Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.56 KB, 17 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một quốc gia nào thuế cũng đóng một vai trò rất quan trọng và
chiếm phần lớn trong tổng thu NSNN. Việc thực thi một số chính sách thuế có hiệu
quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này và từ đó tạo điều kiện để mở rộng sản xuất
và phát triển kinh tế xã hội. Là một sắc thuế gián thu, thuế GTGT góp phần bổ sung
và hoàn thiện hệ thống thuế của mỗi quốc gia. Nếu như trước đây việc áp dụng thuế
doanh thu đã gây rất nhiều khó khăn cho cả công tác thu thuế của các cơ quan thuế lẫn
nghĩa vụ nộp thuế của các đối tượng nộp thì sự ra đời của thuế GTGT đã giúp cho
công việc đó trở nên đơn giản và nhanh gọn hơn nhiều. Trong bài viết sau em sẽ phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện
nay và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1. Khái niệm thuế GTGT
Thuế GTGT (GTGT) là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu
nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hòa, nhận dịch vụ. Điều 2 Luật
thuế GTGT 2008 quy định: “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
Như vậy, bản chất của thuế GTGT là loại thuế gián thu. Nghĩa là, các nhà sản
xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng khoản thuế này do đối
tượng tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ chịu.
2. Đặc điểm của thuế GTGT
Thuế GTGT có nhiều điểm tương đồng với các loại thuế đánh vào hàng hóa,
dịch vụ khác nhưng có thể nhận diện được thuế GTGT thông qua đặc điểm của nó:
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại
trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao
đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra
cho nền kinh tế xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể
chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng.
Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ.
Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị


hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu
thông không gây ra những đột biến giá cả cho người tiêu dùng.
Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa, dịch vụ số thuế giá trị
tăng phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
Bên cạnh đó, thuế GTGT còn có tính trung lập kinh tế cao. Thuế GTGT không
chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, không phải là yếu tố của
chi phí mà chỉ đơn thuần là một khoản cộng thêm vào giá bán cho người cung cấp
hàng hoá dịch vụ.
3. Nội dung cơ bản về thuế GTGT
a. Đối tượng chịu thuế
Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT của nhà
nước quy định đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá và dịch vụ dùng cho sản xuất
kinh doanh, tiêu dùng ở Việt Nam trừ các đối tượng không phải chịu thuế GTGT quy
định tại Điều 5 luật thuế GTGT (Điều 3 Luật thuế GTGT 2008). Điểm mới so với
Luật thuế GTGT năm 1997 là Luật thuế GTGT năm 2008 đã thu hẹp đối tượng không
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 1


chịu thuế từ 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ xuống còn 25 nhóm. Như vậy, đối tượng chịu
thuế GTGT bao gồm:
- Hàng hoá, dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng trong nước không phân biệt
hình thức tiêu dùng.
- Hàng hoá, dịch vụ được nhập khẩu để tiêu dùng trong nước.
- Hàng hoá và dịch vụ được mua, bán dưới mọi hình thức, bao gồm cả trao đổi
bằng hiện vật.
Ở nước ta quy định danh mục 25 loại hàng hoá dịch vụ không thuộc diện chịu
thuế GTGT (Điều 5 luật thuế GTGT) những hàng hoá đó thường có trong các tổ chức
sau: Là sản phẩm của một số ngành đang còn khó khăn, cần khuyến khích tạo điều

kiện phát triển như:
- Sản xuất nông nghiệp, máy móc nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất
được, dịch vụ tín dụng, kinh doanh chứng khoán,…nhằm thúc đẩy sản xuất kinh
doanh hoặc thực hiện cam két của Việt Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế khác.
- Các hàng hoá dịch vụ thuộc các hoạt động không mang tính chất kinh doanh
vì lợi nhuận hoặc thuộc các hoạt động được ưu đãi vì mục tiêu nhân đạo, xã hội: Vũ
khí khí tài phục vụ an ninh, quốc phòng, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh...
- Một số hàng hoá dịch vụ thiết yếu phục vụ nhu cầu đời sống sản xuất cộng
đồng: dịch vụ y tế, dạy học, dạy nghề, sản phẩm muối, trồng trọt, chăn nuôi hay vận
chuyển khách công cộng bằng xe buýt ...
Tuy nhiên việc đánh thuế GTGT phải đảm bảo nguyên tắc chỉ đánh thuế với
hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp hàng hóa không thực
tế tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam như hàng quá cảnh, hàng mượn đường, hàng tạm
nhập tái xuất đề không thuộc diện chịu thuế GTGT
Tổ chức, cá nhân mua bán, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ không thuộc
diện chịu thuế GTGT không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào của các hàng
hoá và dịch vụ này.
b. Chủ thể nộp thuế GTGT
Tại Điều 4 luật thuế GTGT quy định: “Người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT (sau đây gọi là cơ sở
kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT (sau đây gọi là
người nhập khẩu)”.
c. Căn cứ tính thuế GTGT
Theo Điều 6 luật thuế GTGT thì căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
* Giá tính thuế GTGT
Giá tính thuế GTGT được tính theo quy định tại Điều 7 luật thuế GTGT và
Điều 4 Nghị định 123/2008/NĐ-CP.
Thông thường giá tính thuế hàng hóa, dịch vụ chịu thuế là giá chưa có thuế
GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ đó
- Đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các

loại thuế áp dụng đói với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu nhưng chưa có thuế GTGT
- Đối với hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ dưới dạng đặc thù như cho thuê
tài sản, gia công hàng hóa, xây dựng…tùy từng trường hợp cụ thể pháp luật có quy
định chi tiết về giá tính thuế GTGT
Giá tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam, trường hợp người nộp thuế
có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 2


