ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ VÂN ANH
PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ ĐƯA NGƯỜI
LAO ĐỘNG VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC
THEO HỢP ĐỒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ VÂN ANH
PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ ĐƯA NGƯỜI
LAO ĐỘNG VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC
THEO HỢP ĐỒNG
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Liêm
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ ĐƯA NGƯỜI
LAO ĐỘNG VIỆT NAM RA NƯƠC NGOÀI LÀM VIỆC THEO HỢP
ĐỒNG 7
1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài 7
1.1.2. Sự cần thiết của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động
Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo hợp đồng 17
1.2. Pháp luật Việt Nam về hoạt động của doanh nghiệp đưa người lao động
Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 19
1.2.1. Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài 19
1.2.2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam đối
với doanh nghiệp hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng 24
1.2.3.Những nội dung cơ bản được điều chỉnh bởi pháp luật Việt Nam về đưa
người lao động Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo hợp đồng 26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP CUNG CẤP DỊCH VỤ ĐƯA NGƯỜI LAO
ĐỘNG VIỆT NAM RA NƯỚC NGOÀI LÀM VIỆC THEO HỢP ĐỒNG 29
2.1. Tình hình đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo Hợp
đồng của doanh nghiệp 29
2.2. Tổ chức của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đưa người lao động Việt
Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng 37
2.2.1. Thủ tục thành lập và mô hình quản lý của doanh nghiệp đưa người lao
độngViệt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng 37
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các doanh nghiệp đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng 39
2.3. Hoạt động của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đưa người lao động Việt
Nam ra nước ngoài làm việc theo Hợp đồng 46
2.3.1. Những hoạt động trước khi người lao động đi nước ngoài làm việc theo
Hợp đồng 46
2.3.2. Hoạt động quản lý của doanh nghiệp dịch vụ khi người lao động Việt
Nam đang làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 59
2.3.3. Hoạt động thanh lý hợp đồng cung ứng lao động của doanh nghiệp dịch vụ 62
2.3.4. Giải quyết tranh chấp trong hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng 65
2.3.5. Đánh giá pháp luật lao động Việt Nam hiện hành trong việc điều chỉnh
hoạt động của doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng 67
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
LAO ĐỘNG VIỆT NAM VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH
NGHIỆP ĐƯA NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC Ở NƯỚC
NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG 81
3.1. Những yêu cầu cơ bản đối với việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 81
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam về hoạt
động của doanh nghiệp dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng 84
3.3. Các giải pháp về nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật của doanh nghiệp đưa
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng 92
KẾT LUẬN 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLLĐ Bộ luật lao động
DN Doanh nghiệp
LĐTBXH Lao động Thương Binh và Xã Hội
NLĐ Người lao động
XKLĐ Xuất khẩu lao động
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một nước có nguồn lao động trẻ và dồi dào, hàng năm có
hàng triệu lao động cần việc làm. Quá trình đổi mới kinh tế và hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội việc làm cho NLĐ, nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Tuy nhiên tình trạng thất nghiệp và thiếu
việc làm còn chiếm tỷ lệ lớn, thu nhập của đại bộ phận dân cư vẫn còn ở
mức thấp. Hiện nay, đất nông nghiệp đang bị thu hẹp, lao động nông thôn dư
thừa ngày càng nhiều. Đồng thời, tại các khu vực công nghiệp, dịch vụ, do
sức ép cạnh tranh, nhiều DN không đứng vững buộc phải thu hẹp qui mô sản
xuất hoặc thay đổi công nghệ, dẫn đến hậu quả là một bộ phận lớn NLĐ bị
dôi dư đang thiếu việc làm, ảnh hưởng đến đời sống của chính bản thân và
gia đình họ cũng như toàn xã hội.
Trong khi đó, nhiều quốc gia, nhiều vùng lãnh thổ trên thế giới lại
đang trong tình trạng thiếu lao động hoặc giá nhân công tại chỗ quá cao. Họ
cần tuyển lao động từ các quốc gia khác sang làm việc. Từ đó phát sinh nhu
cầu cung ứng sức lao động và di chuyển lao động từ quốc gia này sang quốc
gia khác. Đây là một nhu cầu tất yếu xuất phát từ sự vận động khách quan
của thị trường lao động quốc tế. Vì vậy, đẩy mạnh XKLĐ là một trong
những giải pháp giải quyết việc làm được nhiều nước đang phát triển trên thế
giới quan tâm và khai thác tối đa.
Để giải quyết việc làm cho NLĐ trong nước và cải thiện đời sống của
họ cũng như gia đình họ, Việt Nam đã có nhiều chính sách giải quyết việc
làm, trong đó có hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Nhờ những chính sách quan tâm, hỗ trợ NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm
việc, trong khoảng 20 năm qua, Việt Nam đã trở thành nước có di cư lao
2
động lớn đến các thị trường lao động quốc tế ở Đông Á, Đông Nam Á và
Trung Đông. Chương trình lao động di trú quốc tế, thường được gọi là
XKLĐ được coi là một phần trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng và nhà nước ta. Đối với những NLĐ di trú thì đó là cách thức để có
việc làm, cùng với một mức thu nhập cao hơn cho bản thân, nâng cao mức
sống của họ và gia đình.
