Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.81 KB, 11 trang )

A. TÌNH HUỐNG
Anh H vào làm việc tại công ty Y từ tháng 6 năm 1995. Năm 2006 anh bị tai nạn
lao động được xác định suy giảm 33% khả năng lao động. Năm 2008 vết thương tái
phát anh phải vào viện điều trị 1 tháng. Sau khi ra viện anh được xác định suy giảm
40% khả năng lao động nhưng anh vẫn tiếp tục làm việc. Năm 2012 anh chết do xuất
huyết não. Anh có mẹ đã 65 tuổi và hai con: một cháu 16 tuổi và một cháu 12 tuổi.
Anh (chị) hãy tư vấn các quyền lợi về ASXH cho anh H và gia đình anh.
B. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Căn cứ vào các tình tiết của tình huống có thể xác định anh H được hưởng
những quyền lợi về an sinh xã hội như sau:
− Chế độ tai nạn lao động.
− Chế độ ốm đau.
− Bảo hiểm y tế.
− Chế độ tử tuất.
1. Chế độ tai nạn lao động.
• Điều kiện hưởng: Theo quy định tại Điều 38, Điều 39 Luật bảo hiểm xã
hội; Điều 18, Điều 19 Nghị định 152/2006/NĐ-CP, người lao động được hưởng chế độ
tai nạn lao động phải đáp ứng các điều kiện sau:
− Là người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 2
của Luật bảo hiểm xã hội;
− Người lao động bị tai nạn lao động;
− Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai
nạn lao động.
Đối chiếu với trường hợp của anh H, ta thấy, anh H thoả mãn các điều kiện để
hưởng chế độ tai nạn lao động, cụ thể là:
Thứ nhất, anh H vào làm việc tại công ty Y từ tháng 6 năm 1995 đến năm 2006
anh bị tai nạn lao động. Vì Anh H đã làm việc tại công ty Y khoảng 11 năm nên hợp
đồng lao động giữa anh H với công ty Y là hợp đồng lao động không xác định thời
hạn. Do đó, anh H là người lao động thuộc trường hợp quy định tại điểm a, khoản 1
[1]



Điều 2 luật bảo hiểm xã hội: “Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên;”
Thứ hai, năm 2006 anh H bị tai nạn lao động.
Thứ ba, anh H được xác định bị suy giảm được xác định suy giảm 33% khả năng
lao động do tai nạn lao động gây ra.
• Chế độ hưởng:
 Mức hưởng từ năm 2006 đến 2008.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật BHXH 2006 1, anh H được hưởng trợ
cấp tai nạn lao động hàng tháng. Khoản 2 Điều 43 Luật BHXH, Điều 22 Nghị định
152/2006/NĐ-CP quy định về mức hưởng trợ cấp hàng tháng, cụ thể bao gồm hai mức
hưởng trợ cấp:
Thứ nhất, trợ cấp hằng tháng tính theo mức độ suy giảm khả năng lao động.
Mức trợ cấp này được tính theo quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 43 luật bảo hiểm xã
hội như sau:” Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương
tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối
thiểu chung” . Anh H suy giảm 33% khả năng lao động, tức là trên 31%, cứ suy giảm
thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiếu chung, như vậy với mức suy
giảm là 33% thì anh H được hưởng bằng 34% mức lương tối thiếu chung.
Thứ hai, trợ cấp hàng tháng tính theo năm đóng bảo hiểm xã hội được pháp luật
quy định như sau: “từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi
năm đóng bảo hiểm xã hội được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng bảo
hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị” 2.Tính đến thời điểm xảy
ra tai nạn lao động là năm 2006, Anh H đã làm việc được 11 năm nên số năm đóng
BHXH được tính là 11 năm. Do đó, anh H sẽ được hưởng thêm 3,8% mức tiền lương,
tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị.

1

“Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng”


2

Điểm b, khoản 2 Điều 43 Luật Bảo hiểm xã hội 2006.

