Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tìm hiểu chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam và những nhận xét đánh giá về thực hiện chế độ chi tiêu hành chính ở một đơn vị mà em lựa chọn- Trường Đại học Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.4 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, các cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành
bộ máy nhà nước, có chức năng thực thi công tác quản lý nhà nước, hoạch định và
thực hiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội. Một trong những điều kiện tiên
quyết để các cơ quan này có thể duy trì, vận hành được là phải có nguồn kinh phí, mà
ta gọi là chi tiêu hành chính. Mà cụ thể là chế độ chi tiêu hành chính tại các đơn vị
hành chính diễn ra như thế nào, có hợp lý hay không? Trong phạm vi bài tập học kì
của mình em xin tìm hiểu về vấn đề: “Tìm hiểu chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam
và những nhận xét đánh giá về thực hiện chế độ chi tiêu hành chính ở một đơn vị mà
em lựa chọn- Trường Đại học Hà Nội”
NỘI DUNG
I. Tìm hiểu về chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam:
1. Khái niệm

Chi tiêu hành chính vốn dĩ là một bộ phận của chi thường xuyên ngân sách Nhà
nước.
_ Chi ngân sách nhà nước: là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá trình
phân phối nguồi tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nhà nước để chi dùng vào những
mục đích khác nhau. Nó bao gồm việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước
theo dự toán ngân sách đã được chủ thể quyền lực nhằm duy trì sự hoạt động của bộ
máy nhà nước và bảo đảm nhà nước thực hiện được các chức năng của mình. Chi
ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm chủ thể: nhóm chủ thể
đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, phân cấp, thanh toán các khoản chi
ngân sách nhà nước; nhóm chủ thể sử dụng ngân sách.
Nhóm thứ nhất bao gồm Bộ tài chính, sở tài chính, phòng tài chính, sở kế
hoạch và đầu tư và kho bạc nhà nước. Nhóm thứ hai gồm các chủ thể sử dụng ngân
sách, nhóm này rất đa dạng nhưng có thể khái quát thành ba loại: các cơ quan nhà
nước, kể các các cơ quan hành chính thực hiến khóa biên chế và kinh phí quản lí hành
chính; các đơn vị, kể cả sự nghiệp có thu; các chủ dự án sử dụng kinh phí ngân sách
nhà nước.
1




-

Chi tiêu hành chính: có thể hiểu là việc sử dụng ngân sách nhà nước của các đơn vị
hành chính để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình theo đúng quy định của pháp
luật. Vì vậy chi hành chính là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chi tiêu công.
Nếu như chi tiêu công là các khoản chi tiêu của Nhà nước nhằm thực hiện các chức
năng vốn có của Nhà nước thì chi tiêu hành chính là một bộ phận của chi tiêu công
nhằm duy trì hoạt động của bộ máy nhà nước trong quá trình thực hiện các chức năng
của mình. Đây là khoản chi tiêu mang tính thường xuyên, duy trì hoạt động hàng ngày
của toàn bộ hệ thống bộ máy nhà nước được thành lập từ trung ương đến địa phương,
trên tất cả các ngành, lĩnh vực của đời sống xã hội và là một bộ phận của chi thường
xuyên ngân sách nhà nước.
Ở Việt Nam, việc quản lý và quy định vấn đề chi tiêu của các cơ quan hành
chính do Bộ tài chính chịu trách nhiệm là chủ yếu. Bộ tài chính đã ban hành rất nhiều
văn bản và liên tịch ban hành cùng với các cơ quan quản lý nhà nước khác. Và các cơ
quan hành chính ở địa phương các cấp cũng ban hành quy định cụ thể cho bộ phận
của mình về việc chi tiêu hành chính.
Các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp thuộc bộ máy nhà nước là những
đơn vị có nhiệm vụ cung cấp các dịch vụ công cộng cho xã hội. Nguồn tài chính cho
các đơn vị này hoạt động chủ yếu dựa vào những khoản cấp phát theo chế độ từ Ngân
sách nhà nước. Ngoài ra, còn một số khoản chi khác có nguồn gốc từ ngân sách nhà
nước, các khoản thu do đơn vị tự khai thác, hoặc quyên góp, tặng biếu không phải nộp
ngân sách nhà nước.
2. Cơ sở pháp lí của chế độ chi tiêu hành chính:

Pháp luật điều chỉnh chế độ chi tiêu hành chính là hệ thống các quy phạm pháp
luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định về nguyên tắc, chế độ,
chính sách, định mức và cơ chế chi hành chính nhà nước. Xuất phát từ nội dung, mục

đích của chi hành chính, hệ thống pháp luật điều chỉnh chi hành chính nhà nước khá
phong phú và đa dạng, trong đó phải kể tới các văn bản như:
- Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
2


- Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về hệ thống mục lục ngân sách nhà nước
gồm: Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC ngày 02/6/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về
việc ban hành Hệ thống Mục lục ngân sách nhà nước và các Thông tư của Bộ Tài
chính sửa đổi, bổ sung hệ thống mục lục ngân sách nhà nước;
- Hệ thống các văn bản quy định về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và
kinh phí quản lý hành chính tại các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp như: Nghị
định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ
quan nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập và các văn bản hướng dẫn thi hành;
- Hệ thống các văn bản quy định về các chế độ, định mức cụ thể trong chi hành chính
như: Quyết định số 59/2007/QĐ-TTg ngày 07 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng Chính
phủ ban hành Quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý sử dụng phương tiện
đi lại trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty nhà nước (đã
được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 184/2007/QĐ-TTg); Thông tư số
01/2010/TT-BTC ngày 06/01/2010 của Bộ Tài chính Quy định chế độ chi tiêu đón
tiếp khách nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam, chi tiêu tổ chức các hội nghị, hội
thảo quốc tế tại Việt Nam và chi tiêu tiếp khách trong nước; Thông tư số 97/2010/TTBTC ngày 06/7/2010 của Bộ Tài chính Quy định chế độ công tác phí, chế độ chi tổ
chức các cuộc hội nghị đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập;
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về kiểm soát chi hành chính như:
Thông tư số 18/2006/TT-BTC ngày 13/3/2006 của Bộ Tài chính Hướng dẫn kiểm soát
chi đối với cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế

và kinh phí quản lý hành chính; Thông tư số 81/2006/TT-BTC ngày 06/09/2006 của
Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập
thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy,

3


biên chế và tài chính (đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 172/2009/TT-BTC
ngày 26/8/2009).
3. Nội dung chi tiêu hành chính Việt Nam hiện nay:

Trên cơ sở hệ thống mục lục chi ngân sách nhà nước ban hành kèm theo Quyết định
số 33/2008/QĐ-BTC ngày 02/6/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành hệ thống
mục lục ngân sách nhà nước, nội dung chi hành chính gồm các nhóm cơ bản sau:
- Nhóm chi thanh toán cho cá nhân như: Tiền lương, tiền công trả cho lao động
thường xuyên theo hợp đồng; phụ cấp lương; sinh hoạt phí cho cán bộ đi học; tiền
thưởng; phúc lợi tập thể, các khoản đóng góp trong đó, chi cho tiền lương là khoản
chi chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng chi ngân sách Nhà nước
- Nhóm chi về hàng hóa, dịch vụ gồm các mục chi: Thanh toán dịch vụ công cộng
(tiền điện, tiền nước, tiền điện thoại, tiền vệ sinh, môi trường; tiền khoán phương
tiện theo chế độ, tiền khác); Vật tư văn phòng (văn phòng phẩm, vật tư, công cụ
văn phòng, khoán văn phòng phẩm, vật tư văn phòng khác); Thông tin, tuyên
truyền, liên lạc (cước phí điện thoại trong nước, cước phí điện thoại quốc tế, cước
bưu chính, Fax, sách, báo, tạp chí v.v..); Hội nghị; Công tác phí (tiền vé máy bay,
tàu xe, phụ cấp công tác phí, tiền thuê phòng nghỉ v.v..); Chi thuê mướn; chi đoàn
ra; chi đoàn vào; Sửa chữa tài sản phục vụ công tác chuyên môn và duy tu, bảo
dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng từ kinh phí thường xuyên;
- Nhóm Chi nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành
- Nhóm chi khác: là những mục chi có thời hạn tác động ngắn và phục vụ trực tiếp
cho hoạt động của bộ máy nhà nước