Trước đây, hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài được qui định trong mục 5a chương XI của BLLĐ và các văn
bản dưới luật khác. Nhưng nhìn chung các quy định này còn rất sơ sài, thiếu
cụ thể và còn nhiều điểm không phù hợp. Điều này đã gây nhiều bất cập
trong việc áp dụng pháp luật, gây thiệt hại cho NLĐ và tạo ra nhiều tranh
chấp phức tạp trong quá trình đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Trước tình
hình đó, tháng 11 năm 2006 tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XI đã thông
qua Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (có hiệu
lực từ 01 tháng 7 năm 2007). Sau đó, hàng loạt các nghị định và thông tư
hướng dẫn đã được ban hành.
Cho đến nay, sau hơn năm năm thực hiện, Luật NLĐ Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng vẫn bộc lộ nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới
lợi ích của NLĐ, gây khó khăn cho các DN đưa NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài, cũng như chưa thực sự thúc đẩy sự hợp tác giữa chính phủ Việt Nam
với chính phủ các nước trong lĩnh vực này. Vai trò của các DN dịch vụ trong
quá trình đưa NLĐ Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo hợp đồng là vô
cùng quan trọng bởi đây là lực lượng chủ yếu đưa NLĐ ra thị trường ngoài
nước làm việc. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt
động của DN đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đặt trong
mối quan hệ với việc nghiên cứu tổng quan hoạt động đưa NLĐ Việt Nam ra
nước ngoài làm việc, cũng như thực trạng ban hành và thực thi pháp luật
3
Việt Nam điều chỉnh hoạt động này là cần thiết. Đó chính là lý do để tác giả
lựa chọn đề tài “Pháp luật về tổ chức và hoạt động của DN cung cấp dịch
vụ đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng” làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Cho đến nay, đã có một số ít công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
đề cập đến đề tài này như:
- Pháp luật về đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn : Khoá luận tốt nghiệp / Hoàng Thị Quỳnh Trang; Người
hướng dẫn: TS Đỗ Ngân Bình, 2007
- Những điểm mới của luật NLĐ Việt Nam đi làm theo hợp đồng có thời hạn
ở nước ngoài : Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Thị Ngân; Người hướng dẫn:
TS Trần Thị Thuý Lâm, 2007
Ngoài ra, có một số tạp chí, bài viết liên quan đến vấn đề này như: Bài
“Xuất khẩu lao động Việt Nam trước yêu cầu hội nhập” của TS. Nguyễn
Quốc Luật đăng trên báo Người lao động ngày 25 tháng 1 năm 2008; Bài
“Kinh nghiệm quản lý nhà nước về XKLĐ của một số nước” của
PGS.TS.Phan Huy Đường đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện
hành chính, Số163(8/2009); Bài “Hoạt động XKLĐ: thực trạng và một số
khuyến nghị” của Nguyễn Thị Phượng đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập
pháp. Văn phòng quốc hội, Số22(11/2009); Bài “Sử dụng hợp lý nguồn
nhân lực sau XKLĐ trong hội nhập kinh tế quốc tế” của Phạm Đức Chính
đăng trên Tổ chức nhà nước. Bộ nội vụ. Số 6/2010…
Như vậy, đến nay vẫn có rất ít công trình cấp độ luận văn, luận án
nghiên cứu đề tài này. Ở mức độ nhất định, các công trình nêu trên đã phân
tích, đánh giá và đưa ra những kiến nghị liên quan đến việc nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Nhưng
4
hầu như các bài viết nói trên chưa đánh giá được một cách toàn diện những
bất cập của pháp luật Việt Nam về DN hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Bên cạnh đó, do mục đích và phạm vi nghiên cứu, những công trình
trên hoặc nghiên cứu quá rộng về pháp luật đưa NLĐ Việt Nam đi nước
ngoài nói chung, hoặc chỉ tập trung vào những điểm mới của Luật NLĐ Việt
Nam đi làm theo hợp đồng có thời hạn ở nước ngoài. Tuy vậy, đây vẫn là
những tài liệu nghiên cứu quan trọng được tác giả lựa chọn tham khảo khi
thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình.