[2]


Như vậy, hàng tháng, anh H sẽ được hưởng trợ cấp bằng 34% mức lương tối
thiểu chung + 3,8% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi
nghỉ việc để điều trị.
Công thức tính mức trợ cấp hàng tháng anh H được hưởng theo quy định tại mục
3 Phần III Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH Hướng dẫn thực hiện một số Điều của
Nghị định 152/2006/NĐ-CP như sau:
Mức trợ cấp hằng tháng = Mức trợ cấp tính theo mức suy giảm khả năng lao
động + Mức trợ cấp tính theo số năm đóng BHXH
= {0,3 x Lmin + (m – 31) x 0,02 x Lmin } + {0,005 x L + (t – 1) x 0,003 x L}
= {0,3 x Lmin + 2 x 0,02 x Lmin } + {0,005 x L + 10 x 0,003 x L}
Trong đó:
Lmin : mức lương tối thiểu chung.
m : mức suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
L : mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi
nghỉ việc để điều trị.
t : số năm đóng bảo hiểm xã hội. Một năm tính đủ 12 tháng, không kể năm đầu
đóng bảo hiểm xã hội.
Thời điểm hưởng trợ cấp: hàng tháng được tính bắt đầu từ tháng anh H ra viện
sau khi đã điều trị xong (Khoản 1 Điều 44 Luật BHXH).
Ngoài ra, công ty Y còn phải chịu toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến
khi điều trị xong cũng như phải trả đủ lương cho anh H trong thời gian anh H nghỉ việc
để điều trị (khoản 1 Điều 143 Bộ Luật Lao động).

Nếu như anh H bị tổn thương bất kỳ bộ phận nào, chức năng nào của cơ thể thì
ngoài các khoản trợ cấp nêu trên , anh H còn được cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt,
dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ theo tình trạng thương tật cụ thể của anh
(Điều 45 Luật BHXH).
Sau khi ra viện, điều trị thương tật xong, anh H có thể được nghỉ dưỡng sức,
phục hồi từ 5 đến 10 ngày nếu sức khỏe vẫn còn yếu. Mức hưởng trợ cấp dưỡng sức,
[3]


phục hồi một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi
tại gia đình và bằng 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục hồi tại
cơ sở tập trung (Điều 48 Luật BHXH).
+ Mức hưởng từ năm 2008.
Năm 2008 vết thương tái phát, anh H phải vào viện điều trị 1 tháng. Sau khi ra
viện anh được xác định suy giảm 40% khả năng lao động nhưng anh vẫn tiếp tục làm
việc. Anh H vẫn đang được hưởng chế độ tai nạn lao động nhưng mức hưởng hàng
tháng đã có sự thay đổi. Mức hưởng của anh H sẽ được tính lại căn cứ vào mức suy
giảm khả năng lao động mới là 40% và thời gian anh H đã đóng bảo hiểm là 13 năm
( từ năm 1995 đến năm 2008). Cụ thể là:
Hàng tháng, anh H sẽ được hưởng mức trợ cấp = 48% mức lương tối thiểu
chung + 4,1% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ
việc để điều trị. Công thức tính mức trợ cấp kể từ thời điểm này như sau:
Mức trợ cấp hằng tháng = Mức trợ cấp tính theo mức suy giảm khả năng lao
động + Mức trợ cấp tính theo số năm đóng BHXH
= {0,3 x Lmin + 9 x 0,02 x Lmin } + {0,005 x L + 13 x
0,003 x L}.
Thời điểm hưởng trợ cấp mới được tính từ tháng có kết luận của Hội đồng
giám định y khoa về mức suy giảm khả năng lao động sau khi vết thương tái phát
(khoản 2 Điều 44 Luật BHXH). Thời điểm chấm dứt hưởng trợ cấp tai nạn lao
động hàng tháng là thời điểm anh H chết (năm 2012).

