Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Di chúc chung của vợ,chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.63 KB, 22 trang )

Bài tập lớn dân sự

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Thừa kế là một quan hệ pháp luật phổ biến trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện
nay, khi số lượng và giá trị tài sản của cá nhân càng đa dạng, phong phú thì thừa kế cũng
nảy sinh nhiều vấn đề. Thừa kế gồm thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo theo di chúc.
Vấn đề thừa kế theo di chúc, pháp luật nước ta có một số điều quy định về di chúc chung
của vợ, chồng. Tuy nhiên qua quá trình áp dụng các quy định này đã nảy sinh một số bất
cập như việc xác định các điều kiện có hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng, nội
dung của di chúc chung... đồng thời BLDS chưa dự liệu được hết các tình huống xảy ra
xung quanh các vấn đề có liên quan đến di chúc chung của vợ, chồng như các trường hợp
cấm vợ chồng lập di chúc chung, trường hợp vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung di
chúc chung khi một bên không đồng ý.... Do vậy để tìm hiểu rõ những quy định về di
chúng chung của vợ, chồng và những vấn đề bất cập còn tồn tại đối với những quy định
hiện hành về di chúc chung của vợ chồng. Em xin chọn đề tài: “Di chúc chung của vợ,
chồng”.
Do còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đánh giá góp ý từ phía thầy, cô để bài của
em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. KHÁI QUÁT VỀ DI CHÚC VÀ VẤN ĐỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
1. Khái niệm di chúc
Di chúc là một thuật ngữ đã tồn tại từ lâu với nhiều tên gọi khác nhau: như chúc thư,
chúc ngôn, lời dặn… Khái niệm di chúc được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo từ
điển tiếng việt thì “di chúc được hiểu là lời dặn lại trước khi chết những việc người sau
cần làm và nên làm”
Dưới góc độ khoa học pháp lí, theo Ulpian - một luật gia La Mã nổi tiếng thì: “Di chúc
là sự thể hiện ý chí của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi chúng ta chết”.


1


Bài tập lớn dân sự

Theo pháp luật Việt Nam thì khái niệm di chúc được quy định tại Điều 646 BLDS
2005 như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của
mình cho người khác sau khi chết”.
2. Khái niệm di chúc chung của vợ, chồng
* Định nghĩa
Di chúc là sự thể hiện ý chí cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người
khác sau khi chết. Thông qua bản di chúc, người chết đã thực hiện quyền định đoạt đối
với tài sản thuộc sở hữu của mình, vì vậy, thừa kế là hệ luận của quyền sở hữu, có sở hữu
mới có thừa kế. Xuất phát từ lý luận này mà pháp luật nước ta quy định trường hợp di
chúc chung của vợ chồng, bởi chế độ sở hữu của vợ chồng là chế độ sở hữu chung hợp
nhất và theo quy định của BLDS 2005 Điều 217:
“1. Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ
thể chung không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu
chung hợp nhất không phân chia
2. Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản
thuộc sở hữu chung”.
Theo quy định trên thì sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó quyền sở
hữu đối với mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung. Như vậy,
quyền sở hữu của vợ, chồng đối với khối tài sản chung không được xác định và họ có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với khối tài sản chung đó, Trong đó có quyền lập di
chúc chung để định đoạt khối tài sản chung của vợ chồng sau khi họ chết. Từ đó có thể
hiểu di chúc chung của vợ chồng là di chúc thể hiện thống nhất ý chí của vợ chồng trong
việc định đoạt khối tài sản chung sau khi vợ, chồng chết.
* Đặc điểm của di chúc chung của vợ chồng

Di chúc chung của vợ chồng là một trường hợp đặc biệt của di chúc chung do cá nhân
lập vì khi vợ chồng lập di chúc chung thì được pháp luật bảo vệ và một số quy đinh về di
chúc chung của vợ, chồng được dẫn chiếu tới những quy định chung về di chúc do cá
nhân lập. Vì vậy, di chúc chung của vợ chồng sẽ mang những đặc điểm của di chúc do cá
nhân lập như di chúc thể hiện ý chí của cá nhân khi lập di chúc, việc lập di chúc nhằm
2


Bài tập lớn dân sự

mục đích định đoạt khối tài sản thuộc sở hữu của mình và di chúc có hiệu lực pháp luật
sau khi cá nhân đó chết. Bên cạnh đó di chúc chung của vợ chồng cũng có những đặc
điểm riêng:
Thứ nhất, di chúc chung của vợ chồng là sự thể hiện thống nhất ý chí của hai vợ chồng,
dựa trên quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực.
Nếu như thừa kế theo di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của một cá nhân nhằm
chuyển dịch khối tài sản của mình cho người khác sau khi chết thì di chúc chung của vợ,
chồng là sự thể hiện thống nhất ý chí của cả người vợ và người chồng cùng quyết định
việc chuyển dịch tài sản chung của hai vợ chồng cho ai, mỗi người được hưởng bao
nhiêu, ai sẽ là người quản lý khối tài sản đó... Tuy nhiên xét về bản chất, di chúc chung
của vợ, chồng vẫn mang tính chất quyết định đơn phương bởi dù di chúc thể hiện ý chí
của nhiều người (của vợ và chồng) nhưng những người đó vẫn chỉ là một bên trong quan
hệ dân sự và khi lập di chúc chung, cũng không có sự đồng ý của những người được
hưởng thừa kế.
Hơn nữa, di chúc chung do vợ, chồng lập ra phải dược dựa trên quan hệ hôn nhân hợp
pháp của họ. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân đáp ứng được những quy
định về điều kiện kết hôn và thủ tục kết hôn theo đúng quy định của Luật hôn nhân và gia
đình (HN&GĐ).
Tuy nhiên, trên thực tế ở nước ta cũng có nhiều cuộc hôn nhân không tiến hành đăng
ký kết hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng trước pháp luật họ vẫn được