Trong phạm vi đề tài này, trên cơ sở có tiếp thu và kế thừa các công trình
nghiên cứu trước đây, tác giả đặt vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ chặt chẽ
với yêu cầu của thực tiễn hiện tại để làm rõ những bất cập của pháp luật Việt
Nam trong việc đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng của
DN dịch vụ, qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực
này. Tác giả cho rằng luận văn “Pháp luật về tổ chức và hoạt động của DN
cung cấp dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng”
sẽ là một công trình nghiên cứu tương đối hệ thống về tổ chức, hoạt động của
DN đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng kể từ khi Luật
về vấn đề này có hiệu lực (01/7/2007) cho đến nay. Trên cơ sở đó đánh giá
những tác động, ảnh hưởng của pháp luật Việt Nam với thực tiễn điều chỉnh
quan hệ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhằm đề
xuất những giải pháp, kiến nghị khả thi hướng tới việc hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng của DN
dịch vụ, phù hợp với xu thế vận động của thị trường lao động quốc tế.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu tổng quan hoạt động đưa NLĐ
Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng của DN dịch vụ, qua đó phân
5
tích thực trạng ban hành và thực thi pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động
này để tìm ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới, nêu lên
sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả pháp luật về đưa NLĐ Việt Nam ra nước
ngoài làm việc, từ đó, luận văn đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật, tăng cường sự hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động này. Mục đích lớn
nhất của luận văn là nhằm đóng góp những giải pháp hữu hiệu nhất để giải
quyết những bất cập trong hoạt động XKLĐ theo hợp đồng của DN dịch vụ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu trong phạm vi các qui
định của pháp luật Việt Nam về DN dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng dưới góc độ của pháp luật lao động. Do đó, tác
giả sẽ đi sâu nghiên cứu một số vấn đề lý luận chủ yếu về DN đưa NLĐ Việt
Nam ra nước ngoài làm việc được quy định tại Luật NLĐ Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006, phân tích thực trạng những hạn
chế, vướng mắc của các quy định pháp luật về vấn đề đó để đưa ra một số
kiến nghị về lập pháp và tư pháp. Những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực
đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nhưng do pháp luật của quốc
gia tiếp nhận lao động điều chỉnh, hoặc được sự điều chỉnh của các hiệp định
quốc tế về lao động, của các Công ước quốc tế về lao động di trú sẽ không
được nghiên cứu trong phạm vi của đề tài này mà chỉ được tiếp cận theo
hướng so sánh, tiếp thu những giá trị pháp lý đó vào pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu có nền tảng là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngoài ra, Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu như: phân tích qui phạm, mô hình hóa và điển hình hóa các quan hệ xã
hội, phương pháp phân tích tình huống, thống kê, tổng hợp các kiến thức từ
pháp luật thực định và phân tích thực tiễn để nhận thức và đánh giá thực
6
trạng điều chỉnh pháp luật và thực thi pháp luật. Để phân tích và lý giải sâu
vấn đề, luận văn còn sử dụng các phương pháp như: so sánh pháp luật, lịch
sử, phương pháp đối chiếu, diễn giải, quy nạp, xã hội học pháp luật…
6. Những đóng góp của luận văn
Hoạt động đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc là vấn đề đã
được một số chuyên gia ở các lĩnh vực khác nhau nghiên cứu và xuất bản
dưới dạng sách hoặc các bài viết, bài tham luận, bình luận, chuyên khảo
được đăng trên các tạp chí, bài báo và các trang thông tin điện tử. Tuy nhiên,
trước những thay đổi từ thực tiễn khách quan, tác giả nhận thấy cần phải tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn nữa đề tài này trên cơ sở tiếp thu các thành quả, giá
trị khoa học của các đề tài nghiên cứu trước đó, đồng thời đặt vấn đề nghiên
cứu trong mối liên hệ chặt chẽ với yêu cầu của thực tiễn hiện tại để làm rõ
những bất cập của Pháp luật Việt Nam trong việc đưa NLĐ Việt Nam ra
nước ngoài làm việc theo hợp đồng của DN dưới cả góc độ lý luận và thực
tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị mang tính tổng quan và
cập nhật từ những yêu cầu thực tiễn, nhằm góp một phần hoàn thiện hơn nữa
cơ chế pháp lý về vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, danh mục từ viết tắt, luận văn được chia làm ba chương với nội dung
cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan về DN dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam ra nước
ngoài làm việc theo hợp đồng
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của DN dịch
vụ đưa NLĐ Việt Nam ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật lao động Việt
Nam về tổ chức và hoạt động của DN đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng
7
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP DỊCH VỤ ĐƯA NGƯỜI LAO
ĐỘNG VIỆT NAM RA NƯƠC NGOÀI LÀM VIỆC THEO HỢP ĐỒNG
1.1. Khái quát chung về doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp đưa người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài
a. Khái niệm
Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, việc NLĐ di chuyển từ quốc
gia này sang quốc gia khác để tìm kiếm việc làm đã trở thành một hiện tượng
phổ biến. Hiện tượng này được gọi là lao động di cư quốc tế. Theo Khoản 1-
Điều 2- Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những NLĐ di trú và gia đình
họ năm 1990 của Liên hợp quốc thì “Lao động di trú là thuật ngữ dùng để
chỉ một người đã, đang và sẽ làm một công việc có hưởng lương tại một
quốc gia mà người đó không phải là công dân”.
