Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Sự vận hành các biện pháp và công cụ của CSTT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.75 KB, 14 trang )

NỘI DUNG
I – Chính sách tiền tệ quốc gia.
1. Khái niệm.
Thực hiện CSTTQG là nhiệm vụ mà ngày nay, ở các quốc gia, nhà nước
đều giao cho NHTW. Đạo luật NHTW đều có các quy định về nhiệm vụ của
NHTW trong việc thực hiện CSTTQG. Chẳng hạn, Luật Ngân hàng (LNH)
CHLB Đức năm 1957 quy định nhiệm vụ của ngân hàng CHLB Đức trong việc
thực hiện CSTTQG ở Điều 3; Luật NHTW Pháp năm 1993 quy định nhiệm vụ
này tại Điều 1; Điều 15 LNH Nhà nước Việt Nam quy định nhiệm vụ của
NHNN trong việc thực hiện CSTTQG như sau: “Chủ trì xây dựng CSTTQG, kế
hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ;
Điều hành các công cụ thực hiện CSTTQG; thực hiện việc đưa tiền ra lưu
thông, rút tiền từ lưu thông về theo tín hiệu của thị trường trong phạm vi lượng
tiền cung ứng đã được Chính phủ phê duyệt”.
Pháp luật ngân hàng hiện hành nhận định CSTTQG “là một bộ phận của
chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm
chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc
phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân”1.
Như vậy, CSTTQG là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHNN thông
qua các công cụ của mình, thực hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền
cung ứng nhằm ổn định giá trị đồng tiền và đạt được các mục tiêu kinh tế - xã
hội đã đề ra.
2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Có thể nói, CSTTQG là trọng tâm hoạt động của một NHNN. Điều này
có nghĩa mọi hoạt động của NHNN (kể cả phát hành tiền) đều nhằm thực hiện
các mục tiêu của CSTTQG và bị chi phối bởi các mục tiêu ấy.CSTTQG thường
tập trung vào những mục tiêu sau:
Thứ nhất là ổn định giá cả. Ổn định giá cả hay kiềm chế làm phát là mục
tiêu hàng đầu và là mục tiêu dài hạn của CSTTGQ. Ổn định giá cả có tầm quan
trọng đặc biệt để định hướng phát triển kinh tế của quốc gia vì nó làm tăng khả
năng dự đoán những biến động của môi trường kinh tế vĩ mô. Mức lạm phát


thấp và ổn định tạo nên môi trường đầu tư ổn định, thúc đẩy nhu cầu đầu tư và
đảm bảo sự phân bổ nguồn lực xã hội một cách hiệu quả. Đây là lợi ích có tầm
quan trọng sống còn đối với sự thịnh vượng kinh tế quốc gia.

1

Xem Điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.


Thứ hai là ổn định tỷ giá hối đoái. Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các
luồng hàng hóa và tiền vốn vào ra một quốc gia gắn liền với việc chuyển đổi
qua lại giữa đồng nội tệ đồng ngoại tệ. Việc ngăn ngừa những biến động mạnh,
bất thường trong tỷ giá hối đoái sẽ giúp cho các hoạt động kinh tế đối ngoại
được hiệu quả hơn nhờ dự đoán được chính xác về mặt khối lượng giá trị. Thêm
vào đó, tỷ giá hối đoái còn ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của hàng hóa
trong nước với nước ngoài về mặt giá cả.
Thứ ba là ổn định lãi suất. Lãi suất là một biểu số kinh tế vĩ mô hết sức
quan trọng trong nền kinh tế, do đó nó ảnh hưởng tới quyết định chi tiêu của các
doanh nghiệp và hộ gia đình. Những biến động bất thường trong lãi suất sẽ gây
khó khăn cho các doanh nghiệp và các cá nhân trong việc dự tính chi tiêu hay
lập kế hoạch kinh doanh. Do đó, ổn định lãi suất cũng là một mục tiêu quan
trọng mà các NHNN hướng tới nhằm góp phần ổn định môi trường kinh tế vĩ
mô.
Thứ tư là ổn định hệ thống ngân hàng. Ngân hàng được xem là nơi tạo ra
nguồn vốn cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển kinh tế. Nó góp phần
quan trọng trong việc điều hòa vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, giúp nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế. Với vai trò như vậy, sự ổn định của
hệ thống ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế. NHNN với khả
năng tác động tới khối lượng tín dụng và lãi suất có nhiệm vụ đem lại sự ổn
định cho hệ thống ngân hàng.

