Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thực trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.8 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nuôi con nuôi là một chế định quan trọng không chỉ trong hệ thống
pháp luật của nhiều nước mà cũng thể hiện rất rõ trong pháp luật quốc tế. Chế
định nuôi con nuôi được các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đặc biệt
là sự bảo vệ về pháp lý rất cần thiết nhằm đảm bảo những lợi ích tốt nhất cho
những trẻ em không những chỉ non nớt về thể chất và trớ tuệ mà cũng có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn cần được sự chăm sóc từ phía gia đình và xã hội.
Qua tình hình người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi trong những năm vừa qua, một vấn đề có tính cấp thiết được đặt ra đối
với Việt Nam là cần nghiên cứu, tham gia các Công ước quốc tế đa phương,
ký kết các điều ước quốc tế song phương nhằm tạo ra một cơ chế hợp tác
quốc tế chặt chẽ giữa Việt Nam với các nước liên quan về lĩnh vực này, đảm
bảo cho trẻ em được nhận làm con nuôi có đủ điều kiện được hưởng những
gỡ tốt đẹp nhất, cũng như tạo thuận lợi hơn về mặt thủ tục cho cha mẹ nuôi
trong lĩnh vực này. Mặt khác cũng nhằm hạn chế đến mức tối đa những hiện
tượng tiêu cực có thể xảy ra trong lĩnh vực hết sức nhạy cảm này.
Chính vì mục đích như vậy, mà chúng em xin chọn đề tài “Thực
trạng nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam’’, để
thấy rõ những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt Nam. Để từ đó có những
giải pháp phù hợp trong quá trình phát triển.
Dù đã cố gắng song bài viết vẫn không thể tránh được những thiếu sót
và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ giáo của các thầy cô giúp
cho bài viết được hoàn chỉnh hơn với sự cảm ơn chân thành nhất.!

1


NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
I.Khát quát chung về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
I.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:


Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là thuật ngữ pháp lý thuộc chuyên
ngành tư pháp quốc tế. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một trong các
nhóm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Đó là việc nuôi con
nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài
thường trú ở Việt Nam với nhau hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà
căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó tồn tại ở nước ngoài.
I.2. Mục đích, ý nghĩa của nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là giải pháp cuối cùng và giải pháp
này có lợi là đem lại một gia đình ổn định cho trẻ em trong trường hợp không
thể tìm được gia đình thích hợp cho trẻ ngay tại nước mình.Việc nuôi con
nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt
nhất của người được nhận làm con nuôi, giúp đỡ những trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt để các em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường
thay thế, hòa nhập với cộng đồng và có điều kiện phát triển thành người có
ích cho xã hội.
Bên cạnh đó góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chông nhận
con nuôi, nhất là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm con, phụ nữ có hoàn cảnh
khó khăn, sống đơn thân.
II. Những quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
II.1 Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
2


Theo nghị định tại Điều 35 Nghị định 68/2002/NĐ-CP, việc giải quyết cho
người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải được thực hiện
dựa trên hai nguyên tắc sau:
Thứ nhất, đảm bảo việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện
trên tinh thần nhân đạo, nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ và tôn trọng các
quyền cơ bản của trẻ đã được pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế ghi

nhận. Đây là nguyên tắc trước đây chưa được khăng định ( trong Nghị định
184/CP). Có thể thấy rằng nguyên tắc cơ bản của việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài theo pháp luật Việt Nam dựa trên nguyên tắc tối thượng của Công
ước lahay 1993.
Thứ hai, việc cho người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em
có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi chỉ được xem xét giải quyết nếu Việt
Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ky kết hoặc cùng gia
nhập Điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con ( trừ trường hợp ngoại lệ). Đây là
một quy định mới so với quy định của Nghị định 184/ Cp trước đây và đã làm
thay đổi căn bản về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi.
II.2 Điều kiện nhận con nuôi:


Điều kiện đối với người nhận con nuôi:

Theo Điều 35.Luật HN & GĐ , Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi
quy định: “ Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt
Nam làm con nuôi, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và Việt
Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước
quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết,
nếu người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06 tháng trở lên;
b) Có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam;
3


c) Có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm con nuôi
hoặc đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được xin nhận làm con
nuôi;…”



Điều kiện đối với người được nhận là con nuôi :

Theo Điều 36- Luật HN& GĐ. Trẻ em được nhận làm con nuôi
1.Trẻ em được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở
xuống. Trẻ em từ trên mười lăm tuổi đến dưới mười sáu tuổi có thể được nhận
làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật, trẻ em mất năng lực hành vi dân sự.
Trẻ em chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là
vợ chồng. Vợ chồng phải là những người khác giới có quan hệ hôn nhân.
2. Trẻ em được nhận làm con nuôi là trẻ em đang sống tại các cơ sở
nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp tại Việt Nam, bao gồm:
a) Trẻ em bị bỏ rơi;
b) Trẻ em mồ côi;
c) Trẻ em khuyết tật, tàn tật;…”


Về sự đồng ý của cha mẹ đẻ, người giám hộ và người được nhận
làm con nuôi:

1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của
người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý
của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành
vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám
hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải
được sự đồng ý của trẻ em đó.

4



2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải
được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi
con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ
giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi.
3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc,
không bị đe doạ hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả
tiền hoặc lợi ích vật chất khác.
4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã
được sinh ra ít nhất 15 ngày.
II.3 Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con nuôi:
Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ Cha mẹ có
nghĩa vụ và quyền thương yêu, trong nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của con; tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học
tập và giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức, trở
thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội .
Khoản 3 Điều 67 Nghị định số 158 cũng quy định : “ Nghiêm cấm lợi dụng
việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ
em hoặc vì mục đích trục lợi khác.”
Pháp luật Việt Nam hiện hành không phân biệt con sinh ra từ hôn nhân
và con sinh ra từ quan hệ như vợ chồng ngoài hôn nhân hoặc con nuôi. Như
vậy con nuôi cũng phải đuợc cha mẹ yêu thuơng, trông nom, nuôi duỡng
chăm sóc, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp, chăm lo việc học tập và giáo dục để
phát triển lành mạnh về mọi mặt, trở thành người con hiếu thảo, người công
dân có ích.
Ngược lại con nuôi cũng có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu
thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ

5



gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình, có nghĩa vụ và quyền chăm
sóc cha mẹ như những người con đẻ.
II.4 Chấm dứt việc nhận nuôi con nuôi:
Chấm dứt việc nuôi con nuôi chỉ đặt ra trong những điều kiện hoàn
cảnh nhất định, xuất phát từ yêu cầu của các bên chủ thể và phải được Toà án
quyết định. Chấm dứt nuôi con nuôi tức là chấm dứt quan hệ cha mẹ và con
đó giữa hai bên. Từ những đặc điểm cơ bản đó có thể đưa ra khái niệm chấm
dứt việc nuôi con nuôi như sau: Chấm dứt việc nuôi con nuôi là việc chấm
dứt quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa cha mẹ nuôi và con nuôi do Toà án
quyết định khi có những căn cứ mà pháp luật quy định theo yêu cầu của
những người có quyền yêu cầu. Theo quy định tại Điều 77 Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000 thì cha, mẹ nuôi có quyền chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Việc chấm dứt nuôi con nuôi chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau:
thứ nhất cha mẹ và con nuôi đã thành niên tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi
con nuôi, thứ hai con nuôi bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha, mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ
cha, mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha, mẹ nuôi.
B. THỰC TRẠNG VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI:
I. Thực trạng việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định quan trọng trong
pháp luật hôn nhân và gia đình không chỉ trong pháp luật quốc gia mà còn
trong pháp luật quốc tế. Hiện nay do nhu cầu hội nhập, với chính sách khuyến
khích, mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới, việc nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam ngày càng gia tăng, song hiện tượng
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài có những diễn biến đa dạng và phức tạp.
6