Theo pháp luật Việt Nam thì hoàn toàn chưa đề cập đến khái niệm lao
động di trú mà chỉ đề cập đến khái niệm “hợp tác quốc tế về lao động”,
“XKLĐ” và sau này là khái niệm “NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng”. Đây là những thuật ngữ đã từng được sử dụng trong từng giai đoạn
nhất định của hoạt động đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Việt Nam đã chính thức đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài từ năm
1980 và sử dụng thuật ngữ “hợp tác quốc tế về lao động” trong các văn bản
điều chỉnh hoạt động này. Tại thời điểm này và tương ứng với xu thế thực
tiễn của Việt Nam trong bối cảnh đó, “hợp tác quốc tế về lao động” được
hiểu là sự liên kết, giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong việc giải quyết
việc làm. Hoạt động này không chỉ mang tính chất kinh tế mà còn có ý nghĩa
chính trị và chỉ diễn ra giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhằm thắt
8
chặt tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, trong các tài liệu quốc tế nói chung về lao động ra nước
ngoài làm việc (được quan niệm là một hình thức cơ bản của lao động di trú)
hầu như không sử dụng thuật ngữ này. Hoặc nếu được nhắc đến thì lại được
hiểu giống như hoạt động hợp tác và phân công lao động quốc tế. Như vậy,
thuật ngữ “hợp tác quốc tế về lao động” chỉ được sử dụng với nghĩa hẹp và
trong phạm vi một số nước xã hội chủ nghĩa cũ. Trên thực tế, hợp tác lao
động quốc tế không chỉ bao gồm việc đưa NLĐ trong nước đi làm việc ở
nước ngoài, mà còn gồm cả hình thức XKLĐ tại chỗ cũng như việc đưa lao
động nước ngoài vào làm việc tại nước mình. Do việc sử dụng thuật ngữ
“hợp tác quốc tế về lao động” không phản ánh được toàn diện và đầy đủ nội
dung của vấn đề này nên khi ký kết hiệp định với các nước, Việt Nam đã có
những điều khoản chưa rõ ràng dẫn đến những phức tạp trong quan hệ giữa
chúng ta với những nước tiếp nhận lao động. Ví dụ như, những rắc rối về
phương thức thanh toán tiền thuê lao động giữa các chính phủ, khó khăn
trong chuyển tiền của NLĐ từ nước ngoài vào Việt Nam.
Sau đó, trong một số văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đưa lao
động Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài đã sử dụng thuật ngữ thay thế là
“XKLĐ”. Thông thường, thuật ngữ “xuất khẩu” dùng để chỉ hoạt động kinh
tế của chủ thể kinh doanh nhằm đưa hàng hoá, tư bản ra nước ngoài hoặc của
chủ thể nào đó nhằm phổ biến tư tưởng ra nước ngoài. Việc sử dụng thuật
ngữ kép “XKLĐ” do làm nảy sinh quan điểm coi sức lao động là hàng hoá có
thể xuất khẩu được và nhiều trường hợp bị hiểu nhầm là NLĐ cũng có thể
trở thành hàng hoá xuất khẩu được. Điều này trái với bản chất của quá trình
đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài bởi những chủ thể đưa NLĐ ra nước
ngoài được hưởng lợi (lệ phí) từ hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài chứ không phải là hưởng tiền bán NLĐ hoặc bán sức lao động.
9
Ngoài ra, theo quan điểm của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thể hiện trong
Hiến chương của Tổ chức này thì lao động không phải là loại hàng hoá thông
thường mà các chủ thể có thể đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường như
những hàng hoá khác. Về mặt bản chất, sức lao động được xem như một loại
hàng hoá đặc biệt, nó là tài sản vô hình, tồn tại bên trong NLĐ như là những
tài sản đặc định gắn với nhân thân của từng người. Sức lao động của ai sẽ do
người đó tự định đoạt và họ là chủ sở hữu hoàn toàn tự do trước các chủ thể
khác có nhu cầu trong xã hội. Ngay cả nhà nước cũng chỉ có thể ra mệnh
lệnh buộc công dân của mình phải thực hiện nghĩa vụ lao động chứ không
thể trưng thu hoặc quốc hữu hoá sức lao động của công dân được. Từ sự
phân tích trên, các nhà khoa học pháp lý đã đưa ra đề xuất là không nên sử
dụng cụm từ “XKLĐ” mà thay vào đó nên sử dụng cụm từ “đưa NLĐ Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài”. Điều này vừa đảm bảo được tính khoa học
của thuật ngữ tiếng Việt, vừa phù hợp với bản chất và vai trò của hoạt động
đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Thuật ngữ “đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài” được sử dụng chính
thức lần đầu tiên trong nghị định số 270/HĐBT ngày 09/11/1991, ban hành
quy chế về đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đây
cũng là văn bản pháp luật quan trọng đánh dấu sự chuyển đổi cơ chế điều
chỉnh bằng pháp luật trong lĩnh vực này. Sau đó, BLLĐ năm 1994 được ban
hành đã sử dụng thuật ngữ “đưa NLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài”
và được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật của nhà nước ta từ
những năm 1990 đến nay. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, sức lao
động được coi là một thứ hàng hóa đặc biệt, không chỉ được tự do thuê
mướn ở trong nước mà c
̣
òn có thể chuyển dịch ra nước ngoài với mục đích
kinh tế, nhằm thu ngoại tệ về cho Việt Nam. Hiện nay, trong Luật NLĐ Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, cụm từ “XKLĐ” đã chính thức
10
được thay thế bằng cụm từ “đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng”. Theo Khoản 1 Điều 3 Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng có định nghĩa “NLĐ đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng (sau đây gọi là NLĐ đi làm việc ở nước ngoài) là công dân
Việt Nam cư trú tại Việt Nam, có đủ các điều kiện theo quy định của pháp
luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận NLĐ, đi làm việc ở nước
ngoài theo quy định của Luật này.”
Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng không đưa
ra khái niệm về DN hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài
song theo các quy định của Luật này, có thể hiểu đây là các chủ thể kinh
doanh có điều kiện trong lĩnh vực dịch vụ việc làm nhằm đưa NLĐ Việt
Nam ra nước ngoài làm việc trên cơ sở sự thỏa thuận bằng văn bản. Các chủ
thể kinh doanh này “phải có vốn pháp định theo quy định của Chính phủ và
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài” [24, Điều 8]. Các DN có đủ điều kiện được
cấp phép sẽ tiến hành tìm kiếm các ứng viên phù hợp để giới thiệu cho các
đối tác nước ngoài đang có nhu cầu tuyển lao động, sau đó đào tạo định
hướng hoặc dạy nghề cho NLĐ, tiến hành các thủ tục cần thiết để giúp NLĐ
xuất cảnh khỏi Việt Nam, nhập cảnh vào nước tiếp nhận lao động. Kết quả
của hoạt động này là các quan hệ lao động được hình thành giữa NLĐ Việt
Nam và DN, cá nhân nước ngoài là người sử dụng lao động theo hợp đồng
lao động được ký trực tiếp giữa các bên. Tuy nhiên, do hoạt động dịch vụ
cung ứng lao động giữa nhà trung gian cung ứng lao động Việt Nam và đối
tác nước ngoài có nhu cầu tuyển dụng lao động chịu sự điều chỉnh chủ yếu
của các điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia đó nên tạm thời chưa được đề
cập trong phạm vi của đề tài này.
11
b. Đặc điểm của doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài
Theo Điều 6 Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng thì các hình thức mà NLĐ Việt Nam có thể đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng là:
1. Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với DN hoạt động dịch
vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt
động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài;
2. Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài với DN trúng thầu, nhận
thầu hoặc tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài có đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài;
3. Hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập
nâng cao tay nghề với DN đưa NLĐ đi làm việc dưới hình thức thực tập
nâng cao tay nghề;
4. Hợp đồng cá nhân.
Theo đó, ngoài các DN được phép hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài thì còn có các DN trúng thầu, nhận thầu hoặc đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài dưới hình thức thực tập nâng cao tay nghề hoặc theo hợp
đồng cá nhân. Hình thức đưa NLĐ Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo
hợp đồng với DN hoạt động dịch vụ này là trường hợp các tổ chức kinh tế
Việt Nam được phép tuyển dụng lao động Việt Nam để đưa đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng cung ứng lao động. Hình thức này tương đối phổ
biến, được thực hiện rộng rãi trong các năm vừa qua và những năm tới. Hình
thức đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận thầu, khoán công trình ở
nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài là trường hợp DN tuyển lao động và
chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện hợp đồng kinh tế
với bên nước ngoài; các DN Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công trình ở
12
nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản phẩm
hoặc các hình thức đầu tư khác ở nước ngoài. Hình thức đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài thông qua thực tập, nâng cao tay nghề chủ yếu do các DN
có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện để đưa lao động sang thực tập tại cơ sở
sản xuất chính ở nước ngoài. Những năm vừa qua, các hình thức này tuy
chưa phổ biến nhưng theo chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và
khu vực, mở rộng và tăng cường kinh tế đối ngoại thì hình thức này sẽ ngày
càng phát triển. Hình thức đưa NLĐ Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo
hợp đồng lao động giữa các cá nhân NLĐ với người sử dụng lao động nước
ngoài ở nước ta chưa phổ biến vì muốn ký được hợp đồng với phía nước
ngoài, NLĐ phải có những hiểu biết cần thiết về nhiều mặt như các thông tin
về đối tác nước ngoài, về ngôn ngữ, khả năng giao tiếp với người nước
ngoài…vv. Trong khi đó, trình độ hiểu biết các vấn đề kinh tế, văn hoá, xã
hội và pháp luật của NLĐ Việt Nam còn những hạn chế nhất định.
