Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.94 KB, 11 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
Tòa án nhân dân là một trong bốn hệ thống các cơ quan nhà nước hợp thành
trong tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và để thực
hiện chức năng xét xử của nhà nước. Là cơ quan trong hệ thống tư pháp, Tòa án có
những đặc thù so với các cơ quan khác trong hệ thống này, là người đại diện của quyền
lực tư pháp, khác với cơ quan lập pháp và hành pháp ở chỗ không giải quyết các vấn
đề ở tầm vĩ mô, không hoạch định chính sách kinh tế - xã hội mà có chức năng giải
quyết các vấn đề rất cụ thể, từng tình huống, từng sự kiện cụ thể trong đời sống xã hội.
Vì vậy, cách thức tổ chức và hoạt động của tòa án cần dựa trên những nguyên tắc cụ
thể, đặc biệt là trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khi vị trí và vai trò của
toà án lại càng được khẳng định. Vì toà án chính là cơ quan thực thi quyền tư pháp
trong bộ máy nhà nước và việc thực thi quyền này lại ảnh hưởng trực tiếp tới mục tiêu
và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
II. CÁC NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1. Nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán và bầu hội thẩm nhân dân.
Hiện nay, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi bổ sung năm
2001 và Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 thì Chánh án tòa án nhân dân tối cao
do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước; Phó chánh án
và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án
quân sự trung ương do Chủ tịch nước bầu nhiêm, miễn nhiệm, cách chức; Thẩm phán
của các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, Tòa
án quân sự khu vực do Chánh án tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức theo đề nghị của các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán; Chánh án, Phó Chánh án
các Tòa án nhân dân địa phương do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm; Chánh án, phó chánh án tòa án quân sự quân khu và tương đương, tòa án quân
sự khu vực do Chánh án, Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Hiến pháp 1992 ra đời đã thay thế
chế độ bầu thẩm phán ở các tòa án địa phương bằng chế độ bổ nhiệm, từ đó tạo điều


kiện tốt hơn cho tòa án xét xử độc lập, khách quan và đề cao phẩm chất nghề nghiệp


của thẩm phán. Việc thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán ở tất cả các cấp tòa án là sự
đổi mới trong tổ chức của tòa án nhân dân, nó giúp cho Nhà nước chọn được những
người đủ điều kiện để thực hiện chức năng xét xử của tòa án. Ở nước ta, Thẩm phán do
Chủ tịch bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức, có nhiệm kì 5 năm theo Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1992.
Đối với hội thẩm nhân dân được thực hiện theo chế độ bầu hoặc cử. Hội thẩm tòa
án nhân dân địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của úy
ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp và do hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi
nhiệm theo đề nghị của chánh án tòa án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với ủy
ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp. Theo quy định tại Điều 41, Luật tổ chức Toà án nhân
dân năm 2002 thì Hội thẩm nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo
nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân. Nhiệm kì của hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân địa
phương là 5 năm. Có ý kiến cho rằng, nên quy định Hội đồng nhân dân cấp huyện bầu
ra Hội thẩm nhân dân toà án sơ thẩm khu vực nhưng tỷ lệ Hội thẩm nhân dân ở mỗi
huyện trong khu vực của toà án sơ thẩm sẽ được phân bổ theo số lượng cụ thể tuỳ theo
đặc điểm dân cư, địa lý ở mỗi huyện.
Còn hội thẩm quân nhân tòa án quân sự quân khu và tương đương do Chủ nhiệm
Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan
chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, Tổng cục hoặc cấp tương đương. Hội thẩm
quân nhân tòa án quân sự khu vực do chủ nhiệm chính trị quân khu, quân đoàn, quân
chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính trị sư
đoàn hoặc cấp tương đương.
2. Nguyên tắc khi xét xử có hội thẩm nhân dân (hội thẩm quân nhân) tham gia, hội
thẩm ngang quyền với thẩm phán.
Nguyên tắc này được quy định ở điều 4 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992
và điều 129 Hiến pháp năm 1992: “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm
nhân dân, của Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của


pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Việc xét xử của Toà án

nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia còn được quy định trong Luật tổ chức toà án
nhân dân năm 2002. Điều này thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì hội đồng nhân dân đều
là những người lao động sống và làm việc gần gũi với nhân dân, họ thay mặt nhân dân
để tham gia vào hoạt động xét xử của tòa án, từ đó đảm bảo cho tòa án hoạt động đúng
đắn với đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, phù hợp với nhu cầu và nguyện
vọng của nhân dân và thực tế đời sống xã hội. Nhân dân không chỉ giám sát mà còn
trực tiếp tham gia vào các hoạt động của toà án, đó cũng chính là quyền tham gia quản
lí nhà nước với nhiều hình thức khác nhau của công dân. Vì vậy trong quá trình xét xử,
các thành viên trong hội đồng xét xử đều có quyền đưa ra thảo luận tất cả các vấn đề
quan trọng cần giải quyết tại phiên tòa, có quyền xét hỏi, nghị án, định tội, lượng hình,
quyết định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự. Mọi quyết định của tòa án đều là
những ý kiến đã được thảo luận và biểu quyết theo đa số.
Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, tức là khi xét xử bất
kỳ vụ án nào, về hình sự, dân sự, kinh tế,…thuộc thẩm quyền của tòa án mà có Hội
thẩm tham gia thì Hội thẩm và Thẩm phán có quyền như nhau trong việc giải quyết tất
cả các vấn đề của vụ án, như: quyền kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, quyền biểu quyết
khi ra các bản án, quyết định của Tòa án…, không phân biệt là vấn đề về mặt tố tụng
hay nội dung. Tuy nhiên, trên thực tế việc tham gia của Hội thẩm vào hoạt động xét xử
của Tòa án còn có một số hạn chế đặc biệt là về trình độ chuyên môn hay vai trò của
Hội thẩm trong quá trình nghị án…
3. Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập, chỉ tuân theo pháp
luật.
Đây là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động xét xử của toà án nhân dân ở Việt
Nam và cũng là một trong số các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng hình sự được
quy định tại Điều 17 – Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 5 – Luật tổ chức tòa án nhân
dân 2002. Nguyên tắc này có nghĩa là trong khi xét xử, tòa án có trách nhiệm áp dụng


đúng đắn pháp luật, chỉ căn cứ vào pháp luật để xét xử; các cá nhân các cơ quan nhà

nước khác đều không có quyền can thiệp vào công tác xét xử của tòa án, điều này
không có nghĩa là tòa án biệt lập với các cơ quan khác của nhà nước, mà vẫn phải phối
hợp, cộng tác chặt chẽ với các cơ quan khác để xét xử tốt, đúng pháp luật, phục vụ tốt
lợi ích của nhà nước và của nhân dân. Nguyên tắc này đã được quy định từ Hiến pháp
1946 đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và trong cả các Luật tổ chức
tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992. Điều 130 Hiến pháp năm 1992 đã quy định:
“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”.
nguyên tắc này còn được ghi nhận trong các bộ luật, đạo luật khác của Việt Nam, là
điều kiện để đảm bảo cho toà án ra những quyết định, bản án đúng pháp luật, công
minh. Được bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nó bảo đảm cho tòa án
nhân dân xét xử khách quan, đúng pháp luật để bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, nguyên tắc này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất là khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân hoàn toàn độc lập với
nhau, độc lập với kết luận của viện kiểm sát; thẩm phán và hội thẩm nhân dân phải
chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề của vụ án. Không một tổ
chức, cơ quan, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của
thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Khi xét xử tất cả các vụ án ở tất cả trình tự tố tụng,
thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ căn cứ vào chứng cứ và các quy phạm pháp luật
cần áp dụng để giải quyết các vụ việc và ra các bản án, quyết định cụ thể, không phụ
thuộc vào bất cứ sự can thiệp của bất cứ ai.
Thứ hai là: khi xét xử, các thành viên trong hội đồng xét xử cũng không bị ràng
buộc với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau mà hoạt động độc lập trong việc xác định chứng
cứ, lựa chọn các quy phạm pháp luật cần được áp dụng để định tội và lượng hình đối
với các vụ án hình sự, quyết định quyền và nghĩa vụ của đương sự trong các vụ án
khác.
Và thứ ba, đối với một bản án có thể phải xét xử nhiều lần theo các thủ tục sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Đối với các bản án xét xử sơ thẩm thì không