Thứ năm là tăng trưởng kinh tế. Do CSTTQG có thể ảnh hưởng tới của
cải và chi tiêu của xã hội nên có thể sử dụng nó làm đòn bẩy, kích thích tăng
trưởng kinh tế. Một nền kinh tế phồn thịnh với tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn
đỉnh là nền tảng cho mọi sự ổn định, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước, cải
thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế
trên thị trường quốc tế.
Thứ sáu là giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tạo công ăn việc làm đầy đủ là mục
tiêu của tất cả các chính sách kinh tế vĩ mô trong đó có CSTTQG. Công ăn việc
làm đầy đủ có ý nghĩa quan trọng bởi: chỉ số thất nghiệp là một trong những chỉ
tiêu phản ánh sự thịnh vượng xã hội vì nó phản ánh khả năng sử dụng có hiệu
quả nguồn lực xã hội; thất nghiệp gây nên tình trạng stress cho mỗi các nhân và
gia đình của họ và làm mầm mống của các tệ nạn xã hội; các khoản trợ cấp thất
nghiệp tăng lên có thể làm thay đổi cơ cấu chi tiêu ngân sách và làm căng thẳng
tình trạng ngân sách.
3. Công cụ thực hiện CSTTQG
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện bởi NHTW
nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới khối lượng tiền trong lưu thông và
lãi suất thị trường, để từ đó đạt được các mục tiêu của CSTTQG. Do đó, việc sử
dụng công cụ, hình thức để thực hiện CSTTQG rất quan trọng. LNH quy định


“NHNN sử dụng các công cụ tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt
buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ khác do Thống đốc quyết định”2.
Để đạt được mục tiêu mà CSTTQG đề ra, NHNN thực hiện thông qua
những công cụ sau:
3.1. Nghiệp vụ thị trường mở.
3.2. Công cụ tái chiết khấu.
3.3. Dự trữ bắt buộc.
3.4. Công cụ tỉ giá hối đoái.
3.5. Hạn mức tín dụng.

3.6. Khung lãi suất.

II – Sự vận hành các biện pháp và công cụ của CSTT.
1. Nghiệp vụ thị trường mở.
1.1. Khái niệm.
Nghiệp vụ mở là nghiệp vụ mà trong đó NHNN “thực hiện nghiệp vụ thị
trường mở thông qua việc mua, bán ngắn hạn tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền
gửi, tín phiếu NHNN và các loại giấy tờ có giá khác trên thị trường tiền tệ để
thực hiện CSTTQG”3.
1.2. Cơ chế vận hành.
Các hoạt động của NHNN trên thị trường sẽ gây ra những tác động gián
tiếp tới lượng tiền cung ứng và lãi suất theo cơ chế sau:
Thứ nhất, khi NHNN mua (hoặc bán) các chứng khoán, nó sẽ tăng (hoặc
giảm) ngay lập tức dự trữ của các ngân hàng trung gian (dù người bán là ngân
hàng trung gian hay khách hàng của ngân hàng này). Khả năng tạo tiền gửi
thông qua cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng vì thế mà bị ảnh hưởng,
dẫn đến làm tăng (hoặc giảm) lượng tiền cung ứng.
Thứ hai, khi vốn khả dụng của từng ngân hàng tăng (hoặc giảm) do tác
động của nghiệp vụ thị trường mở, mức cung vốn trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng tăng lên (hoặc giảm xuống). Trong điều kiện các yếu tố liên quan
không thay đổi, lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ giảm xuống (hoặc tăng
lên). Thông qua các hoạt động arbitrage về lãi suất, ảnh hưởng này được truyền
đến các mức lãi suất khác trong hệ thống ngân hàng.

2
3

Xem Điều 16 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.
Xem Điều 21Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.



Thứ ba, nghiệp vụ thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu và do đó
đến giá cả các chứng khoán mà NHNN sử dụng trong nghiệp vụ này. Những
thay đổi về giá cả này sẽ tạo ra những thay đổi về mức sinh lời của các chứng
khoán (lãi suất của chúng sẽ bị tăng lên hoặc giảm xuống), từ đó, ảnh hưởng tới
lãi suất thị trường.
1.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
- Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo sáng kiến của
NHNN. NHNN. NHNN có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ
thì trường mở mà không chịu ảnh hưởng của bất kì nhân tố nào khác.
- Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể
hiện ở chỗ dù NHNN muốn thay đổi một mức rất nhỏ hay rất lớn của lượng
cung tiền, nghiệp vụ thị trường mở đều có thể đáp ứng được. Hơn nữa, nghiệp
vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại khi có moọt sai lầm xảy ra trong
lúc tiến hành nghiệp vụ.
- Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không
vướng phải những chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác động tức thì
đến lượng cung tiền tệ.
- Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên
các đối tượng chịu sự tác động của thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược chiều
hướng điều chỉnh của NHNN. Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện
theo nguyên tắc tự nguyện, những nhà kinh doanh chứng khoán không bị bắt
buộc mua hay bạn theo mức giá do NHNN ấn định nhưng NHNN có thể thực
hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp
dẫn đối tác.
Nhờ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ
hữu hiệu nhất trong các công cụ của CSTTQG. Tuy nhiên, việc thực hiện công
cụ này đòi hỏi sự phát triển của thị trường tài chính chính thứ cấp nói chung và
thị trường tiền tệ nói riêng. Ngoài ra, NHNN phải có khả năng dự đoán và kiểm
soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng. Tại nước

ta, nghiệp vụ này đã được NHNN chính thức đưa vào sử dụng từ tháng 7/2000.
2. Công cụ tái chiết khấu.
2.1. Khái niệm.
Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định về việc cho vay tổ chức
tín dụng (TCTD). NHNN thường cho các TCTD vay dưới hình thức chiết khấu
lại các giấy tờ có giá ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu)
do các TCTD đưa đến, bởi vậy, chính sách cho vay của NHNN đối với TCTD
được gọi là chính sách tái chiết khấu.
2.2. Cơ chế vận hành.
NHNN thông qua việc thay đổi các quy định về hạn mức tái chiết khấu,
lãi suất chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu sẽ ảnh hưởng đến các hoạt
động đi vay chiết khấu từ NHNN của các TCTD trên hai phương diện: khối
lượng và giá.
Khối lượng vốn tín dụng được bổ sung từ NHNN có thể bị giới hạn hoặc
nới rộng căn cứ vào hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện tái chiết khấu, từ đó