Cũng tương tự như trên, sau khi ra viện, anh H có thể được nghỉ dưỡng sức,
phục hồi và được hưởng mức trợ cấp dưỡng sức, phục hồi theo quy định tại Điều 48
Luật BHXH.
2. Chế độ ốm đau.
• Điều kiện hưởng:
[4]


Anh H thuộc đối tượng được hưởng chế độ ốm đau theo điểm a khoản 1 Điều 2
Luật BHXH “Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt
Nam … Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn”. Anh H bị
ốm đau do tái phát vết thương năm 2006, do vậy anh đáp ứng đủ điều kiện hưởng chế
độ ốm đau theo khoản 1 Điều 22 Luật bảo hiểm xã hội và Điều 8 Chương II Nghị định
152/2006/NĐ-CP: “ Điều kiện hưởng chế độ ốm đau: 1. Bị ốm đau.. phải nghỉ việc và
có xác nhận của cơ sở y tế.” Như vậy, bị ốm đau được coi là điều kiện tiền đề của chế
độ bảo hiểm ốm đau. Các trường hợp người lao động bị tai nạn nhưng không phải là tai
nạn lao động cũng được xem là ốm đau và cũng được hưởng chế độ bảo hiểm này. Tuy
hiên, cần lưu ý những trường hợp ốm đau phải mang tính khách quan, tức là không do
lỗi của người lao động mới được coi là điều kiện hưởng bảo hiểm. Đây cũng là lý do
để pháp luật quy định những người lao động bị ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự
huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng ma tuý, chất gây nghiện khác ra khỏi đối
tượng hưởng bảo hiểm ốm đau. Phải nghỉ việc để điều trị chính là hệ quả thường xảy ra
trong các trường hợp người lao động bị ốm đau. Đây chính là điều kiện quan trọng để
xác định nhu cầu bảo hiểm thực sự của người lao động đồng thời bảo đảm nguồn chi
đúng mục đích và phát huy tích cực tác dụng của quỹ bảo hiểm xã hội. Hơn nữa, một
điều kiện không thể thiếu để được hưởng bảo hiểm ốm đau chính là xác nhận của cơ sở
y tế. Đây chính là chứng cứ pháp lý chứng minh sự kiện bảo hiểm đã phát sinh và là
căn cứ pháp lý để cơ quan bảo hiểm xã hội thanh toán bảo hiểm với các đối tượng thụ
hưởng. Xác nhận y tế này được coi là hợp lệ khi tổ chức y tế cấp giấy xác nhận được
thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của bộ y tế. Như vậy, theo pháp luật

hiện hành, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ
việc để điều trị, có xác nhận của cơ sở y tế thì được hưởng bảo hiểm ốm đau. Những
người lao động phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng ma
tuý, chất gây nghiện khác thì không được hưởng trợ cấp.
• Thời gian hưởng chế độ đau ốm:
[5]


Thời gian hưởng bảo hiểm ốm đau thường được tính theo ngày làm việc của người
lao động. Việc quy định bảo hiểm ốm đau phụ thuộc vào điều kiện lao động, thời gian
tham gia bảo hiểm xã hội, tình trạng bệnh tật của người lao động, mục đích bảo hiểm của
nhà nước và khả năng cân đối quỹ bảo hiểm xã hội.
Tính tới khi bị tái phát vết thương, anh H đã có 11 năm đóng bảo hiểm bắt buộc
( từ 1995 đến 2006). Đồng thời, do tình huống không đề cập đến điều kiện làm việc của
anh H nên có thể hiểu anh làm việc trong điều kiện làm việc bình thường. Do vậy theo
điểm a Khoản 1 Điều 23 Luật BHXH thì “Thời gian hưởng chế độ ốm đau:1…a) Làm
việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng ba mươi ngày nếu đã đóng bảo hiểm xã
hội dưới mười lăm năm”. Như vậy, thời gian anh H được hưởng chế độ ốm đau là 30
ngày.
• Mức hưởng chế độ ốm đau:
Như đã xác định ở trên, thời gian anh H hưởng chế độ ốm đau căn cứ theo điểm
a khoản 1 Điều 23. Đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 25 Luật BHXH thì xác
định mức hưởng chế độ ốm đau của anh H như sau: “Mức hưởng chế độ ốm đau :1.
Người lao động hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại khoản 1 Điều 23 ...của Luật
này thì mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng bảo hiểm xã hội của
tháng liền kề trước khi nghỉ việc.” Do đó, anh H được hưởng 75% mức tiền lương, tiền
công đóng bảo hiểm của tháng liền kề trước khi anh H nghỉ việc điều trị vết thương.