4. Thực trạng pháp luật điều chỉnh chế độ chi tiêu hành chính ở Việt Nam hiện
nay:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật đang từng bước được hoàn thiện
4


- Hệ thống mục lục ngân sách nhà nước trong đó có hệ thống mục, tiểu mục chi
hành chính đã được ban hành, sửa đổi, bổ sung trên cơ sở thống các khoản chi hành
chính, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho quá trình lập, thực hiện, kiểm soát chi cũng
như quyết toán các khoản chi hành chính, giải quyết tình trạng rải rác các văn bản
Ngày 02/6/2008, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC về
việc ban hành hệ thống mục lục ngân sách nhà nước thay thế toàn bộ hệ thống mục
lục ngân sách Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 280 TC/QĐ/NSNN ngày
15/4/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và 23 Quyết định, Thông tư của Bộ Tài chính
liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung hệ thống mục lục ngân sách nhà nước.
- Hệ thống các quy định pháp luật về nội dung, định mức, tiêu chuẩn chi hành chính
được quy định cụ thể, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho quá trình áp dụng trên thực
tiễn.
Theo phân cấp của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ và Bộ Tài chính đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy
định cụ thể về tiêu chuẩn, định mức chi tiêu hành chính trong các cơ quan Nhà nước
như: tiêu chuẩn, định mức trang bị, sử dụng ô tô; tiêu chuẩn, định mức trang bị thiết bị
phục vụ công tác; tiêu chuẩn, định mức sử dụng điện thoại, chế độ công tác phí, chế
độ chi hội nghị, tiếp khách v.v..
Để phù hợp với điều kiện thực tế của các Bộ, ngành và địa phương, nhìn
chung các định mức chi tiêu được ban hành ở dạng khung, trên cơ sở đó phân cấp cho
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Hội đồng nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào điều kiện thực tế của ngành,
địa phương mình quy định mức chi cụ thể trên cơ sở phù hợp với định mức khung

chung đã được ban hành. Như vậy, hệ thống các văn bản về chi hành chính nhà nước
một mặt bảo đảm tính thống nhất chung có tính đến điều kiện thực tiễn của mỗi Bộ,
ngành và địa phương trên nguyên tắc bảo đảm chi hành chính tiết kiệm, hiệu quả.
Việc quy định khá đầy đủ về nội dung và định mức chi hành chính trong hệ thống
pháp luật hiện nay đã và đang góp phần vào việc:

5


+ Tạo điều kiện cho các đơn vị được giao ngân sách chủ động trong chi tiêu
dựa trên quy định chung của nhà nước, phục vụ đắc lực cho việc thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị được giao.
+ Làm cơ sở cho cơ quan tài chính các cấp tham mưu cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định định mức chi, định mức giao ngân sách trên biên chế được giao
tại các đơn vị dự toán. Đồng thời là cơ sở để cơ quan tài chính cũng như kho bạc nhà
nước kiểm soát, thẩm tra cũng như quyết toán các khoản chi hành chính của các cơ
quan, đơn vị
+ Là cơ sở cho việc thực hiện chế độ công khai, minh bạch chế độ tài chính
trong đó có chế độ chi tiêu quản lý hành chính tại các cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, tổ chức thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh phí
hành chính.
Trong những năm qua, kinh phí chi hành chính ngày càng tăng, nhưng vẫn còn
khoảng cách so với nhu cầu chi tiêu thực tế phát sinh tại các cơ quan nhà nước. Để
giải quyết mâu thuẫn này là phải xây dựng được cơ chế quản lý và sử dụng hợp lý để
đảm bảo mục tiêu, yêu cầu tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước, đồng thời thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí. Nhà nước đã tiến hành rà soát các
khoản chi hành chính trên tinh thần đảm bảo chi tiết kiệm, hiệu quả, chống lãng phí.
Năm 2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày
17/9/2001 ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2001 -2010, theo Chương trình này, cải cách hành chính nhà nước được tiến hành

