Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.73 KB, 19 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong xã hội hôm nay, nền kinh tế đang có sự phát triển mạnh mẽ, cùng với đó
là mối quan hệ, giao lưu, hợp tác về mọi mặt của con người cũng ngày càng rộng
mở hơn, các giao dịch ngày càng phong phú và đa dạng, đáp ứng mọi nhu cầu của
con người, đặc biệt là trong lĩnh vực dân sự. Giao dịch dân sự không chỉ được con
người quan tâm trong hoạt động giao lưu, trao đổi hàng ngày mà còn được khoa
học pháp lý đặc biệt chú ý, nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về giao dịch dân
sự luôn chiếm một khối lượng lớn trong các công trình nghiên cứu về luật học, vì
vậy, về cơ bản rất phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về một loại
giao dịch dân sự, đó là giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo hiện nay lại chưa
được chú ý. Có thể đây là một đề tài khó, khó trong cả thực tế xét xử lẫn trong việc
nghiên cứu đúng, đầy đủ và nhân được sự đồng thuận từ số đông. Bởi lẽ còn rất
nhiều ý kiến trái chiều. Vì vậy, em xin chọn đề tài số 5 “Giao dịch dân sự được
xác lập do giả tạo” để làm bài tiểu luận học kỳ của mình, mục đích trước tiên là để
có một cái nhìn khách quan, đầy đủ hơn về loại giao dịch này, sau đó là có thể nhân
được sự góp ý, sửa chữa của các thầy cô giáo trong bộ môn Luật Dân sự Việt Nam.


Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về giao dịch dân sự do giả tạo
và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do giả tạo.
I.Khái quát chung về giao dịch dân sự
1.Khái niệm chung về Giao dịch dân sự
Điều 121 BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự.”
Có thể nói giao dịch dân sự là một loại hình hoạt động của con người (cá nhân,
tổ chức…), thông qua đó, các chủ thể thể hiện được ý chí, sự tự do, tự nguyện, thỏa
thuận trong khuôn khổ pháp luật quy định về các quyền, nghĩa vụ dân sự được phát
sinh, thay đổi, chấm dứt, góp phần làm cho giao lưu dân sự phát triển phong phú,
đa dạng, phù hợp với tiến độ phát triển kinh tế – xã hội.
Giao dịch dân sự được phân thành 3 loại là hợp đồng dân sự, hành vi pháp lý


đơn phương và giao dịch dân sự có điều kiện.
2.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
Điều 122 BLDS 2005 quy định về điều kiện để một giao dịch có hiệu lực gồm
4 điều kiện cần thiết là:
-Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự.
-Mục đích và nội dung của giao dịch không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
-Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
-Hình thức giao dịch phù hợp với quy định của pháp luật.
Như vậy, một trong 4 yếu tố được nhắc đến để một giao dịch dân sự không bị
vô hiệu chính là sự tự nguyện của các bên chủ thể tham gia. Đây chính là cơ sở dẫn
đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo.


II.Khái quát chung về giao dịch dân sự do giả tạo
1.Khái niệm giả tạo
“Giả tạo” theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là không thật, vì được tạo ra
một cách không tự nhiên. Tuy nhiên trong khoa học pháp lý thì khái niệm “giả tạo”
chưa được đề cập đến mà chỉ được nhắc đến với những khái niệm kèm theo như
giao dịch giả tạo, hợp đồng giả tạo. Vì vậy, ta có thể hiểu “giả tạo” theo nghĩa Từ
điển Tiếng Việt giải thích để từ đó có thể hiểu rõ hơn về vấn đề giao dịch dân sự
được xác lập do giả tạo.
2.Khái niệm giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo do giả tạo
Sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định chính là sự thể
hiện ý chí tự nguyện của chủ thể trong giao dịch dân sự.Tuy nhiên không phải sự
tự nguyện nào cũng làm phát sinh hậu quả pháp lý. Có những trường hợp bản thân
chủ thẻ hoàn toàn kiểm soát được sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài, không bị tác
động chi phối bởi bất cứ yếu tố khách quan nào nhưng cũng không được pháp luật
thừa nhận, đó chính là giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo.
Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học viết: “giao dịch dân sự do giả tạo là
giao dịch dân sự được xác lập nhằm che giấu giao dịch có thật khác.Trong giao