bình quân trên thị trường liên Ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố
tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế.
* Thuế suất thuế GTGT
Luật thuế GTGT áp dụng ở Việt Nam hiện nay phân biệt 3 mức thuế suất khác
nhau: 0%, 5% và 10% áp dụng đối với từng nhóm mặt hàng sản xuất hoặc nhập khẩu.
Việc quy định các mức thuế suất khác nhau thể hiện chính sách điều tiết thu nhập và
hướng dẫn tiêu dùng đối với hàng hoá dịch vụ. Trong điều kiện hiện nay ở nước ta,
mặt bằng kinh doanh của các ngành nghề chưa đồng nhất, nên phân biệt mức thuế
suất thuế GTGT khác nhau đối với từng nhóm mặt hàng là sự cần thiết.
Mức thuế suất 0% áp dụng với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu không phân biệt đối
tượng và hình thức xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hóa dịch vụ không chịu thuế
GTGT quy định tại Điều 5 luật thuế GTGT khi xuất khẩu; trừ trường hợp chuyển giao
công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài, dịch vụ tái bảo hiểm ra
nước ngoài, dịch vụ cung cáp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái
sinh, dịch vụ bưu chính, viễn thông, sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoán sản
chưa qua khai thác chế biến do Chính phủ quy định.Với việc đánh mức thuế suất 0%
như vậy sẽ nhằm mục đích thúc đẩy xuất khẩu trong nước. Đồng thời việc bổ sung
hoạt động “vận tải quốc tế” vào đối tượng áp dụng thuế suất 0% để khuyến khích phát
triển hoạt động vận tải quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Mức thuế suất 5% (khoản 2 Điều 8 luật thuế GTGT) áp dụng đối với hàng hóa,
dịch vụ được ưu đãi, khuyến khích phát triển, đầu tư như: nước sạch phục vụ sản xuất
và sinh hoạt; phân bón, quặng để sản xuất phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất
kích thích tăng trưởng vật nuôi cây trồng; thức ăn gia súc, gia cầm và thức thức ăn
cho vật nuôi khác; hoạt động văn hóa, triển lãm, thể dục, thể thao, biểu diễn nghệ
thuật sản xuất phim, nhập khẩu phát hành và chiếu phim… Việc tính thuế GTGT với
thiết bị máy móc chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, hoạt động văn hóa,
triễn lãm, biểu diễn nghệ thuật… là một điểm hoàn toàn mới và hợp lý của luật thuế
GTGT hiện hành. Vì hiện nay việc sản xuất những loại thiết bị máy móc đó hay các
cuộc biểu diễn nghệ thuật, các cuộc triển lãm không đơn thuần như trước mà nó có
thể mang lại lợi ích rất lớn cho các nhà kinh doanh. Việc đánh thuế GTGT là hoàn
toàn hợp lý và bình đẳng với các hoạt động sản xuất kinh doanh khác.
Mức thuế suất 10% (khoản 3 Điều 8 luật thuế GTGT): Để đảm bảo đơn giản, dễ
áp dụng, khắc phục được những tồn tại của Luật hiện hành do ở mức thuế suất nào
cũng quy định danh mục hàng hoá, dịch vụ cụ thể, khi phát sinh hàng hoá, dịch vụ
mới chưa có tên trong danh mục thì doanh nghiệp lúng túng trong việc áp dụng thuế
suất, Luật thuế GTGT năm 2008 không liệt kê các nhóm hàng hoá, dịch vụ áp dụng
mức thuế suất 10% mà sử dụng phương pháp loại trừ, theo đó, hàng hoá, dịch vụ áp
dụng thuế suất 10% là các hàng hoá, dịch vụ còn lại không thuộc diện áp dụng mức
thuế suất 0%, 5%.
Nếu cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ chịu các mức thuế
suất khác nhau thì phải tổ chức hạch toán riêng doanh thu từng loại hàng hoá, dịch vụ
kinh doanh theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hoá, dịch vụ
riêng biệt. Nếu không hạch toán như vậy thì doanh nghiệp phải tính thuế GTGT theo
mức thuế suất cao nhất của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở sản xuất kinh doanh trên tổng
doanh thu của tất cả các loại hàng hoá dịch vụ bán ra trong kỳ.
d. Phương pháp tính thuế.
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 3



* Phương pháp khấu trừ thuế
Phương pháp khấu trừ thuế GTGT được quy định tại Điều 10 Luật thuế GTGT
và Điều 7 Nghị định 123/2008/NĐ-CP, theo đó tiền thuế GTGT phải nộp được xác
định như sau:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó: Thuế GTGT đầu ra = giá tính thuế x thuế suất
Thuế GTGT đầu vào = tổng số thuế trên hóa đơn GTGT khâu đầu vào
Điều kiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ: căn cứ vào phương pháp tính
thuế, cơ sở kinh doanh muốn nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải chứng minh
được số thuế GTGT đầu vào và số thuế GTGT đầu ra. Nếu cơ sở không chứng minh
được thì không có căn cứ để khấu trừ thuế. Để chứng minh được số thuế GTGT đầu
vào và số thuế GTGT đầu ra, cơ sở kinh doanh phải sử dụng đầy đủ hệ thống hóa đơn,
chứng từ thanh toán theo quy định thống nhất của Bộ Tài chính. Vì nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ là phương pháp mang lại lợi ích nhất cho đối tượng nộp
thuế nên thông qua đó, nhà nước khuyến khích các cơ sở kinh doanh sử dụng đầy đủ
hệ thống hóa đơn chứng từ, góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động sản xuất kinh
doanh, giúp nhà nước kiểm soát được GTGT của hàng hóa, dịch vụ đang lưu thông
trên thị trường. Vì vậy tại khoản 2 điều 10 Luật thuế GTGT quy định: “Phương pháp
khấu trừ thuế áp dụng đối với cơ sở kinh doanh thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá
đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật về kế toán, hoá đơn, chứng từ và đăng ký
nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế”.
* Phương pháp trực tiếp trên GTGT
Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT được quy định tại Điều 11 Luật thuế
GTGT và Điều 8 Nghị định 123/2008/NĐ-CP. Theo đó, số thuế GTGT phải nộp được
tính như sau
Thuế GTGT phải nộp = GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra x thuế suất
thuế GTGT.
- GTGT = Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra - giá thanh toán của

hàng hóa, dịch vụ mua vào tương ứng.
- Giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ bán ra là giá thực tế bán ghi trên hóa
đơn bán hàng hóa, dịch vụ bao gồm cả thuế GTGT, các khoản phụ thu và phí thu
thêm mà bên bán được hưởng
- Giá thanh toán hàng hóa, dịch vụ mua vào được xác định bằng giá trị hàng
hóa dịch vụ mua vào hoặc nhạp khẩu đã có thuế GTGT dùng cho sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT bán ra tương ứng.
Cơ sở kinh doanh bán hàng hóa, dịch vụ có đầy đủ hóa đơn, chứng từ theo chế
độ quy định, xác định được đúng doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ nhưng không có đủ
hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ đầu vào thì GTGT được xác định bằng doanh thu
nhân (x) với tỷ lệ (%) GTGT tính trên doanh thu.
Hoạt động kinh doanh, hộ kinh doanh không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật thì nộp thuế
GTGT theo phương pháp khoán thuế quy định tại Điều 38 Luật Quản lý thuế.
Đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT:
- Cơ sở kinh doanh, cá nhân, hộ kinh doanh, không thực hiện hoặc thực hiện
không đầy đủ chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 4


- Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam không theo Luật Đầu
tư và các tổ chức khác không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán,
hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật
- Hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý.
Trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế có hoạt động kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý và hoạt động chế tác sản
phẩm vàng, bạc, đá quý thì phải hạch toán riêng được hoạt động kinh doanh mua, bán
vàng, bạc, đá quý để áp dụng theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT.