Nuôi con nuôi quốc tế tại Việt Nam bắt đầu từ những năm 70 thế kỉ XX

với số lượng rất ít. Trong những năm 80 và đầu những năm 90 bắt đầu
tăng.Chiến tranh Mỹ đóng vai trò trong việc khởi xướng vấn đề nhận con nuôi
Việt Nam.
I.1. Tích cực:
Trên cơ sở lí thuyết ta có thể thấy rằng, việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài có thể diễn ra theo hai xu hướng: Thứ nhất: cho người nước
ngoài (hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài) nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi; Thứ hai: Công dân Việt Nam xin nhận trẻ em nước ngoài
làm con nuôi.
Thực tiễn cho thấy việc người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi là một hoạt động mang tính chủ đạo. Theo thống kê (chưa đầy đủ) của
Bộ tư pháp, chỉ trong 5 năm (1994 – 1999) đã có tới 9.322 trẻ em Việt nam
được người nước ngoài nhận nuôi. Trong đó, số trẻ em được làm con nuôi tại
Pháp là 3.407, chiếm trên 1/3 trẻ được nhận làm con nuôi tại Pháp. Ước tính
trung bình mỗi năm có khoảng 2000 trẻ em Việt Nam được người nước ngoài
nhận làm con nuôi và số lượng trẻ được ngoài nước ngoài nhận nuôi ngày một
tăng cao. Như vậy ta có thể thấy rằng: việc nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi của người nước ngoài là một nhu cầu ngày càng phát triển. Xét về nguồn
trẻ em Việt Nam đó là: được nuôi dưỡng trong các cơ sở của ngành lao động,
thương binh xã hội, trong các cơ sở y tế hoặc từ gia đình.
Vào những năm cuối của thập kỉ 90, Việt Nam là một quốc gia đứng đầu
với tư cách là nước cho con nuôi với ít nhất là 10.000 trẻ em được cho làm
con nuôi ở tất cả các nước. Theo số liêu thống kê về tỉ lệ con nuôi từ Việt
Nam đến các nước nhận con nuôi với số lượng lớn trong năm 2008 cho thấy:
Tỉ lệ con nuôi từ Việt Nam đến: Canada chiếm 2,7%; Đan Mạch 2,4%; Pháp
17,1%; Ailen 10,9%; Ý 18,9%; Thuỵ Điển 2,7%;Thuỵ Sĩ 0,3%; Hoa Kỳ
7


45,3%. Tính trung bình hàng năm có ít nhất 1000 trẻ em Việt Nam được cho

làm con nuôi ở nước ngoài trong năm 2007 và 2008. Mỗi năm có trên 1600
trẻ em làm con nuôi, dự kiến rằng con số này sẽ giảm vào năm 2009 khi thoả
thuận song phương với Mỹ, Ailen và Thuỵ Điển không được giới hạn mặc dù
vẫn còn rất nhiều trường hợp Mỹ nhận con nuôi trong thời điểm giám sát. Tuy
nhiên trong những năm gần đây Việt Nam vẫn tiếp tục là nước thu hút nhiều
nước khác như: Ý, Pháp,.. Việt Nam là nước lớn thứ 5 trên thế giới về
“nguồn” con nuôi và việc này vẫn xảy ra vào năm 2009.
Trong năm 2003, Chính phủ Việt Nam đã điều chỉnh quy địn về nuôi con
nuôi, thành lập cục con nuôi Quốc tế thuộc Bộ tư pháp để xét duyệt việc nhận
nuôi con nuôi và đưa ra những yêu cầu đối với nước nhận nuôi đã ký kết thoả
thuận song phương với Việt nam. Các thoả thuận song phương đã được ký kết
với Pháp (năm 2000) và các nước khác như: Đan Mạch (2003), Ý (2003),
Thuỵ Điển (2004), Ailen (2004), Canada (2005) và Tây Ban Nha (2009). Các
nước nhận nuôi con nuôi trong khuôn khổ hiệp định song phương đã uỷ
quyền cho một số tổ chức con nuôi quốc tế phát triển hoạt động con nuôi ở
Việt Nam, vào giữa năm 2008 thì đã có gần 70 tổ chức con nuôi nước ngoài.
Trong những năm gần đây, có một số nước đã đánh giá về tính thực tế của hệ
thống con nuôi tại Việt Nam, trong đó phải kể đến Phái đoàn văn phòng toà
án Úc (2007); Phái đoàn hỗn hợ Thuỵ Điển và Đan Mạch vào năm 2008; Bác
cáo điều tra khoảng 300 trường hợp con nuôi do văn phòng công dân và xuất
nhập cảnh Mỹ thực hiện (2008). Ngoài ra theo đánh giá của các cuộc gặp gỡ
mới đây, vấn đề nuôi con nuôi quốc tế luôn là vấn đề được các nhà ngoại giao
của các nước nhận con nuôi quan tâm. Kể từ khi Việt Nam và Italia ký Hiệp
định về việc tiếp nhận con nuôi vào năm 2004 đến hết năm 2007, đã có tổng
cộng 821 trẻ em Việt Nam được các gia đình Italia nhận nuôi. Theo thống kê
của cơ quan tiếp nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi của Italia, riêng trong
năm 2007 đã có 262 trẻ em Việt Nam được tiếp nhận làm con nuôi tại Italia,
8