công nhận là vợ chồng và họ có đầy đủ các quyền của vợ chồng trong đó có quyền lập di
chúc chung để định đoạt tài sản chung. Đây là những trường hợp đặc biệt xuất pháp từ
hoàn cảnh lịch sử nước ta. Để xác định rõ trường hợp nào không tiến hành đăng ký kết
hôn trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng vẫn được pháp luật công nhận là vợ
chồng với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng nhưng không được pháp luật
công nhận và trong trường hợp đó họ cũng không có quyền và nghĩa vụ của vợ chồng tại
mục 3 Nghị quyết của quốc hội số 35/200/QH10 ngày 09/06/2000 về thi hành luật
NH&GĐ 2000 đã có hướng dẫn như sau:

3


Bài tập lớn dân sự

a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm
1987....... Nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dung khoản 2 và khoản 3 Điều
17 của luật HN&GĐ năm 2000 để giải quyết”
Như vậy, những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước năm 1987 mà
không đăng ký kết hôn thì vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng và có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ của vợ và chồng theo quy định của luật HN&GĐ trong đó có quyền
lập di chúc chung của vợ chồng. Đối với những trường hợp nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến 01/01/2001, họ có nghĩa vụ đi đăng ký kết hôn
trong thời hạn 2 năm, đến ngày 01/01/2003 mà họ không tiến hành đăng ký kết hôn thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Và kể từ ngày 01/01/2001 trở đi, nam nữ
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì đều không được pháp luật công
nhận là vợ chồng và đều không được hưởng các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, trong
trường hợp này họ cũng không có quyền lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung
giữa hai người.
Thứ hai, di chúc chung của vợ chồng được lập dùng để định đoạt tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Sự cần thiết phải xác định tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ, chồng là
những tài sản gì? Theo điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Tài sản chung của
vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài
sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác
mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”. “Thời kỳ hôn nhân của vợ chồng được xác
định là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày
chấm dứt hôn nhân” (khoản 7 Điều 8 luật HN&GĐ năm 2000). Thời kỳ hôn nhân bắt
đầu từ ngày đăng ký kết hôn và chấm dứt khi một bên vợ chồng chết hoặc vợ chồng ly
hôn. Như vậy, mọi tài sản trong gia đình có được trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là
tài sản chung của vợ, chồng, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, định
đoạt, sử dụng mà không phụ thuộc vào khả năng trực tiếp tạo ra tài sản hay công sức
đóng góp của mỗi bên. Vì vậy, khi lập di chúc chung của vợ chồng, họ có quyền định
đoạt khối tài sản được hai vợ chồng tạo lập ra được tình từ ngày đăng ký kết hôn trước cơ
4


Bài tập lớn dân sự

quan nhà nước có thẩm quyền đến ngày chấm dứt hôn nhân và những tài sản mà vợ
chồng được thừa kết chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác, mà vợ
chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Thứ ba, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng là thời điểm người sau
cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.
Đây cũng là một đặc trưng của di chúc chung của vợ, chồng làm nó khác biệt so với di
chúc do cá nhân lập. Bởi thời điểm di chúc cá nhân lập theo quy đinh của pháp luật chỉ có
hiệu lực khi cá nhân đó chết. Còn thời điểm của di chúc chung của vợ chồng được xác
định theo hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất là di chúc chung của vợ, chồng có hiệu
lực khi người sau cùng chết và trường hợp thứ hai là di chúc chung có hiệu lực tại thời
điểm vợ, chồng cùng chết.

Thứ tư, di chúc chung của vợ, chồng chỉ được sửa đổi, bổ sung khi có sự đồng ý của
cả vợ và chồng trong trường hợp cả hai còn sống, và chỉ được sửa đổi riêng phần di chúc
trong giới hạn phần tài sản của mình trong khối tài sản chung (nếu một bên chết trước).
Đây cũng là một điểm đặc trưng khác biệt so với di chúc do cá nhân lập bởi đối với di
chúc do cá nhân lập, họ có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc do mình lập ra
bất cứ lúc nào mà không cần sự đồng ý của ai (trừ trường hợp di chúc do người chưa đủ
15 tuổi đến dưới 18 tuổi lập thì cần có sự đông ý của cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý)
còn đối với di chúc chung của vợ, chồng họ chỉ có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ
di chúc trước đó đã lập khi có sự đồng ý của hai bên. Trong trường hợp khi một người
chết trước thì họ cũng chỉ có thể sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản
của họ.
3. Sơ lược về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng
Xem xét Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có quy định về vấn đề
này. Đối chiếu với luật La Mã cũng như BLDS Cộng hòa Pháp thì họ cũng không thừa
nhận quyền lập di chúc chung của vợ, chồng.
Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ, chồng lại được thừa nhận trong tục lệ của
nước ta từ lâu. Theo giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã hội
trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thưc di chúc thông dụng và việc
vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung là một hiện tượng phổ biến thời bấy giờ. Quan
5


Bài tập lớn dân sự

niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ, chồng và luôn
muốn củng cố tình yêu thương, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ,
chồng cùng nhau lập di chúc để định đoạt tài sản chung và coi đó như là một biểu hiện
cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ chồng.
Theo quy định của các Bộ dân luật các chế độ trước, thì thấy các Bộ dân luật Bắc và
Bộ dân luật Trung đều thừa nhận quyền di chúc chung của vợ, chồng. Bộ luật Sài Gòn