phải xin ý kiến chỉ đạo của tòa án cấp trên. Ngược lại khi xét xử phúc thẩm, giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm không lệ thuộc vào chứng cứ, kết luận và quyết định của tòa án đã
xét xử sơ thẩm mà phải tự mình xác định chứng cứ, quy phạm pháp luật cần được áp
dụng để có quyết định cụ thể.
Để tuân thủ nguyên tắc này, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân luôn luôn phải đề
cao ý thức cá nhân và tinh thần tự giác với tư cách là người nhân danh cho nhà nước,
kiên quyết bảo vệ pháp luật để thực hiện chức năng xét xử nhằm bảo vệ lợi ích của nhà
nước, tập thể và công dân
4. Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Trước đây tại Sắc lệnh số 13 ngày 14/1/1946 của Chủ tịch nước về cách tổ chức
các Tòa án và các ngạch Thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã từng
quy định: “Những vấn đề bàn trong phòng nghị xử giải quyết theo đa số. Một người
không biểu quyết sẽ coi như là có ý kiến lợi cho bị can” (Mục C – điều thứ 32). Như
vậy nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số đã được ghi nhận từ
những văn bản pháp lý thời kì khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Và giờ
đã được quy định tại điều 131 Hiến pháp năm 1992 cụ thể hóa tại Điều 6 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân 2002.
Xét xử là hoạt động đặc thù do tòa án nhân dân thực hiện nhằm hoàn thành các
chức năng của mình. Khi xét xử tất cả các vụ án, ở tất cả các trình tự tố tụng đều phải
thành lập hội đồng xét xử. Toà án xét xử tập thể có nghĩa là việc xét xử bất cứ một vụ
án nào, theo trình tự nào cũng do một Hội đồng thực hiện. Các văn bản pháp luật về tố
tụng đã quy định cụ thể thành phần của Hội đồng xét xử ở từng cấp xét xử:
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trong
trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hội đồng xét xử gồm hai thẩm
phán và ba hội thẩm nhân dân. Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội theo
khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì hội đồng xét xử gồm hai thẩm phán và
ba hội thẩm nhân dân.


Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có
thêm hai hội thẩm nhân dân.

Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án nhân dân tối cao gồm ba
thẩm phán. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, ủy ban thẩm phán của tòa án
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm thì
số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần ba tổng số các thành viên của hội
thẩm của hội đồng thẩm phán hoặc ủy ban thẩm phán đó.
Nguyên tắc này bảo đảm cho tòa án xét xử khách quan, toàn diện, chống độc đoán,
đó là việc thể hiện cụ thể nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân nói chung, trong việc quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế về
hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính nói riêng…
5. Nguyên tắc tòa án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định
Nguyên tắc này được quy định ở khoản 1 điều 131 Hiến pháp 1992 và điều 7 Luật
tổ chức tòa án nhân dân năm 1992. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ
các tòa án nhân dân phải có kế hoạch xét xử các vụ án. Kế hoạch xét xử phải niêm yết
tại trụ sở của tòa án, tòa án phải thông báo cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư
trú và làm việc cuối cùng của bị cáo. Đồng thời tòa án phải thông báo cho bị cáo,
người bị hại (các vụ án hình sự), các đương sự và những người có liên quan đến vụ án
biết thời gian, địa điểm xử án. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm thu hút quần
chúng nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát đối với hoạt động xét xử của tòa án. Đối
với những vụ án quan trọng, tòa án phải thông báo cho các phương tiện thông tin đại
chúng để nhân dân biết để nâng cao công tác giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân,
thu hút sự tham gia của nhân dân vào công cuộc đấu tranh chống tôi phạm và các vi
phạm pháp luật khác trong xã hội.
Về nguyên tắc chung, việc xử án được tiến hành tại phòng xử án của tòa án nhưng
tòa án có thể xét xử lưu động ở nơi xảy ra vụ án để tăng cường tính giáo dục. Ví dụ,
các vụ án có nội dung liên quan đến ma túy, tham nhũng, mang tính chất thời sự quan
trọng có những hình phạt thích đáng, nghiêm khắc nên được mọi người quan tâm. Do