đồng bộ, toàn diện trên cả bốn bộ phận cấu thành của nền hành chính nhà nước gồm:
Cải cách thể chế hành chính, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; đổi mới,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công. Trong nội
dung về cải cách tài chính công, chương trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với
cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp được đề ra, trong đó thực hiện chế độ khoán
chi trong cơ quan hành chính và chế độ tự chủ về kinh phí đối với đơn vị sự nghiệp
nhằm giảm dần chi từ ngân sách nhà nước tiến tới thực hiện chế độ tự quản tài chính
là những nội dung mang tính giải pháp quan trọng.
6


Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện từng bước chế độ tự chủ tài chính,
ngày 17/12/2001, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 192/QĐ-TTg về mở
rộng thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành
chính nhà nước.
Trên cơ sở kết quả áp dụng thí điểm chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại một
số cơ quan, đơn vị, Chính phủ đã ban hành:
- Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 về chế độ tài chính áp dụng cho đơn
vị sự nghiệp có thu;
- Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với
các cơ quan nhà nước
Theo Nghị định này, các cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được giao kinh phí hàng
năm trên cơ sở biên chế được cấp có thẩm quyền giao Căn cứ vào tình hình thực
hiện nhiệm vụ được giao, Thủ trưởng cơ quan thực hiện chế độ tự chủ tự quyết
định bố trí số kinh phí được giao vào các mục chi cho phù hợp; được quyền điều
chỉnh giữa các mục chi nếu xét thấy cần thiết. Kinh phí tiết kiệm được từ nguồn
kinh phí tự chủ, cơ quan, đơn vị được quyền sử dụng để bổ sung thu nhập tăng
thêm cho cán bộ, công chức, người lao động của cơ quan, đơn vị và chi khen
thưởng hoặc phúc lợi xã hội. Trong trường hợp xét thấy khả năng tiết kiệm kinh

phí không ổn định, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có thể trích lập quỹ dự phòng
để ổn định thu nhập cho cán bộ, công chức. Số kinh phí tiết kiệm được, cuối năm
chưa sử dụng hết được chuyển sang năm sau tiếp tục sử dụng. Như vậy, thực hiện
chế độ tự chủ về kinh phí hành chính trong các cơ quan theo Nghị định
130/2005/NĐ-CP đã góp phần quan trọng vào việc:
+ Xóa bỏ cơ chế ‘Xin – cho” trong cấp kinh phí hành chính, việc cấp kinh phí
hành chính bảo đảm tính khách quan trên cơ sở số lượng biên chế của cơ quan,
đơn vị được duyệt và định mức phân bổ kinh phí trên một đầu biên chế do cơ
quan có thẩm quyền quy định
7


+Tạo ra tính chủ động trong quản lý, sử dụng kinh phí khoán chi trong các cơ
quan, đơn vị, thông qua đó nguồn kinh phí hành chính được sử dụng một cách
tiết kiệm, hiệu quả, tạo nguồn thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, người
lao động.
- Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và
tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
Đứng ở góc độ quản lý tài chính công trong đó có nội dung chi kinh phí hành
chính, việc thực hiện chế độ tự chủ về tài chính đối với đơn vị sự nghiệp góp phần
quan trọng vào việc giảm bao cấp từ nguồn ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự
nghiệp công lập. Về cơ bản đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay được phân thành
03 loại: Đơn vị sự nghiệp tự chủ toàn bộ về kinh phí; đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm
một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm
toàn bộ chi phí hoạt động. Tương ứng với mỗi loại hình sẽ có cơ chế quản lý tài
chính phù hợp, song nhìn chung cơ chế tự chủ về tài chính tại các đơn vị sự
nghiệp đã tạo điều kiện cho đơn vị chủ động sử dụng nguồn lực tài chính, chủ
động phân bổ nguồn lực tài chính của đơn vị theo nhu cầu chi tiêu đối với từng
lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm, thiết thực, hiệu quả. Bên cạnh đó thu nhập bình