e. Khấu trừ, hoàn thuế
Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế được khấu
trừ thuế GTGT đầu vào theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật thuế GTGT. Điều
kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào được quy định như sau:
- Có hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT ở
khâu nhập khẩu;
- Có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ
hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng;
- Đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a
và điểm b khoản này phải có hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia
công hàng hoá, cung ứng dịch vụ, hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ, chứng từ thanh toán
qua ngân hàng, tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu.
Hoàn thuế GTGT là việc Nhà nước trả lại số thuế thu thừa hoặc sự ưu đãi của
Nhà nước. Các trường hợp được hoàn thuế được quy định tại Điều 13 Luật thuế
GTGT và Điều 10 Nghị định 123/2008/NĐ-CP.
f. Hóa đơn, chứng từ
Quy định tại Điều 14 Luật thuế GTGT năm 2008.
“1. Việc mua bán hàng hóa, dịch vụ phải có hóa đơn, chứng từ theo quy định
của pháp luật và các quy định sau đây:
a. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế sử dụng hóa đơn
GTGT; hoá đơn phải được ghi đầy đủ, đúng nội dung quy định, bao gồm cả khoản
phụ thu, phí thu thêm (nếu có). Trường hợp bán hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT
mà trên hóa đơn GTGT không ghi khoản thuế GTGT thì thuế GTGT đầu ra được xác
định bằng giá thanh toán ghi trên hóa đơn nhân với thuế suất thuế GTGT, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều này;
b. Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT sử
dụng hoá đơn bán hàng.
2. Đối với các loại tem, vé là chứng từ thanh toán in sẵn giá thanh toán thì giá
thanh toán tem, vé đó đã bao gồm thuế GTGT”.
II. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC THI PHÁP

LUẬT THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được
công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất,
bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được
nhược điểm thu trùng lặp, chồng chéo qua nhiều khâu của thuế doanh thu. Từ lâu sự
chồng chéo này của thuế doanh thu đã gây nhiều kêu ca, phàn nàn của hầu hết cơ sở
kinh doanh và người tiêu dùng vì nó ảnh hưởng tiêu cực đến giá cả hàng hoá. Thuế
doanh thu tính trên toàn bộ giá bán qua từng khâu có nghĩa là trong trường hợp mua
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 5


cao, bán hạ, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế doanh thu. Ngược lại, thuế GTGT chỉ
thu trên giá trị tăng thêm mà doanh nghiệp tạo ra, thậm chí doanh nghiệp còn được
hoàn thuế đầu vào cao hơn thuế đầu ra. Tuy nhiên do thuế GTGT là một phương pháp
đánh thuế tiên tiến, nhưng còn rất mới đối với Việt Nam nên không tránh khỏi những
vướng mắc trong quá trình thực hiện. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp
luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay là:
1. Những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT
Chính phủ, Ban chỉ đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các
Ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị,
Quốc hội, của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện luật thuế GTGT.
Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương
đã bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong
quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm tháo
gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: bổ sung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ
không thuộc diện chịu thuế GTGT tại Điều 5 Luật thuế GTGT năm 2008 v.v.. Các
ban chỉ đạo đã quản lý tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng
pháp luật thuế GTGT mới.

Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều tiến
bộ hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn hoá Trung
ương và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo đã
phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải thích các luật thuế
mới, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các luật thuế mới cũng
như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới.
Các cơ sở kinh doanh và mọi tầp lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình
thực hiện pháp luật thuế GTGT do nhận thức được các luật sự tiến bộ và ưu việt hơn
pháp luật thuế GTGT.
Sự phấn đấu nỗ lực của ngành thuế và ngành hải quan từ việc chuẩn bị triển
khai đến việc tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT, trình độ cán bộ quản lý, tính
thuế được nâng cao về chế độ hoá đơn chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ
quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế hoàn thuế GTGT. Các cơ quan thuế từng bước được
trang bị hệ thống máy tính, cán bộ cơ quan thuế ngày càng thông thạo sử dụng các
mạng máy tính, đạt hiệu quản cao làm cho công tác thu nộp thuế ngày càng được
kiểm tra chặt chẽ hơn, nhanh gọn hơn.
Ngoài các yếu tố thuận lợi thúc đẩy việc thực thi pháp luật thuế GTGT xuất
phát từ các cấp quản lý thì còn có các yếu tố khác như:
Một là, các hoạt động sản xuất, kinh doanh, mua bán hàng hoá lớn và vừa phải
thực hiện đầy đủ; chế độ hoá đơn, chứng từ thuận tiện cho việc kiểm tra, xác định
doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh.
Hai là, mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản
ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu làm căn cứ cho việc
tính thuế được chính xác.
Ba là, ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế của các doanh nghiệp
từng bước được nâng cao theo phương châm tăng cường "đức trị" gắn với việc xử lý
các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm "pháp trị".
Bốn là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện
pháp luật vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và hoạt động thực tế.
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính


Page 6


Ngoài ra còn có các điều kiện khác vừa nhằm giúp cho cho việc áp dụng luật
thuế GTGT đạt hiệu quả cao. Mỗi điều kiện đều có vai trò, vị trí quan trọng khác
nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế
GTGT được đồng bộ
2. Một số yếu tố gây vướng mắc, khó khăn còn tồn tại trong quá trình thực
thi pháp luật thuế GTGT
a. Yếu tố chính sách, pháp luật
- Đối tượng chịu thuế
Điều 5 luật thuế GTGT quy định có 25 nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện
không chịu thuế. Số lượng như vậy là quá nhiều, trong khi mục tiêu của chính sách
thuế GTGT là mở rộng diện chịu thuế và thu hẹp các đầu mối. Một số mặt hàng đưa
vào diện này còn chưa hợp lý, chưa thực sự khuyến khích xuất khẩu gây gián đoạn
trong công tác thu nộp thuế và khó khăn cho doanh nghiệp. Lấy một ví dụ đó là thiết
bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản xuất
được, nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp,… từ trước đến nay thuộc
diện không chịu thuế GTGT, thiết nghĩ, khi mới áp dụng luật thuế này, trong điều
kiện nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn, các doanh nghiệp hầu hết đều ít vốn
nên quy định này sẽ giúp doanh nghiệp không phải bỏ ra một lượng vốn ứng trước.
Tuy nhiên, hiện nay khi nền kinh tế ngày càng phát triển, các hình thức huy động vốn
cho doanh nghiệp cũng nhiều hơn, thuận tiện hơn, thì việc không đánh thuế đối với
mặt hàng này không những làm cho luật thuế không được thông thóang mà còn gây
gián đoạn đối với các khâu sau, phức tạp hóa trong tính toán thuế của doanh nghiệp.
Chính sách hiện hành cũng quy định hàng hóa thủy sản chưa qua chế biến
không chịu thuế GTGT, do đó nếu các doanh nghiệp thu mua trực tiếp của người sản
xuất không có hóa đơn thì được lập hóa đơn mua hàng Nông - lâm - thủy sản nhưng
không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Khi xuất bán cho các nhà máy chế biến