đứng thứ 5 về số lượng trẻ con nuôi trong số 44 nước có hiệp định về việc
tiếp nhận con nuôi với Italia. Tuổi trung bình của trẻ em Việt Nam làm con
nuôi là hơn 1,5 tuổi, thấp nhất trong số các nước có trẻ em làm con nuôi tại
Italia. Và theo thống kê của Bộ lao động – Bộ thương bình và xã hội thì từ
2002 – 2008 đã có 8.356 trẻ em làm con nuôi ở các quốc gia khác trên thế
giới, bình quân mỗi năm là 1.194 em.
I.2.Hạn chế:



Trong pháp luật:

Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, pháp luật về nuôi con nuôi
đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Các vấn đề liên quan đến nuôi con nuôi
được quy định tản mát trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nên một số
quy định về nuôi con nuôi còn chồng chéo, mâu thuẫn với nhau, làm giảm
hiệu lực áp dụng trong thực tế.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với lĩnh vực nuôi con nuôi trong thời
gian qua cũng còn nhiều hạn chế: nhiều trường hợp người dân không đi đăng
ký việc nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền, nên không có cơ sở pháp lý
bảo đảm quyền và lợi ích của người được nhận làm con nuôi, của cha mẹ
nuôi; việc nuôi con nuôi của đồng bào dân tộc ít người ở khu vực biên giới
diễn biến phức tạp; chưa có biện pháp tích cực để bảo đảm cho trẻ em được
chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình ở trong nước; còn có xu
hướng chạy theo lợi ích vật chất trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi
người nước ngoài; hiện tượng lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh,
người có công với cách mạng để hưởng quyền lợi, chế độ, chính sách của Nhà
nước cũng đã xảy ra.
 Trong thực tiễn xã hội:


9


Ngoài bản chất và mục đích cao đẹp của việc nuôi con nuôi là nhằm xây
dựng mối quan hệ gia đình, thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận
nuôi với đứa trẻ được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho đứa trẻ có cuộc sống
tốt hơn, vẫn còn tồn tại những việc làm phi đạo đức, lợi dụng danh nghĩa cho
trẻ em làm con nuôi nhằm thu gom, môi giới, dẫn dắt mua bán trẻ em,với
mục đích trục lợi.
Trường hợp vụ việc: gần 350 trẻ em (trong đó nhiều trẻ sơ sinh tù 2-6
tháng tuổi) được thu gom từ nhiều tỉnh miền núi Việt Nam về, hợp lý hoá
nguồn gốc rồi mang ra nước ngoài làm con nuôi bằng con đường "tiểu
ngạch". Nhiều dấu hiệu cho thấy có một đường dây buôn bán trẻ em mang
tầm cỡ quốc tế. Nhiều trẻ được đưa ra nước ngoài làm con nuôi theo đường
"lậu". Tính đến ngày 21/6/2008, Trung tâm trợ giúp nhân đạo và dạy nghề
cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn huyện Ý Yên – Nam Định đã bàn
giao hơn 100 trẻ (chủ yếu từ 2-6 tháng tuổi) cho các tổ chức con nuôi nước
ngoài. Tương tự, tại Trung tâm Bảo trợ xã hội huyện Trực Ninh (thành lập từ
tháng 2/2005) đã tiếp nhận 242 trẻ em bị bỏ rơi. Hầu hết số trẻ em này cũng
đã được đưa ra nước ngoài làm con nuôi. Tổng cộng ở cả 2 huyện là gần 350
trẻ. Với con số "kỷ lục" trẻ em được đưa ra nước ngoài từ 2 Trung tâm, Công
an Nam Định vừa khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam 3 đối tượng
về hành vi làm giả hồ sơ trẻ sơ sinh cho người nước ngoài nhận làm con nuôi.
Trong đó có 2 Trạm trưởng y tế của 2 xã thuộc huyện Ý Yên và Trần Trọng
Lãm, một đối tượng không nghề nghiệp, trú tại thành phố Nam Định. Theo
tìm hiểu, Lãm chính là kẻ chuyên đi "thu mua" các trẻ sơ sinh mang về Trung
tâm. Trong số gần 350 trẻ em nói trên, phần lớn được "gom" từ các tỉnh miền
núi Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng... Số trẻ sơ sinh này được mang về
các trung tâm y tế xã để hợp lý hoá nguồn gốc rồi chuyển sang Trung tâm trợ
giúp nhân đạo và dạy nghề cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn huyện

để "xuất ngoại". Trong số 11 trẻ sơ sinh chưa kịp "xuất ngoại" đã bị Công an
10


Nam Định ngăn chặn, đa số được mang từ các tỉnh khác về. Cũng theo tìm
hiểu, ngoài số trẻ em được đưa ra nước ngoài theo con đường chính thống,
không ít trưẻ em được "xuất ngoại" theo con đường "tiểu ngạch". Có nghĩa, số
trẻ em này được mang qua một số cửa khẩu phía Bắc bằng đường sông,
đường đồi núi, trốn tránh các cơ quan chức năng.
Trên đây chỉ là một ví dụ điểm hình trong vô số các trường hợp vi phạm
pháp luật về việc lợi dung việc cho và nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài để
thực hiện các hành vi môi giới, cò mồi, lợi dụng kẽ hở pháp luật bọn môi giới,
cò mồi đã tìm cách “hợp thức hóa” những trẻ em bị chúng bắt cóc (nhất là trẻ
sơ sinh) bằng cách: Đưa các cháu bé này vào trong các trung tâm bảo trợ xã
hội (hiện có ở nhiều tỉnh, thành khắp cả nước) dưới dạng trẻ vô thừa nhận, trẻ
bị bỏ rơi... Sau đó, cùng với sự tiếp tay của các nhân viên trung tâm bảo trợ xã
hội, đứa trẻ bị bắt cóc sẽ có giấy tờ hợp lệ với lý lịch mới nhằm mục đích trục
lợi. Đây thực sự là một hành vi vô nhân đạo, vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Từ đó nêu râ vấn đề cần có những biện pháp xử lí thích đáng nhằm giải quyết
vấn nạn buôn bán trẻ em dưới hìn thức nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoà
II. Một số giải pháp để luật nuôi con nuôi được thực hiện có hiệu
quả trong thực tế:
1.Cần tạo ra sự gắn kết, liên thông giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi
con nuôi quốc tế, trong đó ưu tiên tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em
Việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp
thay thế cuối cùng, khi không thể tìm được mái ấm gia đình trong nước cho
trẻ em. Muốn vậy, cần tăng cường hơn nữa công tác xây dựng, hoàn thiện thể
chế pháp luật, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
trong nhân dân nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vấn đề nuôi con
nuôi trong nước, từ đó hướng đến mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây


11


cũng là yêu cầu có tính nguyên tắc khi chúng ta chuẩn bị tham gia Công ước
Lahay về nuôi con nuôi.
Các cơ quan có thẩm quyền trong nước, nhất là các cơ sở nuôi dưỡng
trẻ em, phải tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để tìm mái ấm gia đình
cho trẻ em ở trong nước. Chỉ sau khi đã chứng minh rằng, không tìm được
mái ấm cho trẻ em ở trong nước, thì mới giải quyết cho trẻ em làm con nuôi
người nước ngoài. Các giấy tờ, trình tự, thủ tục liên quan đến tìm mái ấm cho
trẻ em ở trong nước cần được hoàn thiện theo hướng chặt chẽ hơn, khắt khe
hơn với những yêu cầu cao hơn.
Cùng với đó, Bộ Lao động Thương binh và xã hội cần có sự chỉ đạo đối
với tất cả các Ủy ban nhân dân tỉnh để rà soát lại tất cả các cơ sở nuôi dưỡng
trẻ em trên toàn quốc, bảo đảm các cơ sở nuôi dưỡng phải có đủ các điều kiện
để tiếp nhận, chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật.
Đồng thời, kiên quyết đóng cửa các cơ sở nuôi dưỡng không đủ điều kiện,
hoặc chỉ thành lập ra để nhằm mục đích “thu gom” trẻ em cho làm con nuôi
người nước ngoài, đặc biệt là các cơ sở không phải do ngành Lao động Thương binh và Xã hội quản lý.
2. Hoàn thiện cơ chế minh bạch về thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con
nuôi. Nhất là sự minh bạch về các vấn đề tài chính có liên quan đến nuôi con
nuôi quốc tế để có thể kiểm soát được từ trung ương xuống địa phương,
chống sự lạm dụng vì mục đích vụ lợi.
Một trong những giải pháp để thực hiện minh bạch về tài chính trong
lĩnh vực con nuôi là cần hoàn thiện các quy định về phí, lệ phí giải quyết việc
nuôi con nuôi trên cơ sở phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của Công ước Lahay về
nuôi con nuôi mà Việt Nam chuẩn bị tham gia. Một điều cần lưu ý nữa là, cần
tách bạch hai hoạt động hỗ trợ nhân đạo và giải quyết việc nuôi con nuôi
thành hai hoạt động biệt lập, không phải là điều kiện của nhau trong công tác

12


quản lý. Có như vậy mới có thể kiểm tra, giám sát tốt việc thực hiện pháp luật
về nuôi con nuôi, cũng như theo dõi, kiểm tra việc sử dụng đúng pháp luật các
khoản thu từ phí, lệ phí giải quyết việc nuôi con nuôi trong phạm vi cả nước.
3. Tăng cường vai trò của Cơ quan con nuôi Trung ương
Tăng cường vai trò của Cơ quan Trung ương trong lĩnh vực nuôi con
nuôi là hết sức cần thiết, một mặt, nhằm đáp ứng yêu cầu khi tham gia Công
ước Lahay, mặt khác nhằm tập trung quản lý thống nhất lĩnh vực nuôi con
nuôi vào một đầu mối.
Cơ quan con nuôi Trung ương cần được củng cố, tăng cường cả về số
lượng và chất lượng để có thể đảm nhiệm được trọng trách nặng nề hơn trong
điều kiện nước ta tham gia Công ước Lahay. Trong cơ chế xử lý vấn đề nuôi
con nuôi, Cơ quan con nuôi Trung ương phải là đầu mối trong việc tìm mái
ấm gia đình cho trẻ em, chịu trách nhiệm về hồ sơ của cha mẹ nuôi, bảo đảm
trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi theo quy định của pháp luật và đã
có sự tự nguyện đồng ý của những người có quyền cho con nuôi. Trong
khuôn khổ Công ước Lahay, Cơ quan Trung ương phải trực tiếp tiến hành
mọi biện pháp thích hợp nhằm: Cung cấp các thông tin pháp luật, số liệu
thống kê và biểu mẫu chuẩn về nuôi con nuôi; Báo cáo về tình hình thực thi
Công ước và trong chừng mực có thể, loại bỏ mọi trở ngại đối với việc thực
hiện Công ước. Đây là hai nhiệm vụ tối quan trọng mà Cơ quan Trung ương
phải trực tiếp thực hiện, không được ủy quyền cho cơ quan nào. Đồng thời,
trong khuôn khổ pháp luật nước mình, Cơ quan Trung ương có trách nhiệm
“loại bỏ mọi trở ngại đối với việc thực thi Công ước”. Đây cũng là công việc
nặng nề và phức tạp, đòi hỏi sự cương quyết, nghiêm túc, tinh thần trách
nhiệm cao của bộ máy cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực nuôi con
nuôi.