3. Chế độ bảo hiểm y tế.
Anh H được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm

được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà
nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của
Luật này3. Sở dĩ, anh C được hưởng chế độ bảo hiểm y tế vì anh thuộc một trong các

3

Khoản 1 Điều 2 Luật Bảo hiểm y tế 2008.

[6]


đối tượng tham gia đóng bảo hiểm y tế được quy định tại Điều 12 Luật Bảo hiểm y tế
2008, cụ thể anh thuộc đối tượng được quy định tại khoản 1 và khoản 4:
“1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn,
hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về
lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công
theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên chức
theo quy định của pháp luật (sau đây gọi chung là người lao động).

4. Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng do bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp…”
Anh H làm việc ở công ty Y được 12 năm thì bị tai nạn lao động. Như vậy, anh có đủ
các điều kiện cần thiết để được hưởng chế độ Bảo hiểm y tế như theo quy định của
pháp luật.
Theo Điều 22 Luật Bảo hiểm y tế thì anh H sẽ được bảo hiểm y tế chi trả 80% chi
phí khám chữa bệnh.

4. Chế độ tử tuất.
• Trợ cấp mai tang.
Khoản trợ cấp này nhằm trợ giúp một phần những phí tổn cho người thân của

người lao động trong việc lo tang lễ, chôn cất người lao động chết.
Căn cứ khoản 1 Điều 63 và khoản 1 Điều 2 Luật BHXH, các đối tượng khi chết
thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng gồm: Người làm việc theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở
lên; Cán bộ, công chức, viên chức; Công nhân quốc phòng, công nhân công an;…
[7]


Trong tình huống này, anh H vào làm việc tại công ty Y từ tháng 6 năm 1995
đến năm 2012, như vậy, có thể hiểu anh H đã làm việc cho công ty Y theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, anh H thuộc đối tượng mà khi chết, người thân của
họ được hưởng trợ cấp mai táng.
Theo đó, người thân của anh H sẽ được nhận số tiền trợ cấp mai táng bằng mười
tháng lương tối thiểu chung căn cứ theo khoản 2 Điều 63 Luật BHXH.
• Trợ cấp tuất.
Khoản trợ giúp này là khoản bảo hiểm thu nhập cho người lao động, phần thu
nhập dành cho các thành viên mà họ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng trong gia đình
như những người vì đã già (hết tuổi lao động) hoặc trẻ em (chưa đến tuổi lao động)
không thể hay chưa thể làm việc để kiếm tiền sinh sống. Nay nguồn sống này mất đi do
người lao động chết thì họ cần trợ giúp và quỹ bảo hiểm xã hội thực hiện vai trò trợ
giúp họ. Mặt khác, trợ cấp tiền tuất cũng được coi như kết quả đóng góp của người lao
động lúc sinh thời, nếu người đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội không được hưởng
hoặc chưa được hưởng đầy đủ, chưa hưởng trên mức trung bình,… mà bị chết thì
những người thân trong gia đình phải được hưởng phần trợ cấp mà đáng lẽ người lao
động được hưởng.4
Khoản 1 Điều 64 quy định về các trường hợp hưởng trợ cấp tuất hằng tháng như
sau:
“1. Các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 63 của Luật này thuộc một trong
các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng:
a)


Đã đóng bảo hiểm xã hội đủ mười lăm năm trở lên nhưng chưa hưởng

bảo hiểm xã hội một lần;
…”
4

Giáo trình Luật An sinh Xã hội, trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư pháp, năm 2005.