đó cần bảo đảm nguyên tắc xét xử công khai nhằm tuyên truyền giáo dục rộng rãi hơn.
Các tòa án nhân dân phải niêm yết kế hoạch xét xử các vụ án tại trụ sở của tòa án và

phải thông báo cho chính quyền địa phương nơi cư trú và làm việc của bị cáo. Đồng
thời phải thông báo cho bị cáo và những người có liên quan đến vụ án biết thông tin về
vụ án (địa điểm, thời gian,…) Tại các phiên tòa, mọi công dân đủ 16 tuổi trở lên đều có
quyền tham dự. Ngoài xét xử công khai, Luật tổ chức tòa án nhân dân cũng quy định
tòa án có thể xét xử kín để giữ bí mật của Nhà nước, thuần phong mĩ tục của dân tộc
hoặc giữ bí mật của các đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ. Nhưng dù xét xử
công khai hay xét xử kín, khi tuyên án, tòa án đều phải đọc công khai để mọi người
đều biết.
6. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc quan trọng của chế định
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nó thể hiện nền dân chủ của chế độ xã hội chủ
nghĩa, khẳng định công dân là những người chủ của đất nước và được quy định trong
các bản Hiến pháp của nước ta. Trong hoạt động xét xử của tòa án, nguyên tắc này
được quy định tại Điều 8 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002: “ Tòa án xét xử theo
nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ,
dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tổ
chức, đơn vị vũ trang nhân dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành
phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật”.
Theo quy định trên thì mọi tội phạm, mọi tranh chấp pháp lí do bất kì ai thực hiện
đều phải được tòa án nhân dân xét xử công bằng, không thiên vị. Trong những điều
kiện, hoàn cảnh như nhau mà hành vi vi phạm pháp luật như nhau thì tòa án đều phải
áp dụng quy phạm pháp luật như nhau. Vì vậy, để nguyên tắc mọi công dân đều bình


đẳng trước pháp luật được thực hiện trên thực tế đòi hỏi các thẩm phán và hội thẩm
nhân dân phải tinh thông về nghiệp vụ, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, có tinh

thần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thực sự “chí công vô tư” trong
hoạt động xét xử.
7. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
Nguyên tắc này được quy định ở điều 132 Hiến pháp năm 1992, được cụ thể hóa
trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân (điều 9) và trong Bộ luật tố tụng hình sự (điều 12).
Nó thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thể hiện
sự tôn trọng quyền con người, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử được
khách quan, toàn diện, đầy đủ, tránh được sự chủ quan phiến diện và phù hợp với pháp
luật quốc tế như quy định tại điểm D khoản 2 điều 14 công ước quốc tế về các quyền
dân sự chính trị ngày 16/12/1966: “được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa
hoặc nhờ sự giúp đỡ về pháp lý do mình lựa chọn; nếu chưa có sự giúp đỡ về pháp lý
thì phải được thông báo về quyền này; trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi,
phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ về pháp lý mà không phải trả tiền nếu người
đó không có đủ điều kiện trả”.
Để thực hiện quyền bào chữa của mình, bị cáo hoặc đương sự có thể tự bào chữa
hoặc nhờ luật sư, người đại diện hợp pháp bào chữa cho mình. Trong trường hợp cần
thiết, mặc dù bị cáo không yêu cầu nhưng tòa án vẫn phải yêu cầu đoàn luật sư cử
người bào chữa cho bị cáo. Đó là những trường hợp như sau:
Bị cáo có nhược điểm về thể chất và tinh thần;
Bị cáo phạm tội nghiêm trọng mà hình phạt cao nhất là tử hình;
Bị cáo là vị thành niên phạm tội;
Để giúp các bị cáo và đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, ngày
18/12/1987, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh tổ chức luật sư vào ngày
21/2/1988, Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quy chế đoàn luật sư.
Gần đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh luật sư ngày 25/7/2001


thay thế Pháp lệnh luật sư ngày 18/12/1987. Theo các văn bản pháp luật này, ở các
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã thành lập các đoàn luật sư để giúp các bị can,