quân của công chức, viên chức, người lao động trong đơn vị sự nghiệp được cải
thiện, việc chi trả lương được gắn với hiệu suất công tác của từng cá nhân, hạn
chế việc chi trả bình quân, góp phần thu hút được lao động có trình độ vào làm
việc tại các đơn vị, hạn chế nạn ‘chảy máu” chất xám của các đơn vị sự nghiệp
công.
Bên cạnh chế độ khoán chi hành chính, mỗi cơ quan, đơn vị hành chính sử dụng
ngân sách phải xây dựng một quy chế chi tiêu nội bộ phù hợp với quy định của pháp
luật về chi tiêu ngân sách. Căn cứ vảo bản quy chế chi tiêu nội bộ này sẽ đảm bảo cho
các đơn vị hành chính hoạt động hoàn thành nhiệm vụ chức năng của mình, nhưng
đồng thời vẫn phải sử dụng có hiệu quả kinh phí, đúng theo chủ trương của nhà nước.
Quy chế chi tiêu thường bao gồm các quy định về chế độ, tiêu chuẩn, định mức áp
8


dụng thống nhất trong toàn cơ quan, đơn vị hành chính, được xây dựng nhằm quản lý
nguồn ngân sách nhà nước của đơn vị sử dụng trên nguyên tắc dân chủ, công bằng,
công khai, phân phối theo lao động và trắc nhiệm. Thủ trưởng cơ quan sẽ căn cứ vào
những quy định của pháp luật và điều kiện cụ thể để đưa ra các định mức cho việc
thực hiện chi tiêu.
Bản chi tiêu nội bộ quy định rõ ràng cụ thể về các vấn đề sau: tiền lương, công tác
phí, kinh phí công đoàn, chi tiêu hội nghị, sử dụng thông tin phương tiện liên lạc,
trang bị và sử dụng văn phòng phẩm, công cụ văn phòng phẩm, thanh toán chi phí
nghiệp vụ thường xuyên, trích quỹ và sử dụng quỹ….
-

Mục đích của bản quy chế chi tiêu nội bộ được xác định là:

+Tạo điều kiện để cơ quan chủ động trong quản lý và sử dụng kinh phí quản lý
hành chính được nhà nước giao, thúc đẩy việc sắp xếp tổ chức bộ máy có hiệu quả,
đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, thực hiện phù hợp với hoạt động của cơ quan và

góp phần nâng cao thu nhập chính đáng cho cán bộ, công chức.
+ Đảm bảo cho việc sử dụng taì sản công đúng mục đích, hiệu quả.
+Thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về thực hành tiết kiệm, chống lãnh phí
trong chi tiêu ngân sách.
-

Nguyên tắc xây dựng quy chế được pháp luật quy đinh như sau:
+ Quy chế xây dựng trên cơ sỏ các quy định chi tiêu hiện hành do cơ quan

Nhà nước có thẩm quyền ban hành và phù hợp với hoạt động của cơ quan.
+Tạo điều kiện để cơ quan và cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ
được giao; bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
+Những nội dung không quy định trong Quy chế này thì thực hiện chế độ,
tiêu chuẩn, định mức theo quy định hiện hành của Nhà nước..

Quá trình triển khai thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về biên chế và kinh
phí tại các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp hiện nay đã đạt được những kết quả
khả quan trong việc quản lý, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn chi tài chính công
trong đó có nguồn chi kinh phí quản lý hành chính.

9


5. Những mặt hạn chế và phương hướng hoàn thiện pháp luật về chế độ
chi tiêu hành chính
5.1. Hạn chế
Hệ thống các văn bản điều chỉnh chưa mang tính ổn định, còn phải sửa đổi, bổ
sung nhiều; hệ thống các định mức, tiêu chuẩn được ban hành khi triển khai thực hiện
thường lạc hậu hoặc không phù hợp với thực tiễn cuộc sống; chế độ tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về về kinh phí quản lý hành chính vẫn còn những bất cập cần tiếp tục