1972 cũng cho phép vợ, chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.
Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyên lập di chúc
chung. Thông tư 81 - TANDTC ngày 24/7/1981 đã từng nhắc tới di chúc chung của vợ,
chồng. Pháp lệnh thừa kế 1990 tuy không trực tiếp quy định vê di chúc chung của vợ
chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung. Vấn đề di chúc chung
của vợ, chồng được quy định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005. Các quy định này
trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với quy định của BLDS 1995. Mặc dù vậy, việc
quy định về di chúc chung trong BLDS 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, bất cập và
chưa phù hợp với thực tế áp dụng và thực thi pháp luật
Có thể nói, pháp luật cận đại và pháp luật hiện hành Việt Nam thừa nhận quyền lập di
chúc chung của vợ, chồng là thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong
gia đình, nhưng như vậy sẽ gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về di chúc làm
nảy sinh nhiều bất cập không thể giải quyết được, thậm chí còn làm phá vỡ tính hệ thống
của chế định quyền thừa kế.
II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ,
CHỒNG
1. Nhận xét chung các quy định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ,
chồng
Di chúc chung của vợ chồng có những nét đặc thù so với di chúc thông thường, để
hiểu và vận dụng nó không phải là một điều đơn giản. Hiện nay, trong BLDS, di chúc
chung của vợ chồng chỉ được quy định trong một vài điều luật và được nằm trong chương
Thừa kế theo di chúc của BLDS. Chính vì vậy, khi xem xét và vận dụng về di chúc chung
của vợ chồng chúng ta phải đặt nó trong mối liên hệ với di chúc nói chung.
6


Bài tập lớn dân sự

Những quy định trong BLĐS 2005 về di chúc chung của vợ chồng đã đánh dấu một
bước phát triển của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế theo di chúc nói riêng, góp

phần làm ổn định các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng và phức tạp, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Pháp luật thừa kế Việt Nam thừa nhận di chúc chung
của vợ chồng với những quy định mang tính cụ thể và linh hoạt, phù hợp với từng điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể; quy định chặt chẽ về nội dung cũng như về trình tự thủ tục lập di
chúc; hiệu lực pháp luật của di chúc làm cho điều luật có tính khả thi cao, đáp ứng được
nguyện vọng và yêu cầu của người dân cũng như phù hợp với sự đa dạng của các quan hệ
xã hội.
Mặc dù BLDS 2005 quy dịnh về di chúc chung của vợ chồng là như vậy nhưng hiện
nay trong quá trình áp dụng và thực thi pháp luật cho thấy những quy định trên vẫn còn
tồn tại một số hạn chế nhất định gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật, gây nên
nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề, có quy định còn chồng chéo, chưa nhất
quán, chưa đáp ứng được tính khả thi, chưa phù hợp với những đặc thù của di chúc chung
của vợ chồng; chưa quy định căn cứ chấm dứt di chúc chng của vợ chồng,...
2. Di chúc chung của vợ, chồng
* Vợ chồng là chủ thể cùng lập di chúc chung
Di chúc là sự thể hiện ý chí thống nhất của cả hai vợ, chồng: vì thế cả vợ và chồng
đều phải đáp ứng những yêu cầu về mặt chủ thể để di chúc chung có hiệu lực pháp luật.
Di chúc chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật khi cả hai vợ và chồng đều có năng lực
hành vi dân sự. “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Một người chỉ được coi là
có năng lực hành vi dân sự để tham gia các giao dịch khi người đó bằng khả năng của
mình tiến hành các hành vi, qua đó bằng khả năng của mình để thực hiện các và gánh vác
các nghĩa vụ dân sự. Như vậy, vợ và chồng là hai chủ thể độc lập phải tự mình quyết định
việc định đoạt khối tài sản chung, sau đó đi đến sự thống nhất ý kiến khi lập di chúc
chung của cả hai vợ chồng.
Năng lực hành vi dân sự của người vợ hoặc người chồng phải đáp ứng cả hai điều
kiện sau:
7



Bài tập lớn dân sự

- Yêu cầu về độ tuổi: Khoản 1 điều 647 BLDS 2005 quy định về độ tuổi của người
lập di chúc như sau:
“Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm
thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình”. Và
theo quy định tại Điều 18 BLDS 2005: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là người đã thành
niên”. Và người đã thành niên được coi là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Như
vậy, trong trường hợp vợ, chồng cùng lập di chúc chung thì cả hai vợ chồng phải đáp ứng
điều kiện là đã thành niên, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Tuy nhiên, nếu xem xét về điều kiện kết
hôn của vợ, chồng theo quy định tại điều 9 của Luật HN&GĐ 2000 “Nam từ hai mươi
tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên” là có thể đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Khi vợ chồng lập di chúc chung phải tự nguyện, không bị lừa dối, đe dọa
hoặc bị cưỡng ép. Vợ chồng phải tự nguyện, thống nhất ý chí của cả hai người từ đó mới
đảm bảo được tính tự nguyện của người lập di chúc.
* Nội dung của di chúc chung của vợ chồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Ngoài điều kiện về chủ thể, để xác định một di chúc chung của vợ chồng có được
xem là hợp pháp hay không, cần xem xét đến nội dung của di chúc chung đó. Khoản 2
Điều 652 BLDS 2005 quy định: “Nội dung của di chúc chung không trái pháp luật, đạo
đức xã hội”. Nội dung của di chúc là tổng hợp các vấn đề mà vợ, chồng thống nhất ý kiến
với nhau về việc định đoạt khối tài sản chung như chỉ định người thừa kế, truất quyền
hưởng di sản của người thừa kế, phân định phần di sản cho tùng người thừa kế ... được
thể hiện trong di chúc chung đó. Vì vậy, một di chúc chung được coi là hợp pháp nếu sự
thể hiện trên không vi phạm những điều pháp luật cấm, không trái với những điều mà
pháp luật quy định.
Ngoài ra, di chúc muốn được coi là hợp pháp nếu nội dung của nó phù hợp với đạo
đức xã hội. Đạo đức xã hội là những trật tự công cộng, những thuần phong mỹ tục đã
được hình thành từ một cơ sở kinh tế nhất định đã và đang được cộng đồng người thừa
nhận và tôn trọng.