13


Ngoài ra, Cơ quan con nuôi trung ương còn có trách nhiệm trực tiếp
hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành mọi biện
pháp thích hợp nhằm ngăn chặn việc thu lợi bất chính liên quan đến nuôi con
nuôi hoặc ngăn chặn mọi hành vi khác trái với mục đích của Công ước. Đây
là một nhiệm vụ không đơn giản đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
khi mà các hoạt động trung gian, môi giới bất hợp pháp, các hành vi tham
nhũng, đưa và nhận hối lộ trong lĩnh vực con nuôi quốc tế diễn ra ngày càng
tinh vi hơn và nghiêm trọng hơn.
4. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước:
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở Trung
ương và địa phương để bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong
và ngoài nước một cách chặt chẽ, đúng pháp luật luôn là yêu cầu của bất cứ
một sự cải cách nào. Đồng thời, cũng cần quy định rõ trách nhiệm cụ thể của
từng cơ quan đối với từng khâu trong toàn bộ quy trình giải quyết, qua đó
cũng xác định được rõ hơn sự phối hợp giữa các ngành là để xử lý vấn đề gì.
Nguyên tắc của sự phối hợp này cần được thể hiện trong dự thảo Luật
Nuôi con nuôi để từ đó xác định một cơ chế xử lý thống nhất, phù hợp với
nguyên tắc khi Cơ quan Trung ương thực hiện thẩm quyền trong khuôn khổ
Công ước Lahay.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp
thời những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường xuyên, định kỳ
và có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức, đối phó. Nội dung thanh tra,
kiểm tra cần tập trung vào việc tuân thủ các quy định pháp luật khi lập hồ sơ
cho trẻ em (Từ khi được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng đến khi được giới

14



thiệu làm con nuôi); Hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận của các tổ chức con
nuôi nước ngoài tại Việt Nam.

15


KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một chế định quan trọng trong
pháp luật HN & GĐ không chỉ trong pháp luật quốc gia mà còn trong pháp
luật quốc tế. Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được cả cộng
đồng quốc tế đặc biệt quan tâm vì đó là sự bảo vệ pháp lý rất cần thiết đối với
những lợi ích tốt nhất cho trẻ em, những đối tượng không chỉ non nớt về mặt
thể chất và trí tuệ mà còn có những hoàn cảnh éo le, mất mát lớn về tình cảm,
không được hưởng mái ấm gia đình trên quê hương của mình. Đối với Việt
Nam, một đất nước phải gánh chịu hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh
thì việc bảo vệ các quyền cơ bản của trẻ em, trong đó có quyền được làm con
nuôi, được chăm sóc nuôi dưỡng đối với những đứa trẻ bất hạnh, là điều luôn
được Đảng và Nhà nước quan tâm và bảo đảm thực hiện.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng trước yêu cầu của công cuộc hội nhập
nhất là trong việc chuẩn bị gia nhập Công ước La Hay 1993 về bảo vệ trẻ em
và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước, do đó việc làm cho
pháp luật Việt Nam hài hoà với thông lệ quốc tế cũng như pháp luật của nhiều
nước về nuôi con nuôi là việc làm cấp bách. Chính vì vậy chúng ta cần nghiên
cứu việc nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài dựa trên thực tiễn, để thấy rõ
những vấn đề bất cập trong pháp luật Việt Nam. Để từ đó có những giải pháp
phù hợp trong quá trình phát triển hiện nay.

16



PHỤ LỤC

17


18



×