thủy sản, doanh nghiệp phải kê khai nộp thuế GTGT 5% vào NSNN. Từ đặc điểm
này, một số doanh nghiệp đã mua bán hóa đơn GTGT khống để làm chứng từ đầu vào
khấu trừ thuế GTGT, chiếm đoạt 5% tiền thuế.
- Phương pháp tính thuế GTGT
Theo quy định của Luật thuế GTGT có hai phương pháp tính thuế được áp
dụng xuất phát từ phạm vi của đối tượng nộp thuế GTGT. Quy định này tương đối
phù hợp với điều kiện thực tế của VN hiện nay. Tuy nhiên có thể thấy phương pháp
trực tiếp trên thực tế lại không phát huy được hiệu quả bởi việc tính thuế phải dựa vào
tỷ lệ GTGT tính trên doanh thu. Đối với các doanh nghiệp này, việc xác định GTGT
tạo ra bởi doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn do họ không thực hiện chế độ kế
toán và hóa đơn chứng từ. Do vậy, trong thực tiễn các cơ quan thuế thường xác định
GTGT thông qua việc ấn định tỷ lệ GTGT hoặc ấn định doanh thu. Nếu xét về bản
chất, cách xác định thuế GTGT theo nội dung nêu trên thực chất là một hình thức áp
thuế, khoán thuế. Như vậy rất dễ dẫn đến sự thông đồng giữa cơ quan thuế và người
nộp thuế. Nộp thuế GTGT bằng phương pháp trực tiếp còn có hiện tượng trùng thuế
xảy ra do không tách bạch được GTGT qua các khâu, tiền thuế GTGT đã nộp ở khâu
trước đó lại cấu thành trong giá hàng hóa ở khâu tính thuế. Có trường hợp do xác định
GTGT khá cao, dẫn đến mức nộp thuế GTGT trên doanh thu thực tế của doanh nghiệp
sẽ gặp khó khăn, nên các cơ sở kinh doanh có xu hướng kê khai doanh thu thấp hơn
thực tế rất nhiều để trốn thuế. Như vậy, thuế GTGT chỉ tồn tại về mặt lý thuyết.
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 7


- Thuế suất thuế GTGT
Mức thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các hàng hóa, dịch vụ thông thường
cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều
khó khăn. Mặc dù theo lý luận, thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất

cao, giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận, tiêu
thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và
bị thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ, các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất.
- Vấn đề khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT
Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá
chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp (Điều 12 Luật thuế GTGT 2008, Điều 9 Nghị
định 123/2008/NĐ-CP và các văn hản hướng dẫn thi hành Luật thuế GTGT). Những
qui định về khấu trừ thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá.
Luật thuế GTGT quy định thuế suất 0% đối với đa số hàng hóa, dịch vụ xuất
khẩu. Lợi dụng quy định này một số đơn vị đã kê khai khống hàng hóa xuất khẩu mà
thực ra là tiêu thụ trong nước nhằm chiếm đoạt toàn bộ thuế đầu vào đã nộp cho
NSNN. Mặc dù đã có những quy định bổ sung về điều kiện chứng minh hàng xuất
khẩu nhưng vẫn không loại bỏ hết được tình trạng này.
Hoàn thuế là một thuộc tính của thuế GTGT đòi hỏi vừa phải chính xác, chặt
chẽ vừa phải nhanh gọn thuận lợi cho các đối tượng được hoàn thuế. Chính vì lý do
đó mà các quy định của của Luật thuế GTGT cũng cố gắng sao cho các cơ sở kinh
doanh được tối đa hóa các quyền để khấu trừ và hoàn thuế. Tuy nhiên, vẫn còn một số
hạn chế trong các quy định này: Đó là cơ sở xuất khẩu nhưng có số thuế đầu vào của
hàng hóa xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng
thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng, điều này sẽ làm cho vốn của các doanh
nghiệp bị lưu lại khá lâu gây ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo của họ.
Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp,
thì dù số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn theo
tháng mà phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế.
Trong quá trình thực hiện hoàn thuế GTGT đối với các nhà thầu chính của dự
án ODA, cơ quan thuế rất khó xác định chính xác số thuế GTGT đầu vào của nhà thầu
chính, vì họ chỉ được hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ mua vào để
thực hiện hợp đồng ký với chủ dự án, nhưng trên thực tế có nhiều hàng hóa nhà thầu
chính mua vào phục vụ cho nhiều dự án ngoài hợp đồng đã ký cho dự án ODA.
Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của

các doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ
hoá đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối
chiếu hoá đơn thực hiện bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm
chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm
khó khăn cho doanh nghiệp.
- Chứng từ, hóa đơn
Thuế GTGT yêu cầu cao về cơ sở số liệu, hạch toán, kế toán hoá đơn và luân
chuyển hoá đơn chứng từ cũng như trình độ nhận thức của mọi đôí tượng liên quan từ
Nhà nước và các đại diện của Nhà nước, các doanh nghiệp, nhân dân
Thời gian qua, việc quản lý in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn đã phát huy
hiệu quả tích cực, góp phần phục vụ cho công tác quản lý thu thuế. Hóa đơn đã đóng
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 8


vai trò quan trọng và trở thành chứng từ gốc để xác định việc chuyển nhượng hàng
hoá, dịch vụ giữa các thể nhân, pháp nhân, làm cơ sở cho việc hạch toán, kế toán, xác
định nghĩa vụ về thuế của doanh nghiệp và thanh quyết toán của các đơn vị sử dụng
NSNN. Năm 2008 có gần 330.000 đơn vị sử dụng hoá đơn, tăng 1,77 lần so với năm
2003, với tổng số lượng hoá đơn sử dụng là 945,3 triệu số hoá đơn(1).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc sử dụng hoá đơn phát sinh nhiều vấn
đề bất cập, như có hoá đơn trên thực tế không bảo đảm tính hợp pháp của chứng từ
theo pháp luật về kế toán; chưa có quy định về hoá đơn điện tử đối với các hoạt động
giao dịch theo Luật Giao dịch điện tử, quy định về hoá đơn đối với hàng xuất khẩu
chưa phù hợp với thực tế. Việc in, phát hành, bán hoá đơn của các của các cơ quan
thuế chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, vẫn thiếu về chủng loại,
khó mua được đủ số lượng
- Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp.
Thuế GTGT được thiết kế với mức thu tương đương thuế doanh thu với mục