được khắc phục. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, hệ thống mục lục ngân sách nhà nước về cơ bản đã khắc phục được tình
trạng quy định rải rác ở quá nhiều văn bản. Tuy nhiên, hệ thống mục lục ngân sách
nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 33/2008/QĐ-BTC của Bộ Tài chính tính
đến thời điểm hiện nay vẫn chưa ổn định do liên tục sửa đổi. Điều này gây những khó
khăn nhất định trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước trong
đó có nguồn chi kinh phí quản lý hành chính.
Thứ hai, hệ thống chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi kinh phí quản lý hành chính mặc
dù đã được hoàn thiện theo hướng phù hợp với thực tiễn cuộc sống, song nhìn chung
chế độ, định mức, tiêu chuẩn được ban hành thường lạc hậu so với thực tiễn hoặc
không phù hợp với thực tiễn. Điều này dẫn đến những tác động tiêu cực như:
- Văn bản thường xuyên phải sửa đổi, bổ sung, gây khó khăn cho quá trình lập, chấp
hành dự toán cũng như quyết toán kinh phí chi hành chính;
- Để bảo đảm phù hợp với định mức chi theo quy định của pháp luật, trong khi mức
chi thực tế thường chênh lệch cao hơn so với mức chi quy định, các cơ quan, đơn vị
phải ‘chế biến” hóa đơn, chứng từ để hợp lý hóa các khoản chi trên thực tế;
Thứ ba, Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hành chính bên cạnh những
kết quả đã đạt được còn có những tồn tại, hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện như:
- Kinh phí hành chính khoán trên thực tế chưa tỷ lệ thuận với chức năng, nhiệm vụ
của cơ quan, đơn vị được giao. Ở Việt Nam hiện nay, một số cơ quan nhà nước có
10


khối lượng nhiệm vụ chuyên môn vừa phải nhưng có số lượng biên chế nhiều, trong
khi đó một số cơ quan nhà nước khác phải đảm đương một khối lượng công việc lớn
nhưng biên chế lại thấp và vì vậy ở những cơ quan này nhu cầu chi kinh phí hành
chính không hoàn toàn tỉ lệ thuận với số lượng biên chế.
- Một trong những mục tiêu cơ bản của chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước là thực hiện quyền tự chủ
đồng thời gắn với trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị. Tuy nhiên, quyền tự chủ của

các cơ quan được giao quyền tự chủ lại bị bó hẹp trong một số quy định của pháp luật
như:
+ Việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ của cơ quan, đơn vị vẫn phải căn cứ chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi hiện hành do cơ quan nhà nước có thẩm quyền + Về sử dụng
kinh phí được giao: Cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được vận dụng các chế độ chi
tiêu tài chính hiện hành để thực hiện, nhưng không được vượt quá mức chi tối đa do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
Với quy định như trên, thủ trưởng cơ quan nhà nước mặc dù được giao quyền tự chủ
nhưng cũng không thể phê duyệt, quyết định các nội dung, mức chi vượt quy định
hiện hành, không thể quyết định khoán các nội dung chi hoạt động thường xuyên
ngoài quy định của Nhà nước, kể cả từ nguồn kinh phí tiết kiệm của cơ quan.
5.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh chi hành chính
*Tiếp tục hoàn thiện hệ thống mục lục ngân sách nhà nước trong đó có các mục, tiểu
mục chi hành chính bảo đảm các yêu cầu:
- Phản ánh đầy đủ các nhu cầu chi hành chính trên thực tế của các cơ quan, tổ chức sử
dụng ngân sách nhà nước;
- Quy định tập trung, thống nhất trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, hạn chế việc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần dẫn đến khó khăn trong quá trình
áp dụng hệ thống mục lục ngân sách nhà nước nói chung

11


* Xây dựng chế độ, định mức, tiêu chuẩn trong chi hành chính bảo đảm phù hợp với
điều kiện phát triển kinh tế – xã hội, trong đó đặc biệt lưu ý tới các khoản chi cho cá
nhân như: Chế độ tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức; chế độ công tác phí,
chế độ tiền ăn đại biểu hội nghị…
*Tiếp tục hoàn thiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kinh phí hành chính trong
các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng:
- Nghiên cứu, điều chỉnh căn cứ giao kinh phí tự chủ ngoài căn cứ theo số lượng biên