dịch dân sự, các chủ thể không có ý định xác lập quyền và nghĩa vụ đối với nhau.”
Đối với giao dịch dân sự do giả tạo ,chủ thể hoàn toàn mong muốn sự thể
hiện ý chí ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định mặc dù ý chí đó không phải là
ý chí đích thực của chủ thể. Nội dung của giao dịch không phải xuất phát từ ý chí
đích thực của các bên.
Pháp luật các nước đều coi giao dịch giao kết do giả tạo là vô hiệu. Bởi mặc dù
trong giao dịch này, các bên tham gia là hoàn toàn tự nguyện nhưng lại cố ý bày tỏ
ý chí không đúng ý chí đích thực của họ, nghĩa là mặc dù có sự tự nguyện nhưng
không thống nhất ý chí bên trong và bên ngoài.


Điều 109 BLDS và thương mại Thái Lan quy định “Một tuyên bố ý định không
thực, được làm với sự đồng lõa của bên kia thì vô hiệu.”
Điều 108 BLDS Nhật Bản cũng quy định: “Việc tuyên bố ý chí giả tạo và tiến
hành với sự câu kết của bên kia là không có ý nghĩa và bị vô hiệu.”
Điều 129 BLDS 2005 nước ta quy định về giao dịch dân sự vô hiệu do giả
tạo như sau
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một
giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
Như vậy hầu hết pháp luật các nước và pháp luật nước ta đều coi giao dịch
dân sự được xác lập bởi sự giả tạo là vô hiệu.
Về bản chất giao dịch dân sự giả tạo là giao dịch dân sự mang tính hình
thức nhằm che giấu một hoạt động khác và nó được thiết lập không dựa trên ý chí
đích thực của các bên. Thông thường nó được thiết lập nhằm trốn tránh nghĩa vụ
đối với người khác hoặc đối với xã hội, cũng có khi để che giấu một hành vi bất
hợp pháp.
Qua những phân tích trên đây có thể đưa ra khái niệm giao dịch giả tạo là

giao dịch dân sự được xác lập không xuất phát từ ý chí đích thực của các bên,
không nhằm mục đích xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp
luật mà nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba.
3 Đặc điểm của giao dịch dân sự do giả tạo
a.Mang đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu
Đó là không đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch theo quy định của
pháp luật, khi giao dịch vô hiệu, các bên phải gánh chịu những hậu quả pháp lý


nhất định, có thể bất lợi về vật chất hay tinh thần, không đạt được mục đích đã xác
định khi xác lập giao dịch, nếu chưa thực hiện giao dịch thì ko đc thực hiện nữa,
nếu đang thực hiện thì phải chấm dứt, nếu đã thực hiện phải trả lại hiện trạng ban
đầu, hoàn trả những gì đã nhận từ nhau.
b.Đặc điểm riêng của giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo
Gồm ba đặc trưng quan trọng nhất có thể phân biệt giao dịch được xác lập do
giả tạo với các loại giao dịch bị vô hiệu khác.
b.1 Không có sự thống nhất giữa ý chí thực sự bên trong và bày tỏ ý chí thực sự
ra bên ngoài
Giao dịch giả tạo đáp ứng mọi yêu cầu về điều kiện có hiệu lực của một giao
dịch dân sự theo Điều 122, tuy nhiên nó bị xác định vô hiệu là do không đảm bảo
được tính tự nguyện về ý chí giữa các bên tham gia, tính tự nguyện ở đây không
đảm bảo không phải do sự cưỡng ép, cưỡng chế mà bởi vì nó không đảm bảo giữa
ý chí thực và sự biểu hiện ý chí ra bên ngoài trong giao dịch, là phạm trù chủ quan
thuộc khả năng xử sự của chủ thể được pháp luật công nhận và cho phép. Pháp luật
nước ta quy định các chủ thể khi tham gia giao dịch phải thể hiện được ý chí đích
thực của mình ra bên ngoài. Mọi thỏa thuận không phản ánh được đúng ý chí của
các bên đều dẫn tới vô hiệu. Tuy nhiên để hạn chế các trường hợp vô hiệu mà gây
ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của các bên thì pháp luật một số nước vẫn thừa nhận
hiệu lực của các giao dịch khi có sự nhầm lẫn đơn phương. GD chỉ vô hiệu trong