* Hình thức của di chúc chung của vợ chồng
8


Bài tập lớn dân sự

BLDS 2005 cung quy định cụ thể quy định về hình thức của di chúc chung của vợ
chồng những dẫn chiếu tới điều 649 BLDS 2005: “Di chúc phải được lập thành văn bản;
nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc miệng. Người thuộc
dân tộc thiểu số có quyền lập di chúc bằng chữ viết hoặc bằng tiếng nói của dân tộc
mình”. Như vậy di chúc có thẻ được lập bằng văn bản hoặc di chúc miệng. Tuy nhiên dù
di chúc được lập theo hình thức nào nó cũng phải tuân theo những quy định của pháp
luật.
- Di chúc chung được lập dưới hình thức văn bản
Hình thức văn bản: là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết có chứng nhận
hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Di chúc băng văn bản
có những loại sau:
- Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng (Điều 655);
- Di chúc bằng văn bản có người làm chứng (Điều 656);
- Di chúc bằng văn bản có có công chứng hoặc chúng thực của cơ quan nhà nước
(Điều 657).
Dù được lập dưới hình thức nào thì di chúc bằng văn bản phải tuân theo những quy
định chung của di chúc bằng văn bản, cụ thể tại khoản 2 điêu 653 quy định: “Di chúc
không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang
phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc”. Người lập
di chúc bằng văn bản có quyền, tùy theo ý muốn của mình và tùy theo hoàn cảnh cụ thể
chọn một trong những hình thức di chúc bằng văn bản nói trên khi lập di chúc bằng văn
bản. Các hình thức di chúc bằng văn bản nói trên đều có giá trị pháp lý như nhau.
- Di chúc miệng
Điều 651 BLDS quy định: “1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe

dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì
có thể di chúc bằng miệng. 2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập
di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ”. Di chúc
miệng chỉ được lập trong trường hợp người để lại di sản bị cái chết đe dọa hoặc bệnh tật
mà không thể lập di chúc bằng văn bản được. Di chúc bằng miệng nếu tuân thủ theo trình
tự, thủ tục lập thì có hiệu lực thi hành trong thời hạn ba tháng kể từ khi lập di chúc. Nếu
9


Bài tập lớn dân sự

trong thời hạn này mà người lập di chúc chết thì di chúc có hiệu lực pháp luật và thi hành.
Nếu sau ba tháng kể từ thời điểm lập di chúc mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn
và sáng suốt thì di chúc miệng đương nhiên sẽ bị hủy bỏ.
* Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ chồng
Điều 664 BLDS quy định: “1. Vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc bất cứ lúc nào. 2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di
chúc chung, thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết, thì người kia
chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Cũng như việc
lập di chúc của một cá nhân, vợ - chồng khi đã thống nhất ý chí lập di chúc chung, thì họ
cũng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào. Một bên vợ
hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng
ý của bên kia. Nếu một người chết trước thì vợ hoặc chồng còn sống chỉ có thể sửa đổi,
bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình trong khối tài sản chung hợp nhất
của vợ chồng. Khi đó di chúc đã có giá trị thực hiện đối với phần tài sản của người vợ
hoặc người chồng chết trước trong khối tài sản chung của vợ chồng. Người còn sống
không thể sửa đổi, bổ sung phần di chúc của người đã chết mà chỉ có thể sửa đổi, bổ sung
di chúc liên quan đến phần tài sản của bản thân người đó.
* Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng
Điều 668 BLDS quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm

người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ chồng cùng chết”. Trường hợp vợ và chồng
cùng lập di chúc để định đoạt tài sản chung thuộc sở hữu chung hợp nhất của họ nhưng
sau đó một người trong số họ chết trước thì chỉ phần di chúc có liên quan đến phần di sản
của người chết trước mới có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di
chúc về thời điểm có hiệu lực của di chúc là thời điểm người sau cùng chết, thì di sản của
vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia vào thời điểm đó. Trên cơ sở đó, mặc
dù vợ chồng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung của vợ chồng, khi người vợ
hoặc người chồng chết trước thì phần di sản liên quan đến tài sản bằng ½ khối tài sản
chung và phần tài sản riêng có hiệu lực thi hành. Còn phần di sản liên quan đến tài sản
rieng của người còn sống và ½ khối tài sản chung của vợ và chồng vẫn thuộc sở hữu của
người vợ hoặc chồng còn sống chưa có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, nếu vợ chồng cùng
10


Bài tập lớn dân sự

nhất trí thỏa thuận trong di chúc chung thời điểm di chúc chung có hiệu lực thi hành là
thời điểm người sau cùng chết, thì thời điểm di chúc có hiệu lực thi hành đối với di sản
của người vợ hoặc chồng đã chết trước.
III. MỘT SƠ HẠN CHẾ BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HIỆN HÀNH VỀ DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
1. Hình thức của di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung của vợ, chồng được lập theo hình thức miệng và hình thức văn bản
theo những thủ tục chặt chẽ giống như di chúc do cá nhân lập. Tuy nhiên, thực tiễn cho
thấy, không phải các hình thức và thủ tục của di chúc chung do vợ, chồng lập:
* Đối với di chúc chung được lập theo hình thức văn bản :
Điều 655 BLDS 2005 quy định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “ Người lập di
chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Theo cách hiểu trên, hai người phải cùng
một lúc viết và ký tên vào bản di chúc đó. Điều này không thể xảy ra trên thực tế. Mặt
khác điều này cũng có nghĩa là hai người phải cùng viết giống nhau về cùng một nội