Có thể nói, trong các hình thức trên, hình thức đưa NLĐ Việt Nam đi
nước ngoài làm việc của DN cung ứng lao động là hình thức chủ yếu để
NLĐ có thể đến được với các thị trường lao động trên thế giới. Theo báo cáo
của Chính phủ, tính đến 30/6/2010, Việt Nam có 167 DN đang hoạt động
dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi
chung là DN), trong đó có 98 DN 100% vốn nhà nước hoặc cổ phần có vốn
nhà nước chi phối; 39 DN cổ phần vốn nhà nước không chi phối; 30 DN tư
nhân; 18 DN xác định hoạt động đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài là
hoạt động kinh doanh chính, còn lại là các DN kinh doanh đa ngành [21].
Các DN là lực lượng chính thực hiện đưa khoảng 80% NLĐ đi làm việc ở
nước ngoài theo kế hoạch hằng năm. Để hoạt động trong lĩnh vực này, các
DN dịch vụ mang những đặc điểm riêng so với các DN kinh doanh trong các
13
lĩnh vực khác , đó là những đặc thù của hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ
cung ứng lao động cho nước ngoài, mà đối tượng của nó là con người.
Thứ nhất, DN dịch vụ XKLĐ được tổ chức, thành lập theo quy định
chặt chẽ của ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Theo Điều 2 nghị định số 126/2007/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng thì “DN được xem xét cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là Giấy phép) là DN được
thành lập và hoạt động theo Luật DN có 100% vốn điều lệ của các tổ chức,
cá nhân Việt Nam”
Như vậy, các DN hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi nước ngoài
làm việc theo hợp đồng mặc dù được thành lập và chịu sự điều chỉnh của Luật
DN, song do đặc thù của ngành nghề kinh doanh là trong lĩnh vực lao động mà
cụ thể là việc làm nên các loại hình DN này cũng mang những đặc điểm riêng
về thủ tục thành lập so với các DN kinh doanh trong các lĩnh vực khác.
Trước tiên, DN hoạt động dịch vụ đưa NLĐ Việt Nam đi nước ngoài
làm việc theo hợp đồng phải có vốn pháp định là 5 tỷ đồng và có tiền ký quỹ
tại ngân hàng 1 tỷ đồng. Vốn pháp định được xác định như là một ”ngưỡng”
tài chính tối thiểu mà nhà nước yêu cầu nhà đầu tư phải đáp ứng và chứng
minh bằng các phương thức khác nhau rồi mới được phép hoạt động kinh
doanh. Đối với lĩnh vực đưa người lao động ra nước ngoài làm việc, ngoài
các chi phí để xúc tiến tìm hiểu thị trường, chi phí giao thông, DN dịch vụ
còn phải tổ chức đào tạo, giáo dục định hướng, bồi dưỡng kiến thức cho
NLĐ, có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của NLĐ khi họ làm việc ở nước
ngoài…Những hoạt động này đòi hỏi vốn lớn và cần bảo hiểm rủi ro, vì vậy
việc quy định mức vốn tối thiểu và tiền ký quỹ là điều cần thiết.
14
Ngoài ra, DN dịch vụ cần phải có đề án hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài; có bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết
cho NLĐ trước khi đi làm việc ở nước ngoài và hoạt động đưa NLĐ đi làm
việc ở nước ngoài theo quy định của Bộ LĐTBXH, nếu DN lần đầu tham gia
hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài thì phải có phương án tổ chức
bộ máy chuyên trách để bồi dưỡng kiến thức cần thiết và hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài; người lãnh đạo điều hành hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài phải có trình độ từ đại học trở lên, có ít nhất
ba năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài hoặc
hoạt động trong lĩnh vực hợp tác và quan hệ quốc tế;
Thứ hai, DN dịch vụ XKLĐ là tổ chức trung gian làm cầu nối giữa NLĐ
với NSDLĐ và nhân danh chính mình để thực hiện giao dịch với các bên.
Dịch vụ XKLĐ trong các DN được hiểu là toàn bộ các hoạt động hỗ
trợ liên quan đến quá trình đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài của DN. Những hoạt động dịch vụ đó bao gồm: nghiên cứu thị
trường, tìm kiếm đối tác, ký kết hợp đồng; tổ chức tuyển chọn lao động, đào
tạo giáo dục định hướng; tổ chức đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài;
quản lý và bảo vệ quyền lợi của lao động ở nước ngoài và đưa lao động về
nước khi hết hạn hợp đồng. Đổi lại, NLĐ chi trả cho DN khoản phí gọi là phí
dịch vụ. Kết quả của những hoạt động này là hình thành các mối quan hệ
song song tồn tại giữa NLĐ và DN dịch vụ, giữa DN dịch vụ và bên môi
giới, DN sử dụng lao động ở nước ngoài và giữa DN sử dụng lao động ở
nước ngoài với NLĐ. Các quan hệ này được xác lập trên cơ sở hợp đồng
bằng văn bản: hợp đồng đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, Hợp đồng lao
động. Các hợp đồng này có tính chất là hợp đồng song vụ, ưng thuận và có
tính chất đền bù. Theo đó, DN dịch vụ phải tự chịu trách nhiệm về hoạt động
dịch vụ đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài của mình.