trường hợp cả hai bên chủ thể đều biết trước sự sai lệch ý chí đích thực với sự bày
tỏ ý chí ra bên ngoài hoặc buộc các bên phải biết trước mới dẫn đến sự vô hiệu.
Pháp luật quy định giao dịch dân sự giả tạo vô hiệu do xuất phát từ việc các
bên chủ thể khi tham gia giao dịch đã ko có sự thống nhất giữa ý chí đích thực bên
trong và sự biểu hiện bên ngoài, đồng nghĩa với việc không có sự tự nguyện, có
nghĩa sự tự nguyện ở đây không chỉ là sự tự nguyện ở việc xác lập giao dịch mà tự
nguyện trong chính bản thân các chủ thể. Các bên phải biểu hiện ý chí một cách


thoải mái và trung thực mong muốn của mình, yếu tố tự nguyện phải được hiểu
một cách rõ ràng và đúng đắn như vậy mới đảm bảo cho việc xác lập giao dịch
giữa các bên và không vi phạm pháp luật.
b.2 Có sự thông đồng, thống nhất từ trước giữa các bên chủ thể tham gia giao
dịch dân sự giả tạo
Vấn đề cơ bản để xác định một giao dịch dân sự là giả tạo là ý chí giả tạo tồn
tại ở các chủ thể. Ý chí giả tạo đó không phải xuất phát từ một phía, không phải
xuất phát trong khi giao dịch dân sự giả tạo được xác lập mà đã có sự thông đồng
trước trước khi có sự xác lập giao dịch giả tạo giữa các chủ thể. Nếu không có sự
thông đồng trước giữa các bên thì dù có thể bị tuyên vô hiệu nhưng không thể
khẳng định giao dịch đó là giao dịch giả tạo.
Có thể nó yếu tố thông đồng trước giữa các chủ thể là yếu tố đặc trưng để
khẳng định giao dịch dân sự đó là giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo.
b.3 Thường tồn tại song song ít nhất hai giao dịch dân sự, đó là giao dịch dân
sự giả tạo và giao dịch dân sự đích thực
Giao dịch dân sự xác lập do giả tạo còn một điểm nổi bật để phân biệt với các
giao dịch khác là các giao dịch bình thường chỉ là giao kết dưới một dạng hợp
đồng, các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng này nhưng giao dịch dân sự do
giả tạo thì khác. Các bên xác lập giao dịch không nhằm mục đích phát sinh quyền
và nghĩa vụ của giao dịch này mà nhằm che giấu một giao dịch khác,có nghĩa rằng
giao dịch dân sự bình thường thì chỉ có một giao dịch tồn tại còn giao dịch dân sự

dược xác lập do giả tạo có tới ít nhất hai giao dịch tồn tại, giao dịch giả tạo thể hiện
ra bên ngoài nhưng lại ko có giá trị trên thực tế, giao dịch ẩn giấu bên trong mới là
giao dịch thực,phát sinh quyền và nghĩa vụ, giao dịch giả tạo chỉ mang tính hình
thức còn giao dịch ẩn giấu mới mang tính nội dung thực sự của giao dịch, chỉ có
giao dịch giả tạo mới bị vô hiệu hoàn toàn còn giao dịch ẩn giấu kia vẫn có thể có


hiệu lực nếu đảm bảo đầy đủ những điều kiện để một giao dịch có hiệu lực theo
quy định của pháp luật.
Pháp luật quy định “mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Xuất phát từ mục đích của giao
dịch giả tạo, có thể các bên tham gia nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba
hoặc vi phạm ý chí của nhà nước, vì lẽ đó bị vô hiệu là đương nhiên mà không cần
có sự yêu cầu của chủ thể có quyền lợi liên quan, hơn nữa thời hiệu vô hiệu là vĩnh
viễn,không có giới hạn thời gian.

4. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
a.Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một giao dịch
khác
Theo quy định trên, ít nhất có hai giao dịch song song tồn tại đó là giao dịch
đích thực bên trong và giao dịch giả tạo( che giấu, biểu hiện ra bên ngoài bằng hợp
đồng)
Có thể nói trường hợp này rất phổ biến trong xã hội.
Ví dụ: Ông A muốn tặng cho con gái út của mình một ngôi nhà nhưng vì lý do
tế nhị sợ các con khác biết được có thể gây mâu thuẫn trong gia đình nên ông A và
con gái đã ký kết hợp đồng mua bán nhà với nhau.
Ở đây có hai giao dịch song song tồn tại là giao dịch mua bán nhà giữa ông A
và con gái, tuy nhiên đó chỉ là giao dịch giả tạo, còn giao dịch thứ hai chính là
hợp đồng tặng cho giữa ông A và con gái, đây mới chính là giao dịch thể hiện ý
chí đích thực của hai bên.