dung, thành hai đoạn khác nhau trên tờ di chúc, mà như vậy sẽ trở thành di chúc của từng
cá nhân mà không thể “ủy quyền” cho người kia thay mặt để viết toàn bộ di chúc, vì trái
với nguyên tắc di chúc viết tay phải được viết trực tiếp bằng chữ viết tay.
* Đối với hình thức di chúc miệng
Theo quy định của Điều 651 BLDS 2005, hình thức của di chúc chung của vợ chồng
có thể được lập dưới hình thức miệng. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên thì di chúc
chung của vợ chồng không thể lập theo hình thức này vì những lý do sau:
+ Một là, muốn lập di chúc chung vợ, chồng phải có sự bàn bạc và thống nhất ý chí
chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết đe dọa thì điều này
không thể xảy ra, khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, thì di chúc chung không
thể được lập vì không có sự thống nhất ý chí giữa vợ, chồng. Tình trạng này sẽ dẫn đên
việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà không
có sự thống nhất ý chí với người kia.
+ Hai là, Thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng, không cho
phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc mà phải từng người phát biểu. Vậy, sự thể
hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu tùng người trình bày riêng ý
11


Bài tập lớn dân sự

nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá nhân, còn nếu một người đại diện trình bày
ý chí chung và người kia chấp nhận toàn bộ, thì giống như ủy quyền lập di chúc, và như
vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong từng hoàn cảnh đặc
biệt do cái chết đe dọa cả hai, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và
hoàn toàn đồng ý, là không thực tế.
Ba là, sau 3 tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một người còn
sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan tới người còn
sống có giá trị thi hành nữa không?
Bốn là, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, cái chết của hai người, việc tiếp

nhận và ghi nhớ ý nguyện của người chết không đầy đủ sẽ làm sai mong muốn của người
lập di chúc và ảnh hưởng tới quyền lợi của người được hưởng thừa kế. Vì vậy, việc cho
phép vợ chồng lập di chúc chung dưới hình thức miệng là không hợp lý với thực tế.
2. Hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng
Các quy định về hiệu lực di chúc chung của vợ chồng còn gây ra nhiều tranh cãi và
bất đồng giữa các chuyên gia pháp luật về thừa kế. Sở dĩ có sự bất đồng này là do thời
điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế.
Điều 668 BLDS 2005 quy định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời
điểm người sau cùng chết hoặc tại thừa điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp này đã đơn
giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc chung một lần) so
với giải pháp của BLDS 1995. Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ, chồng
phát sinh tại thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác:
* Thứ nhất, phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay người chồng
chết trước sẽ gây khó khăn cho các bên và cả cơ quan tiến hành tố tụng.
Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp bao gồm tài sản riêng và
phần tài sản chung trong khối tài sản chung của vợ, chồng, chưa kể họ còn có nhiều vợ
hoặc nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực vào thời
điểm“ người sau cùng chết” hoặc thời điểm “vợ chồng cùng chết”, thì việc chia thừa kế
sẽ rất phức tạp, sẽ có ít nhất hai lần chia thừa kế: Lần thứ nhất là chia thừa kế đối với
phần di sản là tài sản riêng hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc
12


Bài tập lớn dân sự

chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế. Lần thứ hai, chia thừa kế phần di sản định đoạt
trong di chúc chung của vợ, chồng khi di chúc chung có hiệu lực.
Như vậy, người thừa kế của bên chết trước sẽ phải mất hai lần yêu cầu phân chia di
sản và còn có thể, tòa án sẽ phải hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau
trên di sản của cùng một người. Điều này không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của

người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các
cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế, thậm chí, còn có thể còn vi
phạm nguyên tắc “nhất sự bất tái cứ” trong tố tụng (vụ việc đã xét xử xong rồi thì tòa án
không thụ lý, giải quyết lại), vì phải tiến hành xét xử nhiều lần để phân chia di sản của
người chết.
* Thứ hai, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những
người thừa kế của người vợ hay người chồng chết trước.
Quyền thừa kế đới với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế,
nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người
chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong
di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu
có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi
thọ của những người thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết
trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa
bệnh...), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới
quyền thừa kế hợp pháp của công dân được hiến pháp và pháp luật bảo vệ.
* Thứ ba, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách
của người được thừa hưởng di sản.
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người được chỉ định
trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di chúc chung
có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa
kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc
người chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc
chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau...), thì
họ có được thừa bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay
13


Bài tập lớn dân sự


không; hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung chết trước khi di chúc chung
có hiệu lực, nhưng chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hay người chồng đã quá
cố, thì họ có thuộc thừa kế theo di chúc chung hay không ... là những vấn đề chưa được
quy định trong pháp luật hiện hành, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư cách
người thừa kế và các quy định khác có liên quan.
* Thứ tư, làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết
trước.
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Nếu hết 10 năm đó mà một trong hai người vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia
thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do nào đó
chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo... mà
người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời do di chúc chung chưa được công bố, đến
khi người sau cùng chết mà thời hiệu không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của
người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp của vợ, chồng có được bảo vệ
hay không, cũng chưa được pháp luật quy định rõ. Vấn đề đã được chúng tôi đề cập trong
một bài viết khác về thừa hiệu khởi kiện thừa kế. Theo quy định này thì thời hiệu khởi
kiện về quyền thừa kế đã hết,...
* Thứ năm, tình trạng không phân chia di sản nếu kéo dài quá lâu khiến cho di sản
chung không còn nguyên vẹn nữa.
Do tình trạng không phân chia di sản thừa kế kéo dài quá lâu làm cho tài sản chung
không còn nguyên vẹn do bị tiêu hủy, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ
làm tài sản tăng giá trị thì hậu quả của nó càng hết sức phức tạp, việc xác định giá trị của
tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác
rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung, không đơn giản chỉ
là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung mà còn ảnh hưởng tới thời hiệu khởi
kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những người thừa kế
hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động của nó ... Qua đó, sẽ
làm cho việc thừa kế theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm.