tiêu ổn định quan hệ phân phối giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể,
nhưng thực tế có làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành
thuế phải nộp tăng gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương
quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan
đến lỗ lãi mà còn liên quan đến vấn đề mới.
- Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn
Quy định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập kho nhưng chưa
bán làm cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn. Đặc biệt với những
doanh nghiệp với số vốn ít thì qui định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều
doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay này khi áp dụng luật thuế GTGT phải
vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại
càng nặng thêm cho dù sau này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các
doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT,
trong khi đó chỉ khi nào đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người
mua. Như vậy vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý.
- Thuế GTGT yêu cầu cao đối với bộ máy thu và quản lý thuế, cũng như đối
với việc thống nhất hoá, đồng nhất hoá các văn bản pháp quy có liên quan.
b. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế
Đã nhiều năm kể từ khi cải cách thuế Việt Nam được tiến hành, bên cạnh
những thành tựu đạt được thì các hạn chế vẫn tồn tại khá nhiều. Đối với hệ thống thuế
nói chung và riêng với sắc thuế GTGT, một điều đáng chú ý là hệ thống cơ quan hành
thu còn quá cồng kềnh, số lượng cán bộ thuế nhiều mà tỷ lệ thanh tra thuế lại không
đáng kể… Các khâu hành thu phức tạp, một số trường hợp còn xảy ra hiện tượng
chồng chéo.
Khi áp dụng cơ chế hành thu tự khai, tự nộp do các điều kiện cần thiết chưa
xuất hiện một cách đồng bộ nên vẫn xảy ra hiện tượng trốn lậu thất thoát thuế. Hiện
tượng gian lận thuế xảy ra do các nguyên nhân sau:
- Những điểm mới của Luật thuế GTGT: cơ sở tính thuế là GTGT chứ không
phải doanh thu hay lợi nhuận; quy trình thu và quản lý thuế mang tính công nghệ;
diện chịu thuế với thuế suất 0% khác cơ bản diện không chịu thuế; khấu trừ thuế khác

nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không chịu thuế GTGT; hoá
1()

Trích: />
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 9


đơn GTGT và hoá đơn thường; ... khái niệm thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra
và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh
doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới đối với người nộp mà đối với cả cơ quan
thu thuế. Tất nhiên, cái gì mới thoạt đầu sẽ được hiểu một cách lệch lạc, thậm chí bị
một số cá nhân xấu lợi dụng để tư lợi.
- Cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị. Các cơ sở
kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán
quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn, họ
cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà
không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ
tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích
kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn
là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền
Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai
thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để
ngăn chặn kịp thời.
- Sự lúng túng của những cơ quan chức năng. Các văn bản pháp luật liên quan
đến thuế GTGT còn có nhiều mâu thuẫn. Điều này gây ra vấn đề “chỏi nhau” trong
điều hành và thực hiện. Tiếp đến, cơ chế “xin – cho” xuất hiện: xin được hưởng thuế
suất thấp hơn, xin được nộp thuế 0%, xin mở rộng diện khấu trừ theo tỷ lệ tính trên
giá mua không có hoá đơn GTGT, v.v.... Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai phương

pháp tính cho hai loại đối tượng nộp thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành
của thuế GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế - xã hội.
- Yếu kém trong dự báo và thiếu đánh giá tác động của chính sách. Vì vậy làm
nảy sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế
GTGT và gây ra những hậu quả nặng nề: Chính phủ mất tiền, dân chúng mất niềm tin
chính sách thuế mới, và doanh nghiệp lương thiện nghi ngờ cách thức và năng lực
điều hành nền kinh tế của Chính phủ.
- Thiếu sự quyết liệt trong xử phạt. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hoá đơn
không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân
chiếm đoạt nhiều tỉ đồng tiền thuế. Nếu không trị quyết liệt thì luật pháp không còn
khiến người ta sợ. Do đó, tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã
được công luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhanh, đa dạng, tinh vi và
ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
- Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế. Không hiếm trường hợp chính cán bộ
thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu
ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để
thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả
năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần
hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt
doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
- Thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ. thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu
máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử, v.v..
- Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói
quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành.
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 10


- Mặt khác, hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có

và trở thành hàng hoá được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan
thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả,
chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ, với hoá đơn giả, Nhà nước
không những không thu được đồng thuế nào mà ngược lại còn phải chi thêm để hoàn
thuế.
Công tác quản lý mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ mới nhưng
vẫn còn nhiều bất cập trên tất cả các lĩnh vực từ thể chế đến cách thức quản lý. Quản
lý thuế hầu hết dựa trên kinh nghiệm, chưa khoa học, hợp lý.
Bộ máy tổ chức ngành thuế cũng chưa hoàn thiện: Hiện nay bộ máy quản lý
thuế của nước ta được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương tới cấp huyện. Hệ thống
này được phân chia vừa theo sắc thuế vừa theo đối tượng nộp thuế. Một cán bộ thuế
phải đảm nhiệm nhiều chức năng từ thông báo thuế, thu thuế, kiểm tra thuế do đó
không có điều kiện chuyên sâu vào một nghiệp vụ nhất định. Khi chuyển sang áp
dụng thuế GTGT, quy trình quản lý thuế phải thay đổi, cơ quan thuế phải tổ chức thu
thuế, khấu trừ thuế, hoàn thuế,… trình độ của một số cán bộ còn thấp do đó không
đáp ứng yêu cầu của công việc.
Sau một thời gian khi Luật thuế GTGT đã đi vào thực tiễn thì vẫn còn tồn tại
một số điểm trong quản lý và tổ chức như chức năng, nhiệm vụ điều tra khởi tố,
cưỡng chế thu nợ thuế chưa đủ cơ sở pháp lý.. trình độ của một số cán bộ thuế còn
non kém. Đội ngũ cán bộ nói chung, xét về cả số lượng lẫn chất lượng có nhiều mặt
chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc, công tác tổ chức cán bộ còn nhiều khiếm
khuyết, chưa rõ ràng và thiếu nhất quán. Công tác quy hoạch, luân chuyển cán bộ còn
nhiều hạn chế. Công chức thuế nói chung còn thiếu kiến thức chuyên sâu, kỹ năng
quản lý thuế quốc tế, cán bộ lãnh đạo một số còn yếu về kiến thức quản lý kinh tế,
quản lý vĩ mô và quản lý hành chính nhà nước.
Do truyền thống thanh toán trong các giao dịch chủ yếu là bằng tiền mặt nên đã
hạn chế rất nhiều đối với cơ quan thuế trong việc kiểm soát các hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp.
Sự thống nhất hoạt động giữa các cơ quan chức năng còn chưa cao, một số còn
chưa nhiệt tình trong việc cung cấp các thông tin để cơ quan thuế tổng hợp nhằm đưa