Khi xác lập giao dịch nhằm che giấu một giao dịch khác, các bên chủ thể đều
tự nguyện bày tỏ và thống nhất với nhau về ý chí, nhưng không có sự thống nhất
giữa ý chí bên trong và bên ngoài, các bên xác lập giao dịch nhưng trên thực tế ko


làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên, (có thể chỉ vì mục đích riêng hoặc
vi phạm pháp luật).
PL quy định giao dịch dân sự giả tạo trên nhằm che giấu một giao dịch khác
luôn luôn vô hiệu còn giao dịch đích thực vẫn có hiệu lực pháp luật trừ trường hợp
vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định
của pháp luật.
b. Giao dịch dân sự được xác lập với mục đích trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba
Trường hợp này giao dịch dân sự được xác lập có sự tự nguyện khi thể hiện ý
chí tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với một
chủ thể khác, thông thường được chia ra hai trường hợp
-Bản thân chủ thể tham gia giao dịch đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do
đó để trốn tránh nghĩa vụ này chủ thể đã xác lập một giao dịch giả tạo.
Ví dụ: Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trong một hợp đồng vay tài sản, ông S đã ký
hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân của mình là chị X nhằm tránh trường
hợp ngôi nhà có thể bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ trả nợ của ông S.
-Khi tham gia giao dịch, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ nhất định
với nhà nước, nhưng chủ thể đã xác lập giao dịch với sự giả tạo.
Ví dụ: Ông H chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con gái mình là chị K
nhưng để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất theo quy định
của nhà nước thì hai người đã ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Trên
thực tế tình trạng xác lập giao dịch giả tạo để trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế là vô
cùng phố biến, các chủ thể hoặc ký tặng hợp đồng tặng cho thay cho hợp đồng
mua bán hoặc hợp đồng mua bán nhưng giá cả thể hiện trong hợp đồng lại thấp
hơn rất nhiều so với giá thực tế.

Mục đích cuối cùng của giao dịch giả tạo này là để một bên không phải thực
hiện nghĩa vụ với người thứ ba hoặc với nhà nước mặc dù thực tế họ ý thức được


phải thực hiện nghĩa vụ đó. Do đó đã vi phạm quy định của pháp luật về nghĩa vụ
dân sự.
Để bảo vệ lợi ích của nhà nước cũng như lợi ích của người thứ ba nên pháp luật
đã có quy định nghiêm khắc đối với trường hợp giao dịch giả tạo này, đó là vô hiệu
vĩnh viễn mà ko cần phán quyết của tòa án, không như các loại giao dịch vô hiệu
khác.
-Thứ 3 là giao dịch tưởng tượng: BLDS 2005 chỉ đề cập đến giao dịch dân sự
được xác lập bởi sự giả tạo tức là ít nhất cũng có một giao dịch ẩn đằng sau nhưng
trên thực tế cũng có trường hợp một giao dịch dân sự được thể hiện ra bên ngoài
nhưng hoàn toàn không có thực và cũng không nhằm che giấu một giao dịch nào
cả, đó là giao dịch xác lập bởi sự tưởng tượng. tuy nhiên có lẽ loại giao dịch này
không có ảnh hưởng đến các quyền của người khác nên pháp luật chưa có quy
định.
III.Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do giả tạo
Hậu quả pháp lý thường được hiểu là kết quả không hay, bất lợi sau một hành
vi không đúng hoặc sai trái nào đó. Trong khoa học pháp lý thì chỉ những hành vi,
sự kiện gây ra hậu quả bất lợi cho các tổ chức, cá nhân khác, xã hội thì chủ thể mới
phải chịu hậu quả pháp lý. Trong lĩnh vực dân sự thì hậu quả pháp lý xuất phát từ
hành vi của chủ thể,khi một chủ thể tham gia vào một giao dịch dân sự mà dẫn tới
vi phạm quyền và nghĩa vụ của chủ thể khác hoặc khi giao dịch vô hiệu do ko tuân
thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Thường khi giao dịch dân sự bị
tuyên vô hiệu thì hậu quả của nó thường là sự bất lợi về vật chất hoặc tài sản, nằm
ngoài ý chí và mong muốn của chủ thể.
Về nguyên tắc thì hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu nói chung và
do giả tạo nói riêng thì hậu quả là không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự với
các bên kể từ thời điểm xác lập. Như vậy các nhà làm luật khẳng định tính nhất



