhiên những vấn đề thuộc về
riêng tư xét ở khía cạnh nào đó lại không được coi là bí mật, mặc dù pháp luật vẫn bảo hộ
những quyền này. Bất cứ cá nhân nào cũng có sự tự do trong suy nghĩ, hành động – đây
là sự “riêng tư” của chính họ. Lẽ dĩ nhiên, nếu là sự tự do trong suy nghĩ thì vấn đề không
có gì phức tạp, bởi không ai có thể bắt người khác phải suy nghĩ theo ý muốn của mình.
Ngược lại, nếu là sự tự do trong hành động thì điều đó còn phụ thuộc vào các yếu tố khác
như luật pháp, quan hệ với những người xung quanh, sự tác động của phong tục tập quán,
thói quen…
Chúng ta có thể thấy, pháp luật nói chung, pháp luật Việt Nam nói riêng luôn tôn
trọng sự riêng tư của cá nhân (quyền bất khả xâm phạm chỗ ở, quyền lựa chọn công việc
cho phù hợp với khả năng và điều kiện của bản thân, quyền tự do ngôn luận, tự do tín
ngưỡng…). Như vậy, để có thể hiểu được “Quyền bí mật đời tư” th ì phải xây dựng được
khái niệm “bí mật đời tư”. Và việc xây dựng khái niệm “bí mật đời tư” phải xác định
được hai khái niệm cũng như sự liên kết của hai khái niệm, đó là khái niệm “bí mật” và
khái niệm “đời tư”.
Thứ hai, về phạm vi bí mật đời tư. Điều 38 BLDS 2005 quy định quyền bí mật đời tư
trong phạm vi Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử “các hình thức
thông tin điện tử khác của cá nhân”. Trong đó các hình thức thông tin điện tử đó là
những hình thức thông tin nào, blog, face book, trang cá nhân, email đó có phải là hình
thức thông tin điện tử. Với sự phát triển của công nghệ và các mối quan hệ xã hội phức
tạp thì các phạm vi luật đã nêu là còn hạn chế. Pháp luật cần mở rộng h ơn nữa phạm vi bí
mật đời tư
Thứ tư, BLDS Việt Nam 2005 cũng đã quy định đủ các phương thức và biện pháp
bảo vệ quyền nhân thân con người nhưng vẫn còn mang tính khái quát chung, trong khi
đó, các văn bản hướng dẫn thi hành về vấn đề này lại không có h ướng dẫn cụ thể nên việc
thực hiện trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn bât cập.
Để hạn chế tình trạng nói trên cần xây dựng các văn bản hướng dẫn chi tiết thực
hiện các phương thức biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân khi các quyền này bị
xâm hạn như: thủ tục cải chính….bổ sung các quy định về nội dung, phương thức thu
thập và giới hạn sử dụngthông tin liên quan tới cá nhân của các cơ quan báo chí. Đặc biệt
cần làm rõ tính chất thông tin như thế nào được coi là bí mật để xác định rõ hơn về tính bí
mật của thông tin đời tư cá nhân. Đồng thời cũng cần phải quy định cụ thể về chức năng
và thẩm quyền giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền nhân thân của tòa án, các cơ
quan , tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân có
quyền lợi bị xâm hại được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thông qua các cơ
quan có thẩm quyền của nhà nước. Đặc biệt cần quy định rõ tòa án có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại là tòa án nơi tòa soạn báo đặt trụ sở hay nơi cư trú của cá nhân bị xâm
hại quyền.
Cuối cùng, pháp luật cần phải có biện pháp như tuyên truyền, phổ biến pháp luật liên
quan đến quyền bí mật đời tư của cá nhân bằng cách đưa nội dung giảng dạy vào các
trương trình đào tạo một số ngành nghề mà việc thực thi công việc rất dễ có thể có hành
vi xâm phạm đến quyền bí mật đời tư như những công việc: báo chí, y, quản trị mạng,
quản lý nhân sự, bưu chính, viến thông
KẾT LUẬN.
Với việc phân tích, bình luận, đánh giá mối quan hệ giưã quyền bí mật đời tư cuả cá
nhân và quyền tự do thông tin cuả báo chí đã phần nào được làm sang tỏ và được lý giải
qua hai vụ việc trên. Qua đó nhóm cũng đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện hơn hai
quyền này nhằm đảm bảo vấn đề bảo vệ quyền nhân than của các tổ chức, các nhân. Mặt
khác việc tìm hiểu mối quan hệ trên cũng làm rõ giới hạn trong quyền tự do thông tin của
báo chí, để từ đó khi khai thác những thong tin, tin tức, báo chí không vi phạm pháp luật,
không xâm phạm đến quyền đời tư bí mật của cá nhân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Ðại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I và II, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Luật hiến pháp
3. Bộ luật dân sự năm 2005
4. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005 sửa đổi bổ sung năm 20011
5. Luật báo chí
6. Trần Ngọc Đường, Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2003.
7. Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
8. Lê Đình Nghị, “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự Việt
Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Ðại học Luật Hà Nội, 2008.
9. Lê Đình Nghị, “Bàn về khái niệm bí mật đời tư”, Tạp chí nghề luật, số 4/2007.
10.Lê Đình Nghị, “Quyền nhân thân và bảo vệ quyền nhân thân theo pháp luật dân
sự”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, tháng 12/2008.
11.Lê Đình Nghị, “Sự phát triển của pháp luật dân sự liên quan đén các quy định về
quyền nhân thân”, Tạp chí nghề luật, số 3/2007
12.
13.
14. />15.
16.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
NỘI DUNG.........................................................................................................................................1
I.Khái quát chung............................................................................................................................1
1.Khái niệm.....................................................................................................................................1
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................11