14


Bài tập lớn dân sự

3. Vấn đề thừa kế lẫn nhau giữa vợ, chồng
BLDS 2005 không quy định rõ những trường hợp bị cấm khi lập di chúc chung. Điều
này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như việc hai bên lập di chúc để thừa
kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực hay không. Di chúc vốn là một loại giao dịch pháp
lý đơn phương và không mang tính chất đền bù. Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc
chung để thừa kế lẫn nhau, đã biến loại giao dịch này thành giao dịch pháp lý song
phương và mang tính chất có đền bù, làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Pháp luật
của các chế độ trước tuy có thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, nhưng luôn
cấm vợ, chồng lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau. Điều 572 BLDS Sài Gòn quy định:
“... hai người không thể cùng làm chung một chúc thư... lưỡng tương đắc lợi”. Việc pháp
luật hiện hành không cấm đoán vợ, chồng lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng
những sẽ không đạt được mục đích tăng cường tình yêu thương, đoàn kết trong gia đình,
mà có thể còn gây nhiều hệ lụy không thể lường trước được như: sự thông đồng giữa vợ,
chồng lập di chúc giả tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật, hoặc làm gia tăng nguy
cơ khiến các bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc hoặc thậm chí tạo cơ hội cho các bên
thực hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau.
4. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được quy định rõ tại Điều 669
BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ hoặc chồng,
con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động) có quyền
được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không được hưởng hoặc thực tế
được hưởng ít hơn 2/3 của suất thừa kế theo pháp luật. Tình huống đặt ra là, di chúc
chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà không dành phần di sản cho những người
thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì
những người đã có được chia thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng quy định tại

Điều 669 BLDS để xin được hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào. Không loại
trừ trường hợp người vợ, chồng còn sống, vì lý do nào đó đã khởi kiện đòi hưởng thừa kế
bắt buộc từ phần di sản của người kia trong di chúc chung thì cũng sẽ không có cơ sở
pháp lý.
5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung
15


Bài tập lớn dân sự

Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào
nhưng phải dựa trên nguyên tắc nhất trí của cả hai vợ chồng. Tại Điều 664 BLDS 2005
quy định:
“1. Vợ chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì phải
được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ
sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Điều này thể hiện sự nhất trí cao về ý
chí của cả vợ và chồng. Tuy nhiên, quy định này tạo ra những bất cập sau:
Thứ nhất, khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung
thì phải được sự đồng ý của người còn lại, trong trường hợp người còn lại không đồng ý
thì người đó không có quyền sửa đổi, bổ sung phần nội dung di chúc liên quan đến tài sản
của mình. Quy định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt tài sản thuộc của cá nhân
đối với tài sản thuộc sở hữu của cá nhân đồng thời cũng vi phạm nguyên tắc tự do, tự
nguyện lập di chúc của cá nhân bởi nhiều lý do mà một mà một người cần sửa đổi, bổ
sung di chúc để bảo vệ cho chính quyền lợi của họ và những người thân.
Thứ hai, quy định trên tiếp tục thể hiện sự mâu thuẫn với quy định này: “nếu một
người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến tài sản của
mình”. Trong trường hợp hai vợ chông còn sống, một người muốn sửa đổi, bổ sung, thay
đổi nội dung của di chúc thì bắt buộc phải có sự đồng ý của người còn lại, nhưng đến khi
một người chết trước luật lại cho phép người còn sống có quyền sửa đổi nội dung phần di

chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Điều này đã thể hiện sự không thống nhất nội
dung của điều luật. Vì vậy, nếu đã cho phép một người được phép sửa đổi, bổ sung nội
dung của di chúc chung trong trường hợp một bên chết trước thì BLDS cũng nên cho
phép một bên được quyền sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan đến phần tài sản của
mình trong trường hợp bên còn lại còn sống mà không đồng ý với việc sửa đổi, bổ sung
di chúc chung.
Thứ ba, quy định trên cũng chưa dự liệu đến những trường hợp khác khiến di chúc
phải bị sửa đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ chồng do vợ chồng
đã mâu thuẫn hoặc một bên bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự khiến cho họ không
còn thể hiện được ý chí cá nhân được nữa. Điều này chưa được quy định rõ trong luật,
16


Bài tập lớn dân sự

nên dẫn đến sự lúng túng và thiếu nhất quán trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên
quan đến vấn đề này.
Tóm lại, việc quy định của luật về vấn đề sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
chung thể hiện tính thống nhất ý chí giữa vợ và chồng, tuy nhiên vẫn cần phải tôn trọng
sự tự nguyện của cá nhân khi lập di chúc vì vậy, nên quy định cho phép một bên vợ hoặc
chồng được phép sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc liên quan đến phần tài sản
của người đó trong khối tài sản chung của hai vợ chồng trong trường hợp một bên không
đồng ý sửa đổi trong một số trường hợp cấn thiết thể hiện tính nhất quán của các quy
định pháp luật.
6. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung của vợ, chồng
Di chúc chung có nhiều tính chất khác biệt so với di chúc thông thường. Dù vậy, nhà
làm luật vẫn không dự liệu các căn cứ riêng biệt đương nhiên làm chấm dứt di chúc
chung.
Như đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của quan hệ
vợ, chồng, đó là tình cảm vợ, chồng và quan hệ tài sản chung của vợ, chồng. Nếu hai yếu

tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trong thực tế sẽ phát sinh nhiều
tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi như trường hợp: các cặp vợ
chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân đang tồn tại; một bên mất tích hoặc
bị tòa án tuyên bố chết và người còn lại đã kết hôn với người khác, sau đó người bị tuyên
bố chết còn sống trở về, nhưng không thể tái hợp quan hệ vợ chồng nữa; hoặc sau khi có
di chúc chung, vợ chồng lại định đoạt tài sản chung vào một mục đích khác như tặng cho,
bán; vợ chồng còn sống đã kết hôn với người khác hoặc có những quyết định làm ảnh
hưởng tới hiệu lực hoặc tồn tại của di chúc chung. Đây là những trường hợp chấm dứt
quan hệ vợ, chồng, hoặc chấm đứt tình trạng sở hữu chung đối với tài sản, hoặc trực tiếp
làm chấm dứt di chúc chung. Tuy vây, những tình huống nay không được dự liệu của
pháp luật, nên sẽ dẫn tới sự lung túng trong việc thực thi di chúc chung, vì không ai dám
chắc là di chúc chung có đương nhiên bị mất hiệu lực, trong những tình huống đó hay
không.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUY ĐỊNH DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ, CHỒNG
* Có nên bãi bỏ các quy định pháp luật về di chúc chung của vợ chồng không?
17


Bài tập lớn dân sự

Có thể thấy, pháp luật hiện hành vẫn chưa có giải pháp nào để giải quyết tốt các vấn đề
pháp lý phức tạp được đặt ra đối với việc lập, sửa đổi, hủy bỏ di chúc chung và xác định
hiệu lực thực thi của di chúc chung. Bản chất của di chúc vốn là giao dịch pháp lý đơn
phương của cá nhân. Không thể có sự tham gia ý chí của nhiều cá nhân trong việc lập di
chúc. Nếu thừa nhận di chúc chung, pháp luật có thể đạt được mục đích tốt đẹp là hướng
các bên trong quan hệ thừa kế cần quan tâm hơn việc tăng cường tình thương yêu và đoàn
kết trong gia đình. Nhưng không nên nhầm lẫn việc tăng cường đoàn kết trong gia đình
với việc phải cùng nhau lập di chúc chung. Không kể việc lập di chúc xong rồi lại bất
đồng trong việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung; hay sau khi một bên vợ
hoặc chồng chết trước, nhưng người thừa kế hợp pháp không thể xin phân chia di sản

thừa kế hoặc chia thừa kế bắt buộc... thì có thể còn tạo hiệu ứng ngược. Chính vì thế,
không nên thừa nhận loại hình di chúc chung của vợ chồng và cần quy định rõ hơn trong
luật về việc cấm nhiều người lập di chúc chung, kể cả vợ chồng.
Việc bảo đảm quyền lợi thừa kế của gia đình và của người thân thích không thể trông
đợi vào việc lập di chúc chung, mà đã có các giải pháp khác hữu hiệu hơn như thừa kế
bắt buộc, tước quyền thừa kế, thừa kế thế vị, thừa kế theo các hàng thừa kế...
* Trường hợp không thể bãi bỏ di chúc chung của vợ, chồng thì cần có những thay
đổi toàn diện về vấn đề này trong BLDS 2005
Việc bãi bỏ quy định di chúc chung của vợ, chồng là không khả thi, vì đây là một thực
tiễn pháp lý và tục lệ đã tồn tại từ lâu trong xã hội Việt Nam. Vấn đề cần thiết hiện nay
là, làm sao vẫn duy trì di chúc chung nhưng phải hạn chế tối đa những rắc rối, phức tạp di
chúc chung mang lại. Vì vậy, em xin đưa ra một số ý kiến của bản thân như sau:
- Thứ nhất, cần phải tách vấn đề di chúc chung của vợ chồng ra khỏi di chúc của cá
nhân và thiết kế thành một mục riêng trong chương thừa kế theo di chúc.
Như đã phân tích ở trên, tuy di chúc chung của vợ chồng cũng là một loại di chúc
được lập, sửa đổi, bổ sung và phát sinh hiệu lực gần giống như một di chúc thông thường.
Nhưng di chúc chung còn có những đặc thù: Do hai ý chí cá nhân cùng tham gia định
18


Bài tập lớn dân sự

đoạt dựa trên mối quan hệ hôn nhân đang còn hiệu lực; dùng để định đoạt khối tài sản
chung của vợ chồng; có hiệu lực không đồng thời với thời điểm mở thừa kế của bên chết
trước...
Do đó, di chúc chung của vợ, chồng cần phải được quy định thành một mục riêng chứ
không thể áp dụng chung với di chúc do cá nhân lập ra, BLDS năm 2005 chưa quy định
cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần khắc phục. Bởi vậy, pháp luật nên quy định rõ hơn
cho di chúc chung của vợ chồng, chứ không thể quy định giống như di chúc cá nhân.
- Thứ hai, cần có cách tiếp cận mềm dẻo hơn về vấn đề tời điểm có hiệu lực của di