chế được phê duyệt cần phải có thêm các căn cứ khác như: chức năng, nhiệm vụ quản
lý nhà nước được giao, quy mô, cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi cơ quan
- Để đảm bảo quyền tự chủ, đồng thời gắn với trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị
trong quản lý, sử dụng kinh phí và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, nên ban hành quy
định pháp luật, trong đó, giao cho thủ trưởng đơn vị:
+ Về việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện các nội dung chi kinh
phí: Ngoài các nội dung chi bắt buộc phải thực hiện theo chế độ quy định của Nhà
nước thủ trưởng đơn vị được phép quy định các mức chi cao hơn hoặc thấp hơn chế
độ Nhà nước quy định, đối với các nội dung chi chưa có quy định của Nhà nước, thủ
trưởng đơn vị được phép quy định mức chi phù hợp đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ
chuyên môn và trên cơ sở kinh phí tự chủ được giao, xây dựng phương án khoán và
thực hiện khoán đối với các nội dung chi hoạt động thường xuyên của đơn vị
+ Đối với kinh phí tiết kiệm được: Thủ trưởng đơn vị được quyết định các nội dung sử
dụng, trong đó không hạn chế mức chi bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, đối
với kinh phí tiết kiệm chưa sử dụng hết có thể được trích lập các quỹ dự phòng ổn
định thu nhập, khen thưởng, phúc lợi của đơn vị.
- Để đảm bảo thống nhất trong việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ
quan nhà nước từ trung ương đến địa phương, Nhà nước cần ban hành các tiêu chí
khung đánh giá các nội dung cơ bản như: khối lượng, chất lượng công việc thực hiện,
thời gian giải quyết công việc, chế độ và quy định về tài chính.

12


II. Nhận xét đánh giá về thực hiện chế độ chi tiêu hành chính ở một đơn vị mà em
lựa chọn - Trường Đại học Hà Nội
Căn cứ vào các quy định đã nêu trên của pháp luật như Nghị định 130/2005/NĐ-CP
của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và
kinh phí quản lí hành chính đối với cơ quan nhà nước, Quyết định số 78/2001/QĐTTg ngày 16/5/2001 ban hành quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng điện thoại công
vụ tại nhà riêng và điện thoạt di động đối với cán bộ lãnh đạo trong cá cơ quan hành

chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội; Thông tư số
139/2010/TT-BTC ngày 21/9/2010 của Bộ tài chính quy định việc lập dự toán, quản lý
và sử dụng kinh phí từ Ngân sách nhà nước dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức; Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 về chế độ tài chính áp
dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu….. và các quyết định của Hiệu trưởng nhà
trường…..
1. Nội dung các khoản chi của nhà trường bao gồm:
- Tiền lương : trường đã đảm bảo chi 100% tiền lương theo đúng chế độ hiện hành
cho cán bộ, giảng viên, nhân viên. Ngoài ra trường còn thanh toán tiền dạy thêm giờ
cho giảng viên theo thông tư liên tịch số 50/2008/TTLT-BGDĐT-BNV-BTC ngày 09
tháng 9 năm 2008 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính. Đây là
khoản chi lớn nhất trong số các khoản chi của nhà trường, thường chiếm từ 43- 45%
tổng chi.
- Tiền thuê mướn nhân công dọn dẹp vệ sinh, bảo vệ….
- Công tác phí: Việc thanh toán công tác phí được thực hiện theo đúng nguyên tắc là
người đi công tác phải thực hiện đúng nhiệm vụ được giao, có đủ chứng từ thanh toán
theo quy định
- Chi tiêu hội nghị: tùy thuộc vào quy mô và tính chất của từng hội nghị mà Hiệu
trưởng quyết định mức chi tiêu dựa trên khả năng nguồn tài chính của trường, trên
tinh thần tiết kiệm và theo đúng thông tư 97/2010/TT-BTC ngày 06/07/2010 của Bộ
Tài chính. Hằng năm trường phải thường xuyên tổ chức các hội nghị tổng kết năm
học, chuyên đề, hội thảo khoa học …Một số mức chi cụ thể trong việc tổ chức hội
13


nghị là: chi hỗ trợ tiền ăn cho đại biểu không quá 110.000 đồng/ngày/người; chi tiền
uống nước trong cuộc họp tối đa không quá mức 30.000 đồng/ngày(2 buổi)/người
- Chi tiếp khách: việc tiếp khách bao gồm chi nước uống, chi mời cơm thân mật và
không quá 200.000 đồng/xuất.
- Sử dụng điện thoại: Việc thanh toán cước phí sử dụng điện thoại công vụ tài nhà