bị cáo và đương sự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình
8. Nguyên tắc công dân Việt Nam có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc
mình trước tòa án.
Nguyên tắc này không chỉ được quy định ở điều 133 Hiến pháp năm 1992 mà
còn ở cả ba bản Hiến pháp trước đó và được cụ thể hóa ở điều 10 Luật tổ chức tòa án
nhân dân năm 2002: “Tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền dùng
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước tòa án”.
Xuất phát từ thực tế ở nước ta có nhiều dân tộc cùng sinh sống trên một lãnh thổ.
Để thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về đoàn kết và bình đẳng giữa các dân
tộc, trong hoạt động xét xử của mình, tòa án phải đảm bảo nguyên tắc công dân Việt
Nam có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước tòa án.
Nguyên tắc này bảo đảm cho các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa như bị
cáo, người bị hại, đương sự, người làm chứng… thể hiện một cách đúng đắn và chính
xác ý chí của mình khi tham gia tố tụng, đồng thời giúp cho tòa án xét xử được chính
xác, đúng sự thật khách quan của vụ án, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác xét
xử. Trong trường hợp người tham gia tố tụng trình bày bằng ngôn ngữ dân tộc của họ
thì tòa án phải chỉ định người phiên dịch.
9. Nguyên tắc tòa án nhân dân chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà
nước.
Tòa án nhân dân tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội; Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc
hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc
hội và Chủ tịch nước, trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội. Tòa án nhân dân địa
phương chịu sự giám sát của hội đồng nhân dân. Chánh án tòa án nhân dân địa phương
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước hội đồng nhân dân cùng cấp, trả lời chất
vấn của địa biểu hội đồng nhân dân


10. Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Nội dung nguyên tắc này được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 1 Luật tổ chức tòa

án nhân dân năm 2002: “ Tòa án thực hiện hai cấp xét xử “.Bản án, quyết định sơ thẩm
của tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị thoe quy định của pháp luật tố tụng. Bản án,
quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do pháp luật quy
định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng
nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực
pháp luật.
III. PHẦN KẾT BÀI:
Trong phạm vi chức năng của mình, tòa án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản
nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công
dân ( trích điều 1 Luật tổ chức toà án nhân dân năm 2002). Toà án là cơ quan đóng vai
trò như một bộ máy “quyền lực” trong hệ thống các cơ quan tư pháp, thực hiện việc áp
dụng pháp luật, đưa việc thực hiện quyền lực tư pháp vào cuộc sống. Bởi vì thông qua
quyền lực tư pháp mà pháp luật tác động đến những quan hệ xã hội. Đây không phải là
phương tiện duy nhất nhưng là phương tiện chủ yếu trong việc giải quyết các trường
hợp xung đột giữa các quan hệ pháp luật, là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của Nhà
nước và nền công lý của chế độ, đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của
cả hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-33/2002-QH10 ngày 02/04/2002 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
-16/2002/L-CTN ngày 11/10/2002 Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm toà án nhân dân
-2000/PL-UBTVQH10 ngày 25/07/2000 Pháp lệnh sửa đổi Điều 18 của Pháp lệnh tổ
chức tòa án quân sự.
-11/L/CTN 26/04/1993 Pháp lệnh Tổ chức Toà án quân sự
- Thông tư liên tịch 01/2003/TTLT-TANDTC-BQP-BNV-UBTWMTTQVN về việc
hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND do
TAND tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ và Uỷ ban MTTQ Việt Nam ban hành ngày
01/04/2003.

- Thông tư liên ngành số 01/2004/TTLT/TANDTC-UBTWMTTQVN về việc hướng
dẫn về việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu hội thẩm tòa án nhân dân do TAND Tối
cao- Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam ban hành ngày 01/03/2004.
- Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Trường ĐH Luật HN, Nxb Tư pháp, Hà
Nội,2003.
- Luật Nhà nước Việt Nam, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Khoa Luật, Hà Nội,
1994.
- Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, ĐHQG Hà Nội, Trường Đại học KHXH&NV Khoa Luật, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 221.
- Bình luận khoa học Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992, Trung tâm
KHXH&NV Quốc Gia, Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật, Nxb KHXH, Hà Nội,
1996.
-
-
- http:// www.ykvn-law.com
- />-
-



×