15
Thứ ba, hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài của DN dịch vụ
phải đảm bảo được lợi ích của cả 3 bên: Nhà nước - NLĐ - DN đưa đi.
Trong hoạt động này, lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ
mà NLĐ ở nước ngoài gửi về, là khoản thu từ thuế thu nhập cá nhân. Lợi ích
của tổ chức, DN hoạt động trong lĩnh vực này là các khoản thu từ các loại
phí dịch vụ. Còn lợi ích của NLĐ là có công ăn việc làm, thu nhập chắc chắn
sẽ cao hơn nhiều so với ở trong nước. Xuất phát từ lợi ích, các DN rất dễ vi
phạm quy định của Nhà nước trong việc thu các loại phí dịch vụ, đóng thêm
các khoản tiền ngoài quy định của pháp luật. Ngược lại, vì chạy theo lợi ích,
mong muốn nhanh chóng thu hồi những khoản chi phí đã bỏ ra để được đi
làm việc ở nước ngoài, nhiều NLĐ đã vi phạm hợp đồng (như bỏ trốn ra
ngoài làm việc bất hợp pháp, vi phạm pháp luật nước sở tại…). Do đó, các
chế độ, chính sách pháp luật về đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài khi ban
hành phải được xem xét trên mọi khía cạnh, phải được tính toán sao cho đảm
bảo sự hài hoà lợi ích của các bên, đặc biệt quan tâm tới lợi ích của NLĐ.
Thứ tư, hoạt động của các DN làm dịch vụ đưa NLĐ ra nước ngoài
làm việc chịu sự tác động mạnh mẽ của các biến động của thị trường sử dụng
lao động.
Khi nền kinh tế thế giới biến động nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến số
lượng lao động mà nền kinh tế đó cần. Nếu nền kinh tế tăng trưởng thì nhu
cầu về lao động sẽ tăng lên do các ngành, các DN tăng cường sản xuất mở
rộng thị trường, ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái thì các DN buộc phải cắt
giảm lao động do thị trường bị thu hẹp, người dân tiết kiệm chi tiêu. Do tác
động của quá trình toàn cầu hóa mà nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển
kéo theo nhu cầu về lao động của các quốc gia ngày càng tăng mạnh. Theo
Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), thị trường lao động thế giới hiện nay đã tăng gấp
4 lần so với năm 1980 và dự báo sẽ tăng gấp đôi vào 2050. Trong điều kiện
16
mà mỗi quốc gia đều dựa vào lợi thế của mình cũng như thị trường lao động
thế giới để đưa NLĐ đi nước ngoài làm việc thì tính liên kết và phụ thuộc
giữa các nước ngày càng tăng lên. Chính vì điều này mà mỗi sự biến động
của tình hình kinh tế- xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất
định đối với hoạt động đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài.
Ngoài ra, sự biến động của các yếu tố chính trị, pháp luật của nước
tiếp nhận lao động cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình đưa NLĐ Việt Nam
ra nước ngoài của doanh nghiệp. Điển hình là năm 2011, những diễn biến
phức tạp và bất ổn về chính trị ở Bắc Phi, Trung Đông; thảm họa về động
đất, sóng thần ở Nhật Bản; hậu khủng hoảng, suy thoái về kinh tế vẫn còn có
những bất lợi hiện hữu về việc làm; đặc biệt do bất ổn về chính trị ở Libi,
Chính phủ ta đã phải quyết định đưa hơn 10.000 lao động về nước. Rõ ràng
XKLĐ là một hoạt động kinh tế đối ngoại có nét đặc thù và chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố khác nhau, bị tác động bởi các nền kinh tế và các chính sách
phát triển của các nước, đồng thời nó cũng tác động trở lại đối với nền kinh
tế và xã hội của cả nước xuất, nhập khẩu lao động.
Thứ năm, hoạt động đưa NLĐ ra nước ngoài làm việc của DN dịch vụ
chịu sự điều chỉnh của nhiều loại quy phạm pháp luật.