riêng và điện thoại di động được áp dụng đối với lãnh đạo, theo đó: Hiệu trưởng ( điện
thoại di động 250.000 đồng/tháng; điện thoại cố định tại nhà riêng 100.000 đồng/
tháng), Hiệu phó (điện thoại di động 200.000 đồng/tháng; điện thoại cố định tại nhà
riêng 100.000 đồng/tháng)
Đối với việc sử dụng điện thoại cố định tại văn phòng khoa, tổ bộ môn được thanh
toán theo hóa đơn thực tế, nhưng không quá 300.000 đồng/tháng/ - Sử dụng máy vi
tính, điều hòa nhiệt độ và điện thắp sáng: thực hiện tiết kiệm.
- Sử dụng văn phòng phẩm, in ấn, foto tài liệu: hàng tháng các phòng và cá nhân được
cấp giấy, bút, số, sách theo định mức
- Sử dụng xăng dầu: với xe công của nhà trường để đi công tác, đưa đón khách.. mức
khoán xe ô tô 4 chỗ là 20 lít/100 km/tháng
- Chi thanh toán nghiệp vụ chuyên môn: cho hoạt của các khoa chuyên môn, tập huấn
nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, cho các khoa chuyên môn làm đề tài nghiên
cứu khoa học…
-Các khoản chi khác như,chi tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm như 20/10,
20/11, 8/3, khai giảng thường căn cứ tình hình thực tế nguồn kinh phí hàng năm được
duyệt mà có mức chi cụ thể…
- Chi học bổng cho sinh viên trung bình 5 sinh viên/ 1 lớp (khoảng 1% tổng chi)
- Chi mua sắm tài sản, trang thiết bị, vật tư sửa chữa thường xuyên tài sản cố định như
bàn ghế, bảng, projector…
- Sử dụng kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được: bổ sung thu nhập cho cán bộ,
công chức; chi khen thưởng cho cá nhân tập thể có thành tích, chi cho hoạt động phúc
lợi trong nhà trường như chi nghỉ mát, thăm quan, thăm hỏi, ủng hộ…
2. Nhận xét, đánh giá
Chế độ chi tiêu hành chính của trường Đại học Hà Nội đã đảm bảo những quy
định, hướng dẫn về chế độ chi tiêu hành chính của pháp luật.
14


Trường đã chi tiêu phù hợp với hoạt động của đơn vị nhằm tăng cường công

tác quản lý, chủ động trong quản lý và chi tiêu. Nhìn chung việc chi tiêu được thực
hiện trên tinh thần tiết kiệm, hiệu quả, ổn định. Trong đó chi trả lương cho cán bộ giáo
viên chiếm nhiều nhất, xấp xỉ 45% tổng chi. Các khoản chi luôn được nhà trường chi
trả kịp thời, đúng hạn. Việc chi tiêu còn dựa trên thực tế nguồn kinh phí nhận được từ
ngân sách và thu học phí, thực tế hoạt động hàng năm…
Trường đã thực hiện theo đúng chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng
biên chế và kinh phí chi hành chính là phù hợp với yêu cần thực tiễn hiện nay, nâng
cao trách nhiệm của thủ trưởng và tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức
trong việc sử dụng biên chế, kinh phí đề hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Với đặc thù là một đơn vị sự nghiệp công lập có nguồn thu từ học phí, trường
đã sử dụng có hiệu quả nguồn thu này để nâng cao chất lượng dạy và học, bù lương
cho giáo viên. Kinh phí do nhà trường thu được dùng để chi tiêu luôn trên 80% tổng
chi, chi do ngân sách nhà nước cấp chỉ đủ từ 15- 20%. Trong vòng 7 năm trở lại đây
(từ năm 2006) nhà trường luôn chi tiêu đúng dự toán, không hề bị bội chi, thậm chí
còn tiết kiệm được một khoản so với dự kiến ( Xem thống kê cụ thể các khoản chi của
nhà trường tại phụ lục kèm theo)

KẾT LUẬN
Trên đây là bài tìm hiểu của em về chế độ chi tiêu hành chính ở nước ta
hiện nay, và thực tiễn chi tiêu hành chính tại trường Đại học Hà Nội. Qua đó ta
thấy được những thành tựu đã đạt được của các cơ quan hành chính nước ta nói
chung và trường Đại học Hà Nội nói riêng trong công tác chi tiêu hành chính,
cũng như những mặt còn hạn chế và từ đó đề ra phương hướng hoàn thiện.

15



×