ra những giải pháp bổ sung kịp thời cho các sắc thuế.
c. Về phía chủ thể nộp thuế
- Chuyển từ thuế doanh thu sang áp dụng thuế GTGT đòi hỏi phải thay đổi một
thói quen vốn đã ăn sâu trong cách nghĩ và cách làm của mỗi người. Một trong những
thói quen đó là: mua bán hàng không cần hoá đơn, linh hoạt đến mức tuỳ tiện trong
việc ghi chép chứng từ, sổ kế toán… mà thay đổi một thói quen bao giờ cũng hết sức
khó khăn. Do thuế GTGT chỉ tính trên phần GTGT thêm nên để đảm bảo mức ngang
bằng thuế doanh thu thì suất thuế GTGT phải cao hơn thuế suất thuế doanh thu hiện
hành. Điều này dễ gây tâm lý cho rằng Nhà nước tăng thuế và dễ dẫn đến tác động
làm tăng giá, cho nên cùng với việc giải thích cần phải áp dụng biện pháp quản lý chặt
chẽ và phải có các biện pháp kinh tế để kiềm chế ngăn ngừa lợi dụng tăng giá.
- Đối với các khu vực doanh nghiệp, có thể sẽ có một số ảnh hưởng tiêu cực
đến một bộ phận doanh nghiệp cụ thể nào đó - thông thường là những doanh nghiệp
nhỏ và yếu. Do không đủ điều kiện áp dụng GTGT theo luật nên sẽ xuất hiện hiệu ứng
hai chiều: đối với bản thân đơn vị, khi mua hàng, phải chi trả thuế GTGT mà không
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 11


bao giờ được khấu trừ. Cần lưu ý rằng tuy doanh thu của khu vực này có thể không
phải là lớn nhưng số lượng doanh nghiệp lại rất đáng kể nên cần tránh những dư luận
không tốt đối với thuế GTGT.
3. Nguyên nhân
Nguyên nhân sâu xa của những khó khăn vướng mắc trên là do nước ta chuyển
sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường chưa lâu, từ một nền sản xuất nhỏ,
ngành tài chính và ngân hàng vừa mới bắt nhịp với tăng trưởng kinh tế nên việc thanh
toán trong mua bán trao đổi hàng hoá chủ yếu là ngoài luồng ngân hàng, rất khó kiểm
soát. Mặt khác, người dân chưa có thói quen sử dụng hóa đơn, chứng từ khi mua bán.
Thuế GTGT ở nước ta còn chứa đựng nhiều bất cập không hợp lý so với thực tế

nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay để khắc phục những khó khăn chúng ta cần tìm
hiểu rõ một số nguyên nhân chủ yếu sau
Thứ nhất, khi áp dụng thuế GTGT với 2 mức thuế suất như hiện nay (không kể
mức 0%) so với 11 mức thuế suất trước đây, thì một điều không thể tránh khỏi là sự
phân hoá tương đối giữa các thành phần kinh tế về nghĩa vụ nộp thuế đó là có doanh
nghiệp thì nộp cao hơn, thấp hơn mức độ thuế tương đương do chỉ còn 3 mức thuế là
điều không thể tránh khỏi
Thứ hai, do chưa thể được trang bị đấy đủ kiến thức nghiệp vụ, cán bộ thuế sẽ
khó khăn trong quá trình là khi thực hiện đặc biệt là công tác hoá đơn chứng từ của
chúng ta còn phức tạp. Mặc dù trước khi thực hiện luật thuế GTGT, Quốc hội, Chính
phủ đã rất quan tâm đến công tác chuẩn bị lường trước các khó khăn có thể nảy sinh
để ra các văn bản phù hợp nhưng đây là sắc thuế mới đối với ta. Có nhiều các văn bản
bổ sung, thông tư, nghị định hướng dẫn thực hiện được ban hành, một mặt góp phần
khắc phục kịp thời các vướng mắc nảy sinh nhưng mặt khác lại gây không ít những
khó khăn trong vấn đề thực hiện.
Thứ ba, do áp dụng 2 cách tính thuế GTGT theo phương thức trực tiếp và
phương pháp khấu trừ. Phương pháp khấu trừ thuế GTGT không được thực hiện nếu
không có hoá đơn, chứng từ hợp lệ do vậy các doanh nghiệp cho rằng đó là thuế xuất
cao, từ đó đòi hỏi miễn giảm thuế gây thất thu cho ngân sách gây bất bình đẳng về
nghĩa vụ nộp thuế giữa các nhà doanh nghiệp có thể nói đây là nguyên nhân chính gây
ra những khó khăn vướng mắc khi thực hiện luật thuế GTGT.
Thứ tư, thời điểm áp dụng thuế GTGT chưa thật thuận lợi. Chúng ta áp dụng
thuế GTGT vào thời điểm khúng hoảng tài chính - tiền tệ ở các nước trong khu vực và
thiên tai liên tiếp xảy ra nhất là lũ lụt ở các tỉnh miền trung đang làm gánh nặng đối
với nền kinh tế - tài chính.
Ngoài ra còn thấy một số nguyên nhân khác như là một số việc tổ chức thực
hiện ở điạ phương có số còn coi nhẹ về thuế nên chưa quan tâm đầu tư còn chần chừ
đề xuất biện pháp tháo gỡ vướng mắc khó khăn, những vướng mắc phát sinh của thuế
còn chậm được giải quyết chưa đến nơi đến chốn. Vấn đề hướng dẫn thực thi pháp
luật còn chưa được quan tâm nhiều, còn chua được thực hiện nghiêm chỉnh làm cho

việc thực thi pháp luật thuế GTGTgặp nhiều khó khăn.
4. Một số giải pháp hoàn thiện việc thực thi pháp luật về thuế GTGT ở
Việt Nam
Áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta đã phát huy những ưu điểm trong việc thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; đặc biệt là khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu
thúc đẩy phát triển kinh tế, Vì vậy, có thể nói thuế GTGT cũng như các sắc thuế khác
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 12


trong hệ thống thuế Việt Nam đã góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Đi
đôi với những ưu điểm đó cũng còn một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện hơn.
a. Chính sách pháp luật thuế GTGT
- Về đối tượng chịu thuế
Mục tiêu của thuế GTGT đó là mở rộng diện chịu thuế và hạn chế các đầu mối.
Với tình hình luật thuế của nước ta hiện nay thì nên hạn chế bớt số nhóm đối tượng
thuộc diện không chịu thuế, nghiên cứu bổ sung thêm các đối tượng thuế mới phát
sinh trong nền kinh tế là một hướng đi chính xác. Biện pháp này sẽ ổn định được
nguồn thu cho NSNN và tạo điều kiện cho việc tính thuế, khấu trừ thuế được liên
hoàn giữa các khâu của quá trình sản xuất. Nên đưa vào đối tượng chịu thuế nhóm
hàng hóa là thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản
xuất được mà cơ sở có dự án đầu tư nhập khẩu để làm tài sản cố định cho doanh
nghiệp. Tuy việc quy định này bước đầu có thể làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn vì
phải bỏ ra một số tiền lớn để nộp thuế nhưng nó lại làm cho luật thuế thông thóang
hơn, đồng thời cũng giúp cho công tác tính toán thuế của doanh nghiệp ở các khâu sau
thuận tiện hơn, và khi áp dụng quy định này thì nhà nước có thể ban hành kèm theo
một số hướng dẫn giải quyết nhanh khâu hoàn thuế để giải quyết vấn đề vốn cho
doanh nghiệp.
- Về thuế suất:

Chỉ nên sử dụng hai mức thuế suất: 0% cho hàng hoá xuất khẩu và 10% cho
mọi loại hàng hoá bán nội địa. Thuế suất thống nhất sẽ góp phần bịt được những kẽ
hở do chênh lệch thuế suất gây ra. Để giảm số lượng thuế suất còn 2 mức, thì phải bảo
đảm các yêu cầu sau:
Một là, xác định mức thuế suất phải bảo đảm không làm ảnh hưởng lớn đến
nguồn thu của NSNN, đồng thời phải nuôi dưỡng nguồn thu cho NSNN.
Hai là, mức thuế suất phải bảo hộ được sản xuất trong nước, do phải giảm thuế
nhập khẩu vào năm 2006 theo hiệp định AFTA.
Ba là, mức thuế suất phải bảo đảm công bằng quyền lợi và nghĩa vụ giữa các
doanh nghiệp, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không có biến động lớn về giá
cả và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân.
- Về phương pháp tính thuế:
Theo quy định ở nhà nước ta phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp
khấu trừ và phương pháp tính thuế trực tiếp trong điều kiện này khi nền kinh tế phát
triển chưa cao, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô vừa và nhỏ chưa
thực hiện tốt chế độ kế toán hoá đơn chứng từ còn nhiều và chưa đáp ứng được yêu
cầu tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Qua thực tế cho thấy với hai phương pháp
tính thuế với mức doanh thu như nhau khoản nộp thuế lại khác nhau, điều này chứng
tỏ luật thuế vẫn chưa ổn định về phương pháp tính, dẫn đến không công bằng trong
nghĩa vụ nộp thuế, có thể sẽ tạo ra sân chơi không bình đẳng giữa các cơ sở sản xuất
kinh doanh.
Thực tế quản ly thuế cho thấy, các chủ thể nộp thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ thuế chiếm tỷ lệ không lớn so với tổng các chủ thể nộp thuế GTGT nhưng số
thuế được thu, nộp lại chiếm đa số. Ngược lại, chủ thể nộp thuế theo phương pháp trừ
trực tiếp chiếm tỷ lệ lớn, nhưng tổng thu thuế GTGT của các đối tượng này không
cao, chi phí quản lý thuế lớn so với các chủ thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừ.
Vì vậy, theo em, nên bỏ phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT và có thể cho áp
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 13



dụng sớm ngưỡng thu thuế GTGT. Cơ sở kinh doanh có doanh thu đến một mức
doanh thu nhất định nào đó mới áp dụng thuế GTGT và chỉ áp dụng thống nhất
phương pháp khấu trừ thuế. Đối tượng kinh doanh dưới ngưỡng doanh thu này sẽ
không áp dụng thuế GTGT mà chuyến sang nộp thuế theo một tỷ lệ cố định trên
doanh thu 1%, 2% chẳng hạn theo từng loại hình kinh doanh.
- Khấu trừ và hoàn thuế
Việc cho khấu trừ thuế đầu vào lại phát sinh những vướng mắc như: Có nhiều
tỷ lệ khấu trừ khác nhau nên rất phức tạp trong quá trình thực hiện và không khuyến
khích sử dụng hoá đơn chứng từ. Đối với hàng hoá nông, lâm, hải sản không cần hoá
đơn, chỉ cần bản kê dẫn tới có trường hợp cơ sở sản xuất mua của người kinh doanh
buôn chuyến, người thu gom trốn thuế, các doanh nghiệp không lấy hoá đơn bán
hàng, tạo kẽ hở để cơ sở kinh doanh buôn chuyến, người thu gom trốn thuế. Các
doanh nghiệp mua nông, lâm, hải sản sau đó sơ chế bán hàng trong nước thì được
khấu trừ thuế nhưng nếu xuất khẩu lại không được trừ thuế đầu vào. Do đó, giải pháp
cho vấn đề này là: Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao
hàng hoặc cung ứng dịch vụ bị huỷ bỏ, sau khi đã chấp nhận trả tiền của người mua
hoặc trường hợp giảm giá, các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ
hợp lệ.
Trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT, thủ tục hoàn thuế rất phức tạp nên
tiến độ hoàn thuế chậm, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những
doanh nghiệp đầu tư, mua sắm tài sản cố định với khối lượng lớn. Nguyên nhân của
tình hình trên một phần do doanh nghiệp chưa làm đúng thủ tục, một phần do cơ quan
thuế chưa quen, văn bản hướng dẫn lại chưa rõ ràng. Trước tình hình đó, Bộ tài chính
đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước kiểm tra sau và phải xử lý nghiêm
những trường hợp vi pham. Các văn bản này đề cao trách nhiệm và quyền lợi của các
doanh nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT.
Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế vẫn còn nhiều bấp cập về thủ tục cũng như thời
gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan trước những hồ sơ xin

được hoàn thuế và tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế
- Hóa đơn, chứng từ
Trong quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ đã phát sinh những tồn tại vướng
mắc sau: in và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp (hoá đơn không theo qui định của luật
thuế, hoá đơn thật nhưng ký hiệu và mã số trên hoá đơn là giả, hoá đơn ghi tổng giá
trị hàng hoá không khớp giữa các liên...), buôn bán hoá đơn thật và hoá đơn giả, xuất
hoá đơn khống, taoh điều kiện cho các đơn vị khác trốn thuế, bán hàng xuất hoá đơn
nhưng không kê khai nộp thuế, báo mất hoá đơn nhưng trên thực chất là bán hoặc sử
dụng hoá đơn của đơn vị khác báo mất.
Giải pháp cho vấn đề này, Bộ tài chính nên nghiên cứu lại giấy in hoá đơn,
chứng từ và ký hiệu, mã hiệu của từng loại hoá đơn, chứng từ để chống in giả, nối
mạng về quản lý và sử dụng hoá đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong
toàn quốc. Mặt khác, Bộ tài chính cần phải phối hợp với các cơ quan pháp luật để
kiểm tra, phát hiện và xử lý, nghiêm các trường hợp vi phạm về chế độ quản lý,sử
dụng hoá đơn, yêu cầu các doanh nghiệp phải tự kiểm tra nội bộ, mua bán hàng hoá,
dịch vụ phải ghi rõ tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán. Đồng thời mở rộng khuyến
khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn GTGT theo mẫu qui định của Bộ tài chính.
b. Tăng cường công tác quản lý thuế
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 14