ảnh hưởng đến khả năng tạo tiền của của TCTD, là cho lượng tiền cung ứng bị
thay đổi. Mặt khác, khi lượng vốn khả dụng thay đổi, nó làm cho quan hệ cung
cầu vốn và lãi suất tren thị trường thay đổi.
Sự thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu tác động trước hết vào chi phí đầu
vào của các TCTD, vì thế các TCTD dần dân tăng (hoặc giảm) lãi suất cho vay,
từ đó làm giảm (hoặc tăng) nhu cầu tín dụng. Bên cạnh đó, khi lãi suất chiết
khấu tăng lên (hoặc giảm), các TCTD không thể vay NHNN một cách dễ dàng.
Điều này buộc các TCTD phải giảm bớt khả năng cung ứng tín dụng để hồi
phục dự trữ.
2.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
- Ưu điểm của công cụ này là các khoản cho vay của NHNN đều được
đảm bảo bằng các giấy tờ có giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc chắn được
thu hồi khi đến hạn.

- Tuy nhiên, tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các TCTD
có nhu cầu vay từ NHNN. Với sự phát triển của thị trường tài chính, các TCTD
có thể tìm kiếm được các nguồn vay khác ngoài NHNN làm cho sự phụ thuộc
của chúng vào NHNN giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của
công cụ này.
- Thêm vào đó. NHNN khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động
của công cụ này bởi NHNN chỉ có thể thay đổi mức lãi suất chiết khấu và các
điều kiện chiết khấu mà không thể bắt các TCTD vay từ mình.
- Cuối cùng, công cụ này cũng không dễ đảo ngược như nghiệp vụ thị
trường mở.
3. Dự trữ bắt buộc.
3.1. Khái niệm.
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà TCTD phải gửi tại NHNN để thực hiện
CSTTQG. NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình TCTD
và từng loại tiền gửi với mức từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi TCTD
trong từng thời kỳ 4.
3.2. Cơ chế vận hành.
Việc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng
theo ba cách:
Thứ nhất, khi NHNN quyết định tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, bộ phận dự trữ
dư thừa trước đây của các TCTD chuyển thành dự trữ bắt buộc, làm giảm khả
năng cho vay của các TCTD.
Thứ hai, tỷ lệ dự trả bắt buộc là một thành phần trong mẫu số của hệ số
mở rộng tiền gửi. Vì thế sự tăng lên của tỉ lệ dự trữ bắt buộc sẽ làm giảm hệ số
mở rộng tiền gửi và khả năng mở rộng tiền gửi của TCTD.
Thứ ba, tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên làm giảm mức cung vốn của các
TCTD trên thị trường. Trong điều kiện nhu cầu vốn khả dụng không thay đổi,
sự giảm sút này làm tăng lãi suất TCTD, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất dài
hạn và giảm bớt khối lượng tiền cung.
3.3. Ưu nhược điểm của công cụ.

4

Xem Khoản 5 Điều 9 và Khoản 1 Điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm
2003.


- Lợi thế chủ yếu của công cụ dự trữ bắt buộc trong việc kiểm soát
lượng tiền cung ứng là sự thay đổi tỉ lệ sự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng một cách
bình đẳng đến tất cả TCTD.
- Ngoài ra đây là công cụ có quyền lực ảnh hưởng rất mạnh đến lượng
tiền cung ứng. Chỉ cần một thay đổi nhỏ tỉ lệ dự trữ bắt buộc cũng sẽ dẫn đến sự
thay đổi đáng kể khối lượng tiền cung ứng.
- Tuy nhiên, đây cũng chính là điều làm cho công cụ dự trữ bắt buộc
thiếu linh hoạt. NHNN rất khó có thể thực hiện được những thay đổi nhỏ trong
cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt buộc.
- Một bất lợi khác là việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề
mất “khả năng thanh toán ngay đối với những TCTD có dự trữ bắt buộc thấp.
- Cuối cùng, việc thay đổi liên tục dự trữ bắt buộc sẽ gây ra tình trạng
không ổn định cho hoạt động của TCTD và làm cho việc quản lý khả năng
thanh khoản của các TCTD khó khăn và tốn kém hơn.
4. Công cụ tỉ giá hối đoái.
4.1. Khái niệm.
Tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giữa giá trị của đồng Việt Nam với giá trị của
đồng tiền nước ngoài5. Trong điều kiện mở cửa kinh tế, các hoạt động kinh tế
đối ngoại với những luồng hàng hóa và vốn vào ra một quốc gia có ảnh hưởng
to lớn tới các biểu số kinh tế vĩ mô của quốc gia. Để thực hiện CSTTQG,
NHNN căn cứ vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường và nhu cầu điều tiết của nhà
nước xác định và công bố tỉ giá hối đoái đồng Việt Nam.
4.2. Cơ chế vận hành.
Sự can thiệp nhằm tác động tới tỉ giá hối đoái được thực hiện thông qua