chúc chung của vợ chồng. Nhà làm luật cần phải dự liệu nhiều khả năng khác nhau có thế
xảy ra khi vợ, chồng lập di chúc chung. Có nghĩa là cần có sự kết hợp mềm dẻo giữa quy
định về di chúc cá nhân, quyền thừa kế của cá nhân với việc lập di chúc chung, hiệu lực
và thực thi di chúc chung có một số đặc thù, sẽ làm cho quy định về di chúc không mâu
thuẫn với các quy định chung về thừa kế, nhưng vẫn đảm bảo được các nội dung cần
thiết.
- Thứ ba, nội dung của di chúc chung cần phải làm rõ các vấn đề sau:
+ Quy định quyền lập di chúc chung của vợ chồng khi hôn nhân đang còn tồn tại, phải
tuân thủ các quy định chung về năng lực lập di chúc, các yêu cầu để di chúc có hiệu lực
cũng tương tự như di chúc cá nhân;
+ Quy định về hình thức bắt buộc mà di chúc chung phải tuân thủ. Chỉ nên lập di chúc
chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng (nếu cả hai đủ điều kiện minh mẫn,
sáng suốt, không thuộc trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể chất liên quan tới
chức năng lập, kiểm tra nội dung di chúc), hoặc văn bản công chứng, chứng thực.
+ Quy định quyền được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của một bên
khi vợ chồng còn sống vẫn phải có sự đồng ý của vợ, chồng. Nhưng nếu một bên cần sửa
đổi mà bên kia nhất quyết không đồng ý hoặc không thể biểu lộ ý chí một cách tự
nguyện, thì người kia có quyền tự lập di chúc cá nhân hoặc có quyền sửa đổi, bổ sung
một phần di chúc chung trong phần tài sản của mình. Điều này làm cho các bên vợ,
chồng luôn phải tìm thấy sự đồng thuận, kể cả trong việc lập hay sửa đổi, bổ sung, thay
thế, hủy bỏ di chúc chung; đồng thời cũng nhằm bảo đảm sự cân bằng giữa quyền lợi cá
nhân với quyền lợi chung của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung. Không ai có thể
19


Bài tập lớn dân sự

bắt buộc người khác phải lập di chúc chung hoặc phải giữ nguyên nội dung của di chúc
lập di chúc chung mà đã lập trước đó, khi không được sự đồng ý của một trong hai bên về
sửa đổi, bổ sung di chúc chung.

+ Cần phải kết hợp giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung với lợi ích
chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Thừa nhận thời điểm phát sinh
hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng là thời điểm bên sau cùng chết, nhưng cũng cho
phép những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước có quyền xin
chia thừa kế đối với phần di sản của vợ, chồng đã định đoạt trong di chúc chung thì cho
phép các bên thừa kế bắt buộc được thừa nhận phần di sản bắt buộc, nếu việc kéo dài tình
trạng không phân chia di sản, theo hiệu lực của di chúc chung, có ảnh hưởng nghiêm
trọng tới quyền lợi hợp pháp của họ; đồng thời cần phải xác định rõ trong luật khoảng
thời gian mà di sản chưa được phân chia thì được trừ vào thời hiệu khởi kiện thừa kế.
+ Luật cần dự liệu các căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ, chồng một
cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các trường hợp tương
ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh cãi không cần thiết, khi
các bên liên quan tiến hành phân chia di sản dựa trên di chúc chung của vợ, chồng.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua việc nghiên cứu về di chúc chung của vợ, chồng ta thấy rằng loại di chúc này là
trường hợp đặc biệt của di chúc cá nhân lập ra nên nó mang những đặc điểm chung của di
chúc do cá nhân lập, đồng thời nó cũng có những đặc điểm riêng do tính chất đặc trưng
của di chúc chung do vợ chồng lập. Di chúc chung của vợ, chồng phải tuân theo các điều
kiện có hiệu lực của di chúc do cá nhân lập như điều kiện về chủ thể, nội dung, hình thức
của di chúc không được trái với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, luật vẫn chưa dự liệu
hết các trường hợp của vấn đề này nên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn trong quá trình áp
dụng. Từ đó cho thấy di chúc chung của vợ, chồng là một vấn đề phức tạp cần phải có sự
kết hợp mềm dẻo giữa các quy định của pháp luật, đòi hỏi pháp luật phải quy định rõ hơn
về vấn đề này.

20


Bài tập lớn dân sự


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2005
2. T.S Lê Đình Nghị (chủ biên), giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, Nxb.Giáo dục
Việt Nam
3. TS. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb.Hà Nội - 2008
4. Luận Văn Thạc sĩ luật học, di chúc chung của vợ chồng trong pháp luật dân sự
Việt Nam, Nguyễn Thị Thanh Tuyền, Hà Nội - 2011.
5. Khóa luận tốt nghiệp, điều kiện có hiệu lực của di chúc theo quy đinh của BLDS
năm 2005, Lương Huyền Trang, Hà Nội - 2012
6. Khóa luận tốt ngiệp, người lập di chúc và quyền của người lập di chúc, Đào Thị
Nhuận, Hà nội – 2012
7. Khóa luận tốt nghiệp, di chúc chung của vợ chồng, Trần Ngọc Thanh, Hà Nội 2011
8. Khóa luận tốt nghiệp, thời điểm có hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng, Phạm
Thị Thêu, Hà Nội – 2012
9. WWW. hcmulaw.vn

21


Bài tập lớn dân sự

MỤC LỤC
Trang
A.ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................ 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ................................................................. 1
I. KHÁI QUÁT VỀ DI CHÚC VÀ VẤN ĐỀ DI CHÚC..........................
1. Khái niệm di chúc........................................................................................
2. Khái niệm di chúc chung của vợ chồng........................................................
3. Sơ lược về vấn đề di chúc chung của vợ, chồng..........................................

II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ DI CHÚC....................
1. Nhận xét chung các quy định ....................................................................
2. Di chúc chung của vợ, chồng ....................................................................

1
1
2
5
6
6
7
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH............. 11
1. Hình thức của di chúc chung của vợ, chồng.............................................
11
2. Hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.................................................
12
3. Vấn đề thừa kế lẫn nhau giữa vợ, chồng...................................................
15
4. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc....................
15
5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung..........................
15
6. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung của vợ, chồng....................
17
IV.MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ QUY ĐỊNH DI CHÚC CHUNG.............. 17
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ.............................................................................. 20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................... 21

22




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×