Tăng cường quản lý thuế có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo tính ổn định
và hiệu quả của hệ thống thuế. Thực tế thực thi chính sách thuế GTGT ở Việt Nam
thời gian qua và kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy việc triển khai thực
hiện chính sách thuế thường đạt kết quả thấp hơn nhiều so với lý thuyết do các
nguyên nhân khách quan từ điều kiện kinh tế xã hội và nguyên nhân chủ quan từ
chính sách thuế và bộ máy quản lý thuế. Vì vậy, cùng với việc thiết kế và xây dựng
chính sách thuế GTGT đơn giản và khả thi, cần tăng cường công tác quản lý thuế để

đảm bảo đưa chính sách thuế vào thực tiễn và phát huy hiệu quả của chúng đối với
nền kinh tế; trong đó cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Quy định thống nhất cơ quan hải quan tổ chức quản lý thu thuế GTGT đối với
hàng nhập khẩu cùng với thuế nhập khẩu; cơ quan thuế tổ chức quản lý thu thuế
GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong nước nhằm đảm bảo tính công khai,
minh bạch và rõ rang trong trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan quản lý thu thuế.
- Tăng cường tính minh bạch, công khai của quy trình quản lý thuế GTGT, quy
định thống nhất trong luật quản lý thuế; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền,
giáo dục kiến thức chung về pháp luật thuế đến mọi đối tượng trong xã hội nhằm
nâng cao nhận thức của các tầng lớp dân cư trong xã hội về nghĩa vụ nộp thuế, từng
bước cải thiện tính tuân thủ về thuế của các đối tượng.
- Tăng cường và hợp lý hóa quy trình quản lý hóa đơn, sổ sách, chứng từ kế
toán. Hiện nay, chế độ kế toán, thông tin báo cáo, hóa đơn chứng từ còn nhiều bất
cập, chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời để làm cơ sở cho việc tính toán và xác định
nghĩa vụ thuế một cách chính xác và hiệu quả. Do đó, cần phải có chế độ kế toán,
thông tin báo cáo, hóa đơn chứng từ cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp và
đối tượng nộp thuế nhắm đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch trong tính toán, xác định
nghĩa vụ thuế, hoàn thuế để tránh những hiện tượng lợi dụng kẽ hở pháp luật để trốn
thuế hoặc chiếm dụng tiền hoàn thuế GTGT của Nhà nước.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết hợp
với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng trong công
tác quản lý thuế nhằm đảm bảo thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lý thuế GTGT,
đặc biệt là khâu hoàn thuế GTGT. Phối hợp chặt chẽ các cơ quan thuế với các cơ quan
quản lý thị trường, cơ quan thực thi pháp luật để kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm
túc đối với các trường hợp in ấn hoá đơn giả, buôn bán hoá đơn giả và hoá đơn thật,
các trường hợp chứng từ, hợp đồng giả, khống để trốn thuế gây thất thoát thu cho
NSNN, thị trường biến động.
- Cải cách hành chính thuế
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hoá thủ
tục, các văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc, đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra.

Để đẩy mạnh công tác cải cách hành chính thuế, Bộ tài chính và ngành thuế nên chú ý
những vấn đề sau: Rà soát lại toàn bộ những văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế,
nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải thích, từ ngữ và nội dung, tính thống nhất và kế
thừa của các văn bản. Mẫu kê khai thuế, nộp thuế cần thống nhất với chế độ kế toán,
thống kê, đơn giản hoá các mẫu biểu qui định trong thu, nộp, hoàn thuế.
- Khuyến khích sự phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn thuế giữa các hình thức
Nhà nước (do cơ quan thuế tổ chức) và tư nhân (do các doanh nghiệp tư vấn thuế tổ
chức, thực hiện) để đảm bảo nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, đặc biệt là tiết
kiệm chi phí đối với người nộp thuế.
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 15


- Tăng cường đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ cán bộ thuế. Hiện nay, đại bộ phận đội ngũ cán bộ thuế chưa có kỹ năng chuyên
nghiệp, chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, khả năng
ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý thuế chưa phù hợp với yêu cầu cải cách hành
chính thuế. Thái độ và phong cách ứng xử của một bộ phận cán bộ thuế chưa thật sự
tận tụy, công tâm, chưa coi đối tượng nộp thuế là khách hàng, để có thái độ chất
lượng phục vụ tốt. Một bộ phận cán bộ thuế còn thiếu tinh thần trách nhiệm, thông
đồng với đối tượng nộp thuế gây thất thu ngân sách và gây khó khăn cho đối tượng
nộp. Do đó, cần tổ chức lại và kiện toàn bộ máy cơ quan thuế kết hợp với tăng cường
đào tạo chuyên sâu về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ thuế
nhằm tạo ra cơ sở vững chắc về tổ chức bộ máy và con người để nâng cao hiệu quả
công tác quản lý thuế. Có chính sách động viên hợp lý đội ngũ cán bộ thuế, nhất là ở
cơ sở, kết hợp với công tác giáo dục thường xuyên về quản lý chặt chẽ đội ngũ này
chống tiêu cực lệch lạc
Trên đây là một số hướng nhằm hoàn thiện cơ sở thuế GTGT hiện nay ở nước
ta. Để phát huy những tác động tích cực về mặt kinh tế- xã hội và hạn chế các mặt tiêu

cực của thuế GTGT, làm cho luật thuế này thực sự phát huy hiêu quả trong thực tế
cuộc sống.
C. KẾT LUẬN
Thuế GTGT đã khắc phục trình trạng đánh trùng thuế, hạn chế tình trạng kinh
doanh lỗ vẫn phải nộp, đóng góp tích cực vào việc xây dựng môi trường cạnh tranh
bình đẳng, tăng thu NSNN, hạn chế tình trạng thất thu thuế. Nhưng bên cạnh những
mặt đã đạt được, việc thực thi pháp luật thuế GTGT còn gặp khá nhiều khó khăn
vướng mắc trong quá trình áp dụng. Để cho chính sách thuế GTGT đúng là một sắc
thuế tiên tiến và thành công trong hình thức thuế góp phần quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế đất nước, mỗi chúng ta cần ý thức được vai trò to lớn của thuế GTGT
với nền kinh tế và tuân thủ các quy định của pháp luật về thuế GTGT

1.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Luật thuế Việt Nam trường Đại học Luật Hà Nội-2005

2.
Luận văn thạc sỹ pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam và phương hướng
hoàn thiện – Ths Trần Minh Hiền
3.

Luật thuế GTGT số 13/2008/ QH12

4.
Nghị định 123/2008/ NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều
của Luật thuế GTGT
5.
/>6.


/>
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 16


7.
/>
Bài tập học kỳ - Môn: Luật Tài chính

Page 17



×