các hoạt động mua vào hoặc bán ra ngoại tệ của NHNN vào sự hình thành tỉ giá
hối đoái trên thị trường phụ thuộc vào chế độ tỉ giá hối đoái mà quốc gia áp
dụng. Đó là:
Chế độ tỉ giá cố định: là chế độ tỉ giá hối đoái trong đó NHNN buộc phải
can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỉ giá biến động xung quanh một
mức tỉ giá cố định trong một biên độ hẹp đã được định trước. Như vậy, trong
chế độ tỉ giá có định, NHNN buộc phải mua vào hay bán ra đồng nội tệ nhằm
giới hạn sự biến động của tỉ giá trong biên độ đã định.
Chế độ tỉ giá thả nổi hoàn toàn: là chế độ tỉ giá hối đoái, trong đó tỉ giá
được xác định hoàn toàn tự do theo quy luật cung cầu trên thị trường ngoại hối
mà không có bất cứ sự can thiệp nào của NHNN.
Chế độ tỉ giá thả nổi có điều kiện: là chế độ tỉ giá hối đoái trong đó
NHNN thực hiện nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để điều tiết thị trường ngoại hối,
song can thiệp của NHNN không nhằm mục đích để cố định tỉ giá như đối với
chế độ tỉ giá cố định.
4.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
Chế độ tỉ giá cố định làm giảm bớt rủi ro của việc chuyển đổi từ đồng tiền
này sang đồng tiền khác do tỉ giá được cố định nhưng lại gây ra vấn đề phụ
thuộc của CSTTQG vào cáo biến động của bên ngoài và cán cân thanh toán

5

Xem Khoản 8 Điều 9 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 đã được sửa đổi bổ sung năm 2003.


không thể tự động cân bằng. Hơn nữa, để tiến hành can thiệp trên thị trường
ngoại hối đòi hỏi NHNN phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào.
Chế độ tỉ giá thả nổi được đánh giá là giúp cho CSTTQG được độc lập, ít
chịu ảnh hưởng của những biến động từ bên ngoài và cán cân thanh toán quốc tế
được tự động điều chỉnh để cân bằng. Tuy nhiên, chế độ này lại gây ta sự biến

động thường xuyên của tỉ giá hối đoái, khiến cho các hoạt động chuyển đổi từ
đồng tiền này sang đồng tiền khác luôn hàm chứa rủi ro.
Chế độ tỉ giá thả nổi có điều tiết đã dung hòa cả hai chế độ tỉ giá cố định
và chế độ tỉ giá thả nổi, khắc phục được những hạn chế của hai chế động tỉ giá
nêu trên.
5. Hạn mức tín dụng.
5.1. Khái niệm.
Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà NHNN buộc các TCTD phải
tuân thủ khi cấp tín dụng cho nền kinh tế. Mức dư nợ được quy định cho từng
ngân hàng căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng ngân hàng (cơ cấu khách
hàng, mức rủi ro), định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối
tượng chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính
của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời nhất định.
5.2. Cơ chế vận hành.
Công cụ này được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kì hoạt động
tài chính được điều tiết chặt chẽ như trong trường hợp lạm phát cao, hạn mức
tín dụng được sử dụng nhằm khống chế trực tiếp và ngay lập tức lượng tín dụng
cung ứng.
5.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do
thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm với
sự biến động của lãi suất hay NHNN không có khả năng không chế và kiểm
soát được sự biến động của lượng vốn khả dụng của TCTD thì công cụ này
được xem là cứu cánh của NHNN trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên, hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu tính
linh hoạt và đôi khi đi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng,
do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các
TCTD.
6. Khung lãi suất.
6.1. Khái niệm.

Khung lãi suất biên độ mức lãi suất sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới mức lãi
suất thị trường, bao gồm mức lãi suất trần (mức lãi suất tối đa mà các ngân hàng
được phép ấn định khi đi vay hoặc cho vay) và lãi suất sàn (mức lãi suất tối
thiểu mà các ngân hàng được phép ấn định khi cho vay hoặc đi vay.
6.2. Cơ chế vận hành.
Công cụ lãi suất được NHNN thực hiện dưới hình thức công bố lãi suất
cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất kinh doanh hoặc dưới hình
thức áp dụng lãi suất đối với tái cấp vốn.
6.3. Ưu nhược điểm của công cụ.
Đây là một công cụ cứng nhắc, dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết
kiệm và đầu tư. Vì vậy, công cụ này thường chỉ được sử dụng trong điều kiện