quán trong việc xử lý một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu và cũng để phòng ngừa
trường hợp các bên chuẩn bị xác lập giao dịch.
Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì không phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên, các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, khôi phục lại tình trạng ban
đầu trước thời điểm xác lập giao dịch. Tuy nhiên, trên thực tế đa số các giao dịch bị
tuyên vô hiệu khi đã thực hiện được một phần hoặc toàn bộ giao dịch nên việc khôi
phục lại hiện trạng ban đầu là rất khó khăn không như các nhà làm luật dự liệu và
quy định.
Tóm lại hậu quả của một giao dịch dân sự được xác lập dogiả tạo là vô hiệu và
sẽ bị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định áp dụng chế tài mà không
phụ thuộc vào ý chí và mong muốn của chủ thể tham gia giao dịch.
Riêng đối với giao dịch được xác lập do giả tạo thì hậu quả pháp lý còn một
trường hợp đặc biệt nữa đó là trường hợp giả tạo nhằm che giấu một giao dịch
khác. Trong trường hợp này giao dịch giả tạo đương nhiên vô hiệu và hậu quả pháp
lý xảy ra tương tự như các giao dịch vô hiệu khác. Nhưng bên trong giao dịch này
còn một giao dịch khác, giao dịch này mới là giao dịch đích thực giữa các bên,nếu
giao dịch này đam bảo thì vẫn có hiệu lực pháp luật. Đây cũng là sự linh hoạt của
các nhà làm luật.

Chương 2 Một số vấn đề về thực trạng pháp luật. thực tiễn áp
dụng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về giao dịch dân sự
được xác lập do giả tạo
I.Thực trạng pháp luật về giao dịch dân sự do giả tạo


Dẫn chiếu các quy định của pháp luật trong BLDS 2005 về giao dịch dân sự
nói chung và giao dịch dân sự do giả tạo nói riêng cho thấy các quy định hiện nay
đã cơ bản đáp ứng được việc dự liệu các trường hợp trên thực tế và là cơ sở quan

trọng cho việc áp dụng pháp luật giải quyết các tranh chấp phát sinh trong giao
dịch dân sự. Tuy nhiên cùng với sự phát triển, diễn biến phức tạp của quan hệ dân
sự đòi hỏi pháp luật phải được sửa đổi bổ sung để phù hợp với các yêu cầu mới.
Để tìm hiểu rõ hơn những bất cập của pháp luật hiện hành thì cần phải đi cụ thể
vào từng bất cập của pháp luật.
1.Khái niệm giao dịch dân sự do giả tạo
Điều 121 BLDS 2005: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý
đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Điều 129 BLDS 2005:
“Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một
giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
Như vậy pháp luật hiện hành chưa có một khái niệm rõ ràng, cụ thể về giao
dịch dân sự, giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, Điều 121, 129 chỉ dừng lại ở
việc liệt kê các hình thức của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự được xác lập do
giả tạo chứ chưa đưa ra một khái niệm pháp lý cụ thể. Điều này có thể gây ra một
số khó khăn cho các cá nhân cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiếp
cận. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng đôi khi có những chế định không cần
khái niệm cụ thể nhưng nếu có thể bổ sung sẽ tạo nên sự hoàn chỉnh, hoàn thiện
của pháp luật.


2.Về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba
Hiện nay rõ ràng việc xác lập giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba rất phức tạp và tinh vi nhưng trên thực tế, pháp luật mới chỉ quy định chung
chung ở vài điều luật trong BLDS mà chưa đưa ra các văn bản hướng dẫn cụ thể,
dẫn đến việc quy định về vấn đề này còn mở, còn lỏng lẻo.