Đây cũng là một loại quan hệ phát sinh trong lĩnh vực lao động, vì vậy
nó được pháp luật lao động điều chỉnh một cách thống nhất. Bên cạnh đó,
hoạt động này còn chịu sự điều chỉnh của luật dân sự (về hợp đồng, bảo lãnh,
tiền ký quỹ, ), luật hành chính (về vấn đề xuất, nhập cảnh, xử lư vi phạm
hành chính), luật hình sự (đối với các vi phạm hình sự), luật tố tụng dân sự
(đối với vấn đề giải quyết tranh chấp),
Quan hệ này cũng chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật quốc
tế như các Hiệp định ký kết giữa Chính phủ với các nước, các quy phạm
pháp luật quốc gia mà NLĐ đến làm việc. Đôi khi, không tránh khỏi tình
17
trạng xung đột pháp luật. Vì vậy, trong quá trình xây dựng các chính sách,
pháp luật điều chỉnh hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong nước với nhau và giữa
pháp luật trong nước với pháp luật và thông lệ quốc tế.
1.1.2. Sự cần thiết của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động
Việt Nam đi nước ngoài làm việc theo hợp đồng
Việt Nam là một quốc gia đông dân trên 90 triệu người. Cùng với sự gia
tăng dân số sẽ bổ sung nguồn lao động lớn hàng năm, khi đó mâu thuẫn giữa
lao động và việc làm sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Nếu không giải quyết một
cách hài hòa và có những bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội
sẽ dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã hội. Do đó, hoạt động đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài đã trở thành một lĩnh vực cứu cánh cho bài
toán giải quyết việc làm không những đối với Việt Nam mà còn đối với hầu
hết các nước XKLĐ trong khu vực và trên thế giới. Cùng với hướng giải
quyết việc làm trong nước là chính, đưa NLĐ đi làm việc ở nước ngoài là
một định hướng chiến lược tích cực quan trọng, lâu dài, cần phải được phát
triển lên một tầm cao mới.
Việc thực hiện chính sách đưa NLĐ ra nước ngoài làm việc sẽ tạo cơ
hội để sử dụng số lao động thất nghiệp vào việc sản xuất ra hàng hóa, dịch
vụ tại nước khác, mang lại thu nhập cho NLĐ; đồng thời góp phần làm tăng
thu nhập quốc gia. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, năm 2006, người
Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước bằng con đường chính thức là 4,8 tỉ
USD, tương đương với 7,9% GDP năm 2006 [12]. Đối với đa số DN đưa
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài, đây là một hoạt động kinh doanh thuần túy,
do đó, mục tiêu của họ là hướng tới các khoản lợi nhuận thu được thông qua
hoạt động này. Đối với nhà nước, việc cho phép đưa NLĐ ra nước ngoài làm
việc tạo điều kiện để chúng ta tận dụng nguồn nhân lực làm tăng thu nhập
18
quốc gia. Bên cạnh đó, việc đưa NLĐ ra nước ngoài làm việc còn góp phần
thúc đẩy chi tiêu của Chính phủ cho việc nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực. NLĐ ra nước ngoài làm việc muốn được DN nước sở tại tiếp nhận thì họ
phải có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ ngoại ngữ nhất định theo yêu cầu
của chủ sử dụng lao động. Do vậy, Chính phủ phải đầu tư về cơ sở vật chất,
đội ngũ giảng viên và các điều kiện khác để đảm bảo cho việc đào tạo NLĐ.
Điều này sẽ làm tăng chi tiêu của Chính phủ. Khi chi tiêu cho đầu tư của
Chính phủ tăng sẽ góp phần làm tăng GDP cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Việc đưa lao động ra nước ngoài làm việc cũng tạo điều kiện cho việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu ngành nghề cho phù hợp với
sự thay đổi của thực tiễn kinh tế - xã hội.
Việc đưa NLĐ ra nước ngoài làm việc c
̣
òn góp phần trực tiếp nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Khi đi làm việc ở nước ngoài, NLĐ được trang
bị một khối lượng kiến thức học vấn và ngoại ngữ cơ bản. Khi được làm việc
trong môi trường công nghiệp hiện đại, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, trình
độ tay nghề và kỹ năng nghề nghiệp của họ ngày càng được nâng cao.
Chính vì những lợi ích và tầm quan trọng nói trên của hoạt động đưa NLĐ
đi làm việc ở nước ngoài mà vai trò của các DN hoạt động dịch vụ đưa NLĐ đi
làm việc ở nước ngoài (động lực thúc đẩy sự phát triển của lao động ngoài
nước) lại càng cần thiết. Hoạt động dịch vụ đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài (nói gọn là dịch vụ việc làm ngoài nước) là hoạt động liên quan trực tiếp
đến quyền và lợi ích của NLĐ đi làm việc ở nước ngoài. Đây là một trong
những loại hình dịch vụ nếu được tổ chức thực hiện tốt, sẽ đưa lại hiệu quả to
lớn, nhiều mặt cho cả DN, NLĐ và xã hội. Đồng thời, nó cũng là hoạt động có
tính nhạy cảm cao, ẩn chứa không ít rủi ro, nên nếu không phòng ngừa được,
thì dẫn tới thiệt hại cho cả DN và NLĐ và hệ quả tiêu cực cho xã hội.