sự ổn định kinh tế chưa được thiết lập hoặc các yếu tố thị trường chưa phát triển
hoàn chỉnh.
III – Những thành tựu – tồn tại – giải pháp nâng cao hiệu quả vận
hành biện pháp và công cụ
1. Thành tựu
Có thể nói trong những năm qua thì góp phần ổn định giá trị đồng tiền là
thành tựu đáng ghi nhận nhất, bằng các công cụ điều tiết, NHNN đã kiểm soát
chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như bàn tay hữu
hiệu đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam,
làm cho giá cả ổn định, đời sống người dân không ngừng được cải thiện. Ví dụ:
năm 2008, thu nhập bình quân đầu người đạt và vượt 1000 USD/năm 6.
Năm 2008 là năm đầy “sóng gió” của thị trường tiền tệ và hoạt động ngân
hàng, nhưng với những bước đi vừa thận trọng, quyết liệt, vừa linh hoạt, táo bạo
ngành Ngân hàng Việt Nam đã vượt qua những khó khăn, thách thức chưa từng
có để giữ ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an toàn hệ thống, đồng thời góp
phần quan trọng kiềm chế thành công lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bước
đầu ngăn chặn đà suy giảm kinh tế của nước ta. Tuy có thời điểm thị trường tiền

tệ diễn biến không thuận lợi và cũng còn một vài ý kiến chưa đồng thuận cao
với các biện pháp điều hành của NHNN, nhưng có thể thấy kết quả phát triển
kinh tế - xã hội năm 2008 có đóng góp quan trọng, thiết thực của ngành Ngân
hàng nói chung và NHNN nói riêng. NHNN đã có các biện pháp, chính sách để
điều hành, ổn định tỷ giá, hạ lãi suất cơ bản, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn
vốn để sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu, rà
soát và kiểm soát nợ xấu của các ngân hàng thương mại. Cụ thể là:
Sử dụng biện pháp phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc để hút tiền về từ
lưu thông (Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008). Biện pháp này tạo
nhiều thuận lợi hơn cho các tổ chức tín dụng so với biện pháp tăng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc vì lãi suất tín phiếu cao hơn lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc cùng thời
điểm và đối tượng mua tín phiếu chỉ là các TCTD có quy mô huy động vốn lớn
(số dư vốn huy động bằng VND đến ngày 31/01/2008 trên 1.000 tỷ đồng), trong
đó không bao gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam,
ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, quỹ tín dụng nhân dân. Từ ngày
21/10/2008, NHNN đã cho phép các tổ chức tín dụng thanh toán trước hạn tín
phiếu NHNN bắt buộc nếu có nhu cầu.
Quy định trần lãi suất huy động VND để chấm dứt cuộc chạy đua tăng lãi
suất huy động giữa các tổ chức tín dụng. Biện pháp này được NHNN áp dụng từ
ngày 26/2/2008 đến ngày 15/5/2008. Đây là biện pháp hành chính cần thiết và
kịp thời nhằm lập lại trật tự và giữ ổn định thị trường tiền tệ, được Hiệp hội
Ngân hàng Việt Nam rất ủng hộ. Đồng thời, NHNN hỗ trợ vốn ngắn hạn cho
6

/>

các tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản thông qua công cụ tái cấp
vốn.
Ban hành cơ chế điều hành lãi suất cơ bản mới. Sau 6 năm thực hiện cơ
chế lãi suất thoả thuận, kể từ ngày 19/5/2008, NHNN đã thay đổi cơ chế điều

hành lãi suất cơ bản phù hợp với Luật NHNN Việt Nam và Bộ luật Dân sự,
trong đó các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND đối với
khách hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng
thời kỳ. Với cơ chế này, lãi suất cơ bản đã trở thành công cụ điều hành chính
sách tiền tệ hữu hiệu của NHNN và thu hút sự quan tâm đặc biệt không chỉ của
các tổ chức tín dụng mà của cả nền kinh tế.
Lãi suất cơ bản được điều chỉnh linh hoạt chưa từng có. Trước những
diễn biến nhanh, phức tạp của tình hình kinh tế trong và ngoài nước năm 2008,
NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản tới 8 lần, trong đó có 3 lần điều chỉnh tăng
(từ mức 8,25%/năm lên 8,75%, 12% và 14%/năm) nhằm kiểm soát chặt chẽ tốc
độ tăng dư nợ tín dụng; 5 lần điều chỉnh giảm (từ 14%/năm xuống 13%, 12%,
11%, 8,5% và 7%/năm) nhằm nới lỏng từng bước chính sách tiền tệ, góp phần
ngăn chặn đà suy giảm kinh tế. Với sự điều chỉnh này, mức ấn định lãi suất cho
vay tối đa của các TCTD đối với khách hàng đã giảm từ mức 21%/năm xuống
12,75%/năm; mặt bằng lãi suất cho vay VND của các tổ chức tín dụng đối với
khách hàng hiện nay thấp hơn so với cuối năm 2007.
Lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc và tín phiếu NHNN bắt buộc phát huy
tác dụng đắc lực trong việc thực thi chính sách tiền tệ. Để hỗ trợ tăng trưởng
hợp lý trong bối cảnh kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu, NHNN đã điều
chỉnh tăng lãi suất tín phiếu bắt buộc (từ 7,8% lên 13%/năm kể từ ngày
1/7/2008) và lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc (từ 1,2% lên 3,6%/năm kể từ ngày
1/9/2008, lên 5%/năm kể từ ngày 01/10/2008 và lên 10%/năm kể từ ngày
21/10/2008) nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng điều chỉnh giảm lãi suất
cho vay thấp hơn mức ấn định lãi suất kinh doanh tối đa. Đến thời điểm hiện
nay, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc là 7%/năm và lãi suất tín phiếu NHNN bắt
buộc là 4,5%/năm.
Biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng
được nới rộng tới 3 lần trong năm. Để tạo sự chủ động, linh hoạt hơn cho các tổ
chức tín dụng trong ấn định lãi suất kinh doanh trước diễn biến cung cầu ngoại
tệ có nhiều biến động phức tạp, khó lường, trong năm 2008, NHNN đã 3 lần nới