[8]


Như vậy, anh H thuộc đối tượng mà sau khi chết thì thân nhân được hưởng tiền
tuất hàng tháng vì anh đã có 17 năm đóng BHXH (do anh vào công ty Y làm việc từ
năm 1995 đến năm 2012).
Khoản 2 Điều 64 quy định những người là thân nhân của các đối tượng quy định
tại khoản 1 Điều này được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, bao gồm:
“a) Con chưa đủ mười lăm tuổi; con chưa đủ mười tám tuổi nếu còn đi học; con
từ đủ mười lăm tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên;
b) Vợ từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ sáu mươi tuổi trở lên;
vợ dưới năm mươi lăm tuổi, chồng dưới sáu mươi tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao
động từ 81% trở lên;
c) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà
đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ sáu mươi tuổi trở lên đối với nam,
từ đủ năm mươi lăm tuổi trở lên đối với nữ;
d) Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà
đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu dưới sáu mươi tuổi đối với nam, dưới
năm mươi lăm tuổi đối với nữ và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên.
Thân nhân quy định tại các điểm b, c và d khoản này phải không có thu nhập
hoặc có thu nhập hằng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung.”

Áp dụng điểm a và điểm c Điều này vào tình huống, anh H chết đi, để lại người
mẹ đã 65 tuổi và hai con: một cháu 16 tuổi và một cháu 12 tuổi. Như vậy, sẽ có các
trường hợp được hưởng trợ cấp tuất hàng tháng như sau:
Trường hợp 1: Cả 3 thân nhân của anh H đều được nhận trợ cấp tuất hàng tháng
nếu người con 16 tuổi của anh vẫn đang đi học hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ

[9]


81% trở lên và người mẹ 65 tuổi của anh không có thu nhập hoặc có thu nhập hàng
tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
Trường hợp 2: Có 2 thân nhân của anh H được nhận trợ cấp tuất hàng tháng là
người con 12 tuổi và người mẹ 65 tuổi nếu người con 16 tuổi không còn đi học hoặc
người mẹ 65 tuổi có thu nhập không thấp hơn mức lương tối thiểu chung.
Trường hợp 3: Chỉ có người con 12 tuổi được nhận trợ cấp tuất hàng tháng nếu
người con 16 tuổi không còn đi học và người mẹ có thu nhập không thấp hơn mức
lương tối thiểu chung.
Về mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, mỗi thân nhân được hưởng bằng 50%
mức lương tối thiểu chung, trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng
thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung (khoản 1 Điều 65
Luật BHXH). Như vậy, trong tình huống này, có thể hiểu 3 bà cháu sống với nhau và
có thể chăm sóc lẫn nhau, mỗi người được hưởng số tiền tuất bằng 50% mức lương tối
thiểu chung. Nhưng nếu vì một lý do nào đó mà đối tượng được hưởng trợ cấp tuất này
(theo các trường hợp trên) không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mỗi đối tượng sẽ
được hưởng số tiền tuất bằng 70% mức lương tối thiểu chung. Và họ sẽ được hưởng
khoản trợ cấp tuất này kể từ tháng liền kề sau tháng mà anh H chết, căn cứ theo khoản
3 Điều 65 Luật BHXH.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật an sinh xã hội_Trường đại học Luật Hà Nội_NXB Tư Pháp
2. Bộ luật lao động năm 1994 sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006 và 2007

3. Luật bảo hiểm xã hội năm 2006
4. Luật bảo hiểm y tế năm 2008
5. Nghị định số 152/2006/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã
hội bắt buộc
[10]


6. Thông tư số 03/2007/TT-BLĐTBXH sửa đổi bổ sung theo Thông tư 19/2008/TTBLĐTBXH và Thông tư 41/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thi hành Nghị định số
152/2006/NĐ-CP

[11]



×