Hơn nữa, việc tranh cãi về vấn đề giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với người thứ ba chưa được giải quyết thỏa đáng.Theo đó trong trường hợp này thì
yếu tố giả tạo và yếu tố trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba là hai vế, hai hành
động. Có ý kiến cho rằng hai yếu tố này nhất thiết phải đi kèm với nhau mới tạo ra
giao dịch dân sự giả tạo. Tức là nói cách khác, nếu yếu tố trốn tránh nghĩa vụ mới
chỉ dừng lại ở sự suy đoán là không có cơ sở thực tế thì không thể kết luận giao
dịch dân sự đó là giả tạo. Nhưng lại có ý kiến cho rằng chỉ cần có yếu tố giả tạo
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba mà không cần yếu tố đó phải xảy ra trên
thực tế là có thể quy kết giao dịch dân sự đó là giả tạo. Chính những quan điểm
không thống nhất, lại không được pháp luật điều chỉnh một cách rõ ràng đã tạo nên
nhiều bản án giống nhau nhưng lại có những phán quyết khác nhau của tòa án.
Điều này gây ra bất cập về sự thiếu thống nhất trong kết quả tranh chấp.
3.Về chế tài áp dụng với những giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo
Chế tài áp dụng với những giao dịch dân sự xác lập do giả tạo còn chưa đủ
tính răn đe nghiêm khắc, mới chỉ dừng lại ở việc tuyên bố là vô hiệu, buộc dừng lại
và khôi phục hiện trạng ban đầu. Trong khi đó sự trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba, đặc biệt là với Nhà nước của nhiều cá nhân, tổ chức ngày càng tinh vi, phức
tạp. Việc này khiến mục đích ngăn ngừa vi phạm không đạt được hiệu quả cao.


II. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì trường ở Việt Nam hiện nay là
các hợp đồng, các giao dịch dân sự ngày càng phong phú hơn, kéo theo đó là sự
phức tạp, bất cập, đó là các giao dịch ngày càng có nhiều tranh chấp, các cá nhân,
tổ chức ngày càng tinh vi lợi dụng để lách luật, vi phạm pháp luật, một trong số đó
là việc xác lập các giao dịch giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác hoặc trốn
tránh trách nhiệm với người thứ ba hoặc với nhà nước.
Tuy nhiên, rất nhiều giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo không bị phát
hiện, nó chỉ bị phát hiện và đưa ra tòa án giải quyết khi có sự khởi kiện của người
thứ ba có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bởi thế mà số vụ án về giao dịch dân sự

do giả tạo chiếm số lượng không lớn khi giải quyết tranh chấp tại tòa mặc dù trên
thực tế con số đó lớn hơn rất nhiều lần,bởi lẽ các chủ thể khi thống nhất xác lập
giao dịch giả tạo đều đã biết trước, ý thức trước được những lợi ích cho mình nên
sẵn sàng vi phạm pháp luật.
Tuy số lượng án ít nhưng đa phần lại rất phức tạp và rất lâu mới đạt được kết
quả cuối cùng mà mọi cá nhân có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan công nhận. Bởi
lẽ đa phần những giao dịch đó có giá trị tài sản tham gia vào giao dịch là rất lớn
như đất đai, nhà cửa,… hơn nữa trình độ của thẩm phán còn hạn chế hoặc chưa có
sự thống nhất trong luật gây khó khăn cho thẩm phán. Bên cạnh đó là sự che giấu
của các bên tham gia chủ thể cố tình giấu giếm vì mục đích nào đó, gây khó khăn
cho việc giải quyết.
Để làm rõ hơn thực trạng đó em xin đưa ra một số vụ án cụ thể, có thật trên
thực tế
1.Vụ án thứ nhất
Vụ án tranh chấp mua bán nhà giữa bà Lã Thị Yết và bà Hoàng Thị Nghễ tại
tỉnh Bình Định.


Ngày 3/10/1989, bà Nghễ bán nhà cho bà Yết căn nhà khu An Dương, thị
trấn Ngô Mây, Bình Định với giá 4 chỉ vàng. Bà Yết đã nhận nhà đất để sử dụng,
bà Nghễ đã nhận được 4 chỉ vàng. Vì căn nhà trên nằm trên diện giải tỏa nên cùng
ngày 3/10/1989 bà Yết và bà Nghễ ký giấy có nội dung bà Nghễ gửi bà Yết nhà
(căn nhà đã bán cho bà Yết), mục đích của việc viết giấy gửi nhà là để bảo vệ
quyền lợi cho bà Yết, nếu nhà được giải tỏa thì bà Yết được nhận tiền đền bù.
Việc bà Yết và bà Nghễ viết giấy gửi giữ nhà là giao dịch dân sự giả tạo,
không có giá trị pháp lý, giao dịch đó nhằm che giấu giao dịch thực là giao dịch
mua bán nhà giữa bà Yết và bà Nghễ trước các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
vì nhà - đối tượng của giao dịch mua bán cụ thể này nằm trong diện giải tỏa.
Khi giải quyết vụ án này, tòa án các cấp đã tuyên bố giao dịch gửi giữ nhà
giữa bà Yết và bà Nghễ là vô hiệu và xác định giao dịch thực tế là việc mua bán