rộng biên độ ấn định tỷ giá mua – bán đồng Đôla Mỹ của các tổ chức tín dụng
từ mức ±0,75% lên ±1%, ±2% và ±3% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Đây là tần suất nới rộng chưa từng có từ trước tới nay.
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng 2 lần được điều chỉnh tăng với mức độ
lớn. Trước tình trạng nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2008 tăng cao làm ảnh
hưởng đến các cân đối vĩ mô, cùng với các biện pháp can thiệp khác, ngày
10/6/2008, NHNN đã điều chỉnh tăng 2% tỷ giá bình quân liên ngân hàng (từ
16.139VND/USD lên 16.461VND/USD). Biện pháp này đã tạo ra mặt bằng tỷ


giá mới, góp phần khuyến khích xuất phần và hạn chế hiệu quả nhập siêu. Cũng
với mục đích đó, ngày 25/12/2008, NHNN đã điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân
liên ngân hàng thêm 3% (lên mức 16.989VND/USD) nhằm tạo ra mặt bằng tỷ
giá mới cho năm 2009, góp phần hỗ trợ xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu, đảm
bảo sự bền vững của cán cân thanh toán quốc tế và hạn chế tâm lý kỳ vọng tỷ
giá tăng cao, tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất, kinh doanh.
2. Tồn tại.
Chức năng hoạch định chiến lược và phát triển các công cụ gián tiếp của
CSTT còn ở thời kỳ sơ khai. Bên cạnh đó, các nghiệp vụ về tái cấp vốn chưa
phù hợp với thông lệ quốc tế, công cụ dự trữ bắt buộc chưa được quy định cụ
thể. Quy định việc NHNN xác định và công bố tỷ giá hối đoái đã không còn phù
hợp với thực tế. Một số quy định chưa rõ ràng nên dẫn đến việc suy luận theo
nhiều cách hiểu khác nhau và dễ khiến cho người thực hiện nhầm lẫn giữa
nghiệp vụ với nhiệm vụ hay trách nhiệm.
Các nội dung cơ bản trong quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vãng
lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối, thị
trường ngoại tệ và tỷ giá hối đoái,… chưa được đề cập nên NHNN thiếu cơ sở
pháp lý để tham chiếu dẫn giải trong quá trình xây dựng các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật. Bên cạnh đó, các khái niệm về quản lý ngoại hối chưa chính xác
hoặc không còn phù hợp với thực tế cũng như thông lệ quốc tế, ví dụ như khái

niệm về ngoại hối, tỷ giá, dự trữ ngoại hối nhà nước…
Một số quy định cụ thể về hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở, về quản
lý kinh doanh vàng cần được xem xét để huỷ bỏ hoặc phải xây dựng lại (Điều
9, 18, 38...) cho phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình thực tiễn.
Mặc dù nội dung và hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ quốc gia đã
liên tục được hoàn thiện theo hướng ngày càng giảm dần sự can thiệp trực tiếp
của NHNN vào các hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng nhưng các quy
định về vận hành công cụ chính sách tiền tệ như chiết khấu, tái chiết khấu,
nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất cơ bản... vừa quá chi tiết, vừa không rõ ràng,
thậm chí chưa chính xác (ví dụ như nghiệp vụ tái cấp vốn bao gồm cả việc cho
vay lại theo hồ sơ tín dụng). Ngoài ra, Luật hiện hành không có ràng buộc pháp
lý rõ ràng về mục đích, đối tượng, tình huống và chế tài của việc sử dụng các
công cụ CSTT.
Ngoài ra, một số công cụ quan trọng chưa được diễn đạt chặt chẽ, chưa
hoàn thiện hoặc chưa có quy định rõ về cơ chế và chế tài sử dụng mà mới chỉ
được đề cập dưới dạng liệt kê như: “cho vay lại theo hồ sơ tín dụng” (Điều 17),
“tỷ giá hối đoái” (Điều 19), “dự trữ bắt buộc” (Điều 20), “nghiệp vụ thị trường
mở” (Điều 21)...
Trong bài phát biểu của mình tại Quốc hội, Đại biểu Nguyễn Lân Dũng
cho rằng: một nguyên nhân quan trọng là việc Thống đốc ngân hàng Nhà nước


đã tăng lãi suất ngân hàng trong vòng 3, 4 tháng từ 7-8% lên đến 17-18% dẫn
đến dư nợ tín dụng tăng gấp đôi và tất yếu dẫn đến lạm phát.
Điều 474 của Bộ luật dân sự quy định lãi suất ngân hàng cho vay không
được quá 150% so với lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước công bố7.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả của CSTTQG.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đề ra:“Mục tiêu của chính
sách tiền tệ trong 5 năm tới là ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp
phần tăng trưởng kinh tế và bảo đảm an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức

tín dụng. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khoá để ổn định
kinh tế vĩ mô, tăng dự trữ ngoại tệ, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tiết
kiệm, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.
Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, khẩn
trương thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt động ngân
hàng… Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên tắc thị trường và
đi tới loại bỏ hoàn toàn qui định hành chính với lãi suất ngoại tệ. Tiếp tục thực
hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt theo nguyên tắc thị trường với biên độ
mở rộng hơn phù hợp với mức độ mở cửa thị trường tài chính và năng lực kiểm
soát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đổi mới chính sách quản lý ngoại hối
theo hướng tự do hoá hoàn toàn giao dịch vãng lai, từng bước mở cửa các giao
dịch vốn, thu hẹp và tiến tới xoá bỏ tình trạng sử dụng ngoại tệ làm phương tiện
thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam.
Sửa đổi Luật NHNN VN theo hướng nâng cao trách nhiệm và quyền hạn
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong việc hoạch định và thực thi chính
sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cải cách
hệ thống thanh tra giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ thị
trường tiền tệ…”.
Cụ thể hóa đường lối chính sách của Đảng, vấn đề đầu tiên là phải sửa
đổi Luật NHNN, và trong các dự thảo về sửa đổi bổ sung Ngân hàng nhà nước
có đưa ra một số giải pháp để vận hành các biện pháp và công cụ thực hiện
CSTT.
Về lãi suất cơ bản: Bỏ quy định về “lãi suất cơ bản” và bổ sung “các loại
lãi suất điều hành khác” để phù hợp hơn với thực tiễn điều hành CSTT. Trong
thời gian tới, cơ chế điều hành chính sách tiền tệ phải hướng vào việc tác động
đến lãi suất ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng thay cho việc điều hành dựa
trên việc quản lý khối lượng tiền (và lãi suất) như hiện nay. Theo đó, lãi suất
ngắn hạn trên thị trường liên ngân hàng sẽ là mục tiêu trung gian và Ngân hàng
Nhà nước sẽ phải sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ gián tiếp của mình như
lãi suất tái chiết khấu hoặc các nghiệp vụ trên thị trường mở để tác động đến lãi

suất mục tiêu đó. Trong cơ chế này, lãi suất cơ bản không được coi là một công
cụ chính sách tiền tệ. Điều kiện để có thể thực hiện được cơ chế này là việc tự
7

Bản tổng hợp thảo luận tại hội trường quốc hội khóa XII – kỳ họp thứ 03


do hóa lãi suất, cho phép lãi suất (cả lãi suất cho vay của TCTD đối với khách
hàng và lãi suất cho vay giữa các TCTD với nhau trên thị trường liên ngân
hàng) được hình thành trên cơ sở cung cầu, không chịu bất kỳ trần lãi suất nào
để có thể sử dụng như những tín hiệu về thị trường cho cơ quan điều hành, thực
thi chính sách tiền tệ.
Bổ sung quy định về thẩm quyền của NHNN trong việc quy định cơ chế
điều hành lãi suất trong quan hệ giữa TCTD và khách hàng. Nếu coi lãi suất là
giá của đồng tiền thì về nguyên tắc NHNN không nên can thiệp vào mức giá cả
mà nên để thị trường quyết định. “Tự do hóa lãi suất” trong hoạt động ngân
hàng là một định hướng đã được nêu rõ trong Nghị quyết của Đảng. Do đó,
NHNN kiên trì đề nghị không áp đặt trần lãi suất đối với hoạt động của các
TCTD và để giá cả phản ánh được cung cầu thực sự về tín dụng. Tuy nhiên, cần
có quy định để trong trường hợp có những diễn biến bất thường dẫn đến sự mất
lòng tin giữa các TCTD với nhau, giữa các TCTD và khách hàng thì NHNN có
quyền can thiệp thông qua các cơ chế của mình để ổn định mức lãi suất và qua
đó tránh gây đổ vỡ cho thị trường, gây tác động bất lợi cho nền kinh tế. Khoản 2
Điều 15 dự thảo: Trong trường hợp thị trường có diễn biến bất thường, Ngân
hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa
các tổ chức tín dụng với nhau và với các khách hàng theo quy định của Luật
này và Luật Các tổ chức tín dụng 8.
Trong bối cảnh thị trường tiền tệ, ngân hàng đã phát triển khá mạnh cả về quy
mô và số lượng, các TCTD cần được quyền và có trách nhiệm trong việc xác định
lãi suất trong giao dịch với khách hàng cũng như với các TCTD khác dựa trên