nhà giữa hai bên. Việc áp dụng hậu quả pháp lý đối với giao dịch giả tạo trong
trường hợp này là có cơ sở pháp lý. Ngoài việc thực thi nghiêm minh quy định của
pháp luật thì việc xét xử còn có ý nghĩa giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của
công dân.
2.Vụ án thứ hai
Bà D. kiện bà L. ra tòa để tranh chấp tiền đặt cọc mua bán nhà. Bà D. cho rằng
vào tháng 5-2005, bà L. bán cho bà căn nhà ở quận Gò Vấp. Bà D. đã đặt cọc gần
400 triệu đồng.
Sau khi giao tiền cọc, bà D. phát hiện bà L. đã bán căn nhà này cho người khác.
Do đó, bà D. kiện yêu cầu bà L. phải trả lại gần 400 triệu đồng tiền đặt cọc.
Bà L. bảo do bà vay tiền của người khác nhưng không trả được nên trước đó bà
đã làm hợp đồng bán căn nhà của mình cho chủ nợ. Hợp đồng mua bán nhà này đã
được công chứng vào tháng 11-2005. Sau đó, bà D. đồng ý đứng ra tranh chấp nhà
để bà L. không bị mất nhà. Vì thế tháng 12-2005, bà và bà D. làm một bản hợp


đồng mua bán nhà nhưng ghi lùi ngày vào tháng 5-2005 để thể hiện bà L. đã bán
nhà cho bà D. trước khi bán cho chủ nợ.
Xử sơ thẩm vụ án vào tháng 5-2007, TAND quận Gò Vấp tuyên bố hợp đồng
đặt cọc giữa bà D. và bà L. vô hiệu. Cấp sơ thẩm bác yêu cầu của bà D. đòi bà L.
trả gần 400 triệu đồng tiền cọc.
Tháng 8-2007, TAND TP.HCM xử phúc thẩm vụ án và cũng giải quyết theo
hướng tương tự như cấp sơ thẩm. Cấp phúc thẩm cho rằng bà D. xuất trình tại tòa
bản chính hợp đồng đặt cọc ghi lập vào tháng 5-2005. Tuy nhiên, phần trên của
hợp đồng này bị cắt mất. Bà L. xuất trình cho tòa bản phôtô hợp đồng đặt cọc thì
phần trên (phần mà bản chính bị cắt bỏ) có dòng chữ cho thấy hợp đồng này được
fax đi từ một văn phòng luật sư vào tháng 12-2005.
Văn phòng luật sư nơi làm hợp đồng đặt cọc cho bà D. lại khai có làm một bản
hợp đồng đặt cọc và fax ngay cho bà D. vào tháng 12-2005, chứ không phải vào
tháng 5-2005. Bà D. cũng không lý giải được tại sao hợp đồng đặt cọc bà nói do

hai bên tự làm nhưng sao lại có dòng chữ fax đi từ văn phòng luật sư. Do đó hợp
đồng đặt cọc này là giả tạo.
Qua hai vụ án trên có thể kết luận quy định của pháp luật còn nhiều kẽ hở,
chưa rõ ràng, các thẩm phán đôi khi còn lúng túng trong giải quyết nên giải quyết
nhiều khi còn gây nhiều tranh cãi, cùng một vụ án tương tự nhưng lại có rất nhiều
quan điểm ,cách giải quyết khác nhau.
III. Phương hướng hoàn thiện
Thứ nhất, cần sửa đổi bổ sung một số điều luật để các điều luật cụ thể, rõ ràng,
chặt chẽ hơn. Nên đưa vấn đề giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo này xem
xét, hướng dẫn trong một văn bản cụ thể thay vì đặt trong khuôn khổ có hạn của
một điều luật như hiện nay, sự cụ thể rõ ràng sẽ đem đến sự chặt chẽ của quy phạm
pháp luật. Bởi lẽ giao dịch dân sự do giả tạo đang là một vấn đề tranh cãi của nhiều
nhà nghiên cứu pháp luật. Sự tranh cãi đó chưa kết thúc thì một cái nhìn thống nhất


về giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo không thể được đặt ra. Vì vậy, cần các
nhà làm luật trực tiếp đưa ra ý kiến pháp lý bằng một văn bản quy định, hướng dẫn
cụ thể.
Thứ hai cần có các biện pháp chế tài kiên quyết, nghiêm khắc hơn đối với
trường hợp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba, đặc biệt chủ thể đó nếu là
nhà nước bởi thực tế việc xác lập giao dịch dân sự giả tạo để trốn thuế đang rất phổ
biến mà phức tạp, nhiều cá nhân, cơ quan tổ chức cố tình xác lập các giao dịch giả
tạo để che giấu giao dịch thực sự nhằm mục đích lợi nhuận bất chính, ảnh hưởng
đến nguồn thuế của đất nước cũng như tạo ra các tiền lệ xấu, khiến các cơ quan
chức năng còn đau đầu trong việc phát hiện, giả quyết các vụ việc này. Chỉ khi có
chế tài nghiêm khắc mới tạo được tính răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm
pháp luật, cố tình xác lập giao dịch dân sự giả tạo vì mục đích riêng.
Thứ ba, điều luật có thể thiếu linh hoạt, còn cứng nhắc mà thực tế lại phong
phú, phức tạp nên chưa thể đáp ứng là đương nhiên, bởi việc sửa đổi, bổ sung luật
rất phức tập ,qua nhiều quy trình, thủ tục, tốn kém thời gian và tiền bạc. Vì vậy cần

phải có phương hương nâng cao hoạt động xét xử án về giao dịch dân sự được xác
lập do giả tạo, nâng cao trình độ và tư cách thẩm phán để các vụ án được xét xử
đúng người đúng tội, hợp tình, hợp lý. Đây là biện pháp có ý nghĩa lâu dài.


KẾT LUẬN
Giao dịch dân sự vẫn tiếp tục phát triển và đóng vai trò quan trong trong xã
hội hôm nay. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về giao dịch dân sự là điều cần thiết,
trong có có sự hoàn thiện về giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo, bởi đây vẫn
là vấn đề được tranh cãi nhiều trong nghiên cứu cũng như trên bàn xét xử. Bài tiểu
luận trên của em cũng mong muốn được đưa ra một vài quan điểm cá nhân về vấn
đề khá phức tạp này. Vì vậy, không tránh khỏi những chủ quan, sơ suất, thậm chí là
sai lầm trong nhận thức và đánh giá. Em rất mong được các thầy cô giáo sửa chữa,
bổ sung để bài luận được hoàn thiện hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 1, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân.
2. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập 1, chủ biên TS Lê Đình Nghị, NXB
giáo dục Việt Nam.
3. 3. Luận án Thạc sĩ “Giao dịch dân sự do giả tạo”, Vũ Thị Thanh Nga, năm
2011.
4. Luận án tiến sĩ “Giao dịch dân sự vô hiệu”, năm 2005.
5. Thongtinphapluatdansu.com


MỤC LỤC

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về giao dịch dân sự do giả tạo và hậu quả pháp lý của giao dịch

dân sự do giả tạo.........................................................................................................................................2
I.Khái quát chung về giao dịch dân sự..........................................................................................................2
1.Khái niệm chung về Giao dịch dân sự.......................................................................................................2
II.Khái quát chung về giao dịch dân sự do giả tạo........................................................................................3
1.Khái niệm giả tạo......................................................................................................................................3
2.Khái niệm giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo do giả tạo................................................................3
3 Đặc điểm của giao dịch dân sự do giả tạo.................................................................................................4
4. Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo................................................................................7
III.Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do giả tạo.....................................................................................9
2.Về giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba..............................12
3.Về chế tài áp dụng với những giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo ................................................12
II. Thực tiễn áp dụng pháp luật về giao dịch dân sự được xác lập do giả tạo .............................................13
1.Vụ án thứ nhất........................................................................................................................................13
2.Vụ án thứ hai .........................................................................................................................................14
III. Phương hướng hoàn thiện....................................................................................................................15
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................................18



×