nguyên tắc thị trường và lãi suất điều hành do NHNN công bố. Nguyên tắc này
hoàn toàn phù hợp với định hướng đã được nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X, “thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị
trường”. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu, rộng và rút kinh
nghiệm từ bài học của cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới vừa qua thì Nhà
nước phải quản lý và kiểm soát được lãi suất của các TCTD, nhằm tạo sự ổn định
cho hoạt động tiền tệ, tín dụng nói riêng và ổn định kinh tế nói chung. Do vậy, Uỷ
ban Kinh tế tán thành việc cho phép NHNN quy định cơ chế điều hành lãi suất của
các TCTD khi cần thiết như quy định tại Khoản 2 Điều 15 của dự thảo Luật này.
Ngoài ra, Ủy ban Kinh tế cũng đồng tình với quan điểm của Ban soạn thảo
về việc không quy định về lãi suất cơ bản trong dự thảo Luật. Điều này là hợp lý
do căn cứ để xác định lãi suất cơ bản không rõ, trong khi NHNN quy định nhiều
loại lãi suất khác để phục vụ công tác điều hành (như lãi suất tái cấp vốn, lãi
suất tái chiết khấu,...). Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến việc các quy định liên
quan đến lãi suất cơ bản trong Bộ luật Dân sự (Điều 474, 475 và 476) sẽ không
còn căn cứ để thực hiện. Vì vậy, Uỷ ban Kinh tế đề nghị Ban soạn thảo nghiên
cứu, trình Quốc hội sửa đổi các quy định liên quan đến lãi suất cơ bản trong Bộ
luật Dân sự theo hướng: Khống chế mức lãi suất cao nhất trong các quan hệ dân
sự (không liên quan đến lãi suất của TCTD) trên cơ sở căn cứ vào một loại lãi
8

Thuyết minh chi tiết dự thảo Luật NHNN sửa đổi


suất do NHNN công bố để ngăn ngừa tình trạng cho vay nặng lãi trong nhân
dân9.
Về tỷ giá hối đoái: Điều 16 (sửa đổi, bổ sung): bổ sung quy định “quyết
định chế độ tỷ giá, cơ chế điều hành tỷ giá” nhằm nâng cao thẩm quyền của
NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ.
Về dự trữ bắt buộc: Bỏ quy định về giới hạn tỷ lệ dự trữ bắt buộc (0% 20%) để đảm bảo sự linh hoạt trong điều hành CSTT của NHNN, đặc biệt khi

chúng ta mở cửa tiếp nhận nhiều nguồn vốn; đồng thời nâng cao thẩm quyền
của NHNN trong việc trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi vượt
dự trữ bắt buộc.
Về nghiệp vụ thị trường mở: Bổ sung quy định tại khoản 2 nhằm nâng
cao sự chủ động của NHNN trong việc sử dụng các công cụ CSTT. Ngân hàng
Nhà nước quy định loại giấy tờ có giá được phép giao dịch thông qua nghiệp vụ
thị trường mở trong từng thời kỳ.
Bên cạnh đó, cần tạo ra sự chủ động của NHNN trong việc hoạch định và
thực hiện chính sách CSTT. Việc thực hiện CSTT có tác dụng to lớn trong việc
góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm quốc phòng an
ninh và nâng cao đời sống của nhân dân. Tuy nhiên, cũng như NHTW ở các
quốc gia đang phát triển khác, vị thế pháp lý của NHNN Việt Nam vẫn còn bị lệ
thuộc lớn vào các quan hệ hành chính, trong đó chức năng của NHNN được xác
định thiên về quản lý nhà nước và chưa chú trọng đầy đủ tới chức năng điều
hành CSTT quốc gia như một NHTW tương đối độc lập với chính phủ. Do vậy
vấn đề đặt ra ở đây là cần phải hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của
NHNN trong việc thực hiện CSTT quốc gia, chú ý tạo ra sự độc lập tương đối
với Chính phủ. Bởi lẽ, khi NHNN phải chịu sự chi phối đối với các quyết định
trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ như: quyết định về cung ứng tiền, lãi
suất, tỉ giá hối đoái, tín dụng… thì các công cụ điều tiết này sẽ không còn những
tác dụng tích cực và nhạy bén như bản chất vốn có của nó.

KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, cùng với tiến bộ chung của nền kinh tế đất
nước, lĩnh vực tài chính – ngân hàng cũng có nhiều chuyển biến to lớn và hiệu
quả. NHNN Việt Nam từ khi ra đời đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế
- xã hội đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng dù phát triển như
thế nào, NHNN Việt Nam cũng luôn hoạt động trong khuôn khổ cho phép của
pháp luật Việt Nam, đặc bnieetj là các văn bản pháp luật về NHNN. Đó chính là
môi trường pháp lý đảm bảo cho mọi hoạt động của NHNN phát huy được hiệu

quả trong đó có hoạt động thực hiện CSTTQG.
Thực tế cho thấy, việc thực hiện có hiệu quả của NHNN nói chung và
pháp luật về hoạt động của NHNN nói riêng đã góp phần tích cực trong việc
9

Báo cáo thẩm tra số 1134/BC-UBKT12 của Ủy ban kinh tế về Dự án Luật NHNN sửa đổi.


thực hiện CSTTQG, tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
ngân hàng cũng như tạo cơ sở pháp lý làm lành mạnh hoạt động của các TCTD,
khắc phục những khó khăn của nền kinh tế, đưa hệ thống ngan hàng nước ta
từng bước tiếp cận, hội nhập với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới. Để
đạt được điều đó, đòi hỏi NHNN đặc biệt là trong quá trình thực hiện CSTTQG
phải thực hiện nghiêm túc để không ngừng đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với
điều kiện trong nước và hoàn cảnh quốc tế.



×