Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.22 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

BÀI LÀM
Thị trường chứng khoán là một môi trường đầu tư kinh doanh vô cùng phức
tạp và nhạy cảm với số lượng người tham gia đông đảo, giá trị đầu tư lớn, độ rủi ro
cao và tính cạnh tranh gay gắt trong các mối quan hệ lợi ích được thiết lập trên thị
trường. Do vậy, tranh chấp là hiện tượng tất yếu xảy ra đối với mọi thị trường
chứng khoán cũng như trong hoạt động chứng khoán. Và việc giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán đã trở thành một yêu cầu mang tính khách quan.
I. KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN
VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN
1. Khái quát về tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán
1.1. Khái niệm
Tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán là những xung đột về quyền và lợi
ích phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán
và được thể hiện ra bên ngoài dưới dạng nhu cầu cần giải quyết thông qua hình
thức nhất định theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào quy định tại Điều 131 Luật Đầu tư “các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể được giải quyết
thông qua thương lượng, hòa giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc tòa án giải quyết
theo quy định của pháp luật” thì có thể hiểu tranh chấp trong lĩnh vực chứng
khoán gồm các tranh chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường
chứng khoán. Cụ thể hơn, có ý kiến cho rằng: “tranh chấp về chứng khoán không
chỉ có các tranh chấp về mua bán chứng khoán mà còn có nhiều tranh chấp khác về
sở hữu, phát hành, về quản lý, về giám sát…”. Các tranh chấp này được thể hiện ra
bên ngoài mặt khách quan thông qua các hành vi thực tế của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật chứng khoán như hành vi khiếu nại về lợi ích không đạt được
trong quan hệ bảo lãnh phát hành, hành vi khởi kiện về quan hệ thanh toán giữa
khách hàng với công ty chứng khoán, hành vi xử phạt vi phạm pháp luật về chứng
khoán… Cách nhìn nhận về phạm vi của tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán



trong trường hợp này là tương đối rộng. Trong đó, tranh chấp trên thị trường chứng
khoán là chủ yếu và đặc trưng hơn cả.
1.2. Đặc điểm
Tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán có một số đặc trưng sau:
- Chủ thể của tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán phải là các tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, mà chủ yếu là các chủ thể
tham gia thị trường chứng khoán. Các chủ thể này bao gồm: tổ chức phát hành
thực hiện hoạt động chào bán chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán, nhà
đầu tư, ngân hàng giám sát, ngân hàng chỉ định thanh toán, tổ chức lưu ký chứng
khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán và các thành
viên, cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán (Ủy ban chứng khoán nhà nước).
- Đối tượng của tranh chấp là các quyền và lợi ích giữa các chủ thể có được
do tham gia hoạt động chứng khoán. Đó là các quyền và lợi ích của các chủ thể
phát sinh từ quan hệ thiết lập trên thị trường chứng khoán, bao gồm hai nhóm:
Nhóm thứ nhất bao gồm các quyền và lợi ích phát sinh trên thị trường chứng khoán
dựa trên cơ sở sự thoả thuận của các bên, thường được ghi nhận trong các bản hợp
đồng do các bên ký kết; nhóm thứ hai bao gồm các quyền và lợi ích mặc nhiên
phát sinh giữa các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán trên cơ sở quy định
pháp luật.
- Giá trị của tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán thường khó xác định
chính xác do nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như thông tin thị trường,
tâm lý của nhà đầu tư, tình hình kinh tế, chính trị… và giá chứng khoán thường
không ổn định.
1.3. Tác động
Tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán là hiện tượng mang tính tiêu cực,
phản ánh một nhóm quan hệ không ổn định đang diễn ra trên thị trường chứng
khoán, làm cho mục đích các bên mong muốn khi thiết lập quan hệ không đạt
được, cản trở các kế hoạch đã dự tính. Các tranh chấp này còn ảnh hưởng nghiêm
trọng đến uy tín của các bên tranh chấp khi họ là các tổ chức hoạt động lâu dài trên

thị trường chứng khoán với tư cách tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, công ty
chứng khoán… Đồng thời nó cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đối với thị trường
chứng khoán nói riêng và hoạt động chứng khoán nói chung.
2. Khái quát về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán
Giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán là tổng hợp các cách thức,
biện pháp do các bên tranh chấp áp dụng trên cơ sở quy định của pháp luật nhằm
loại bỏ xung đột về quyền và lợi ích phát sinh trong hoạt động chứng khoán.
Mục đích của các bên khi quyết định đưa tranh chấp ra giải quyết nhằm loại
bỏ những bất đồng, xung đột đang tồn tại đồng thời khôi phục quyền và lợi ích cho
rằng bị xâm phạm. Trong khi đó, với tư cách là chủ thể có chức năng quản lý mọi
mặt đời sống xã hội, nhà nước đặt ra nhu cầu giải quyết các tranh chấp trên thị
trường chứng khoán nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm phạm,
duy trì trật tự, đảm bảo sự công bằng, ổn định trên thị trường.
II. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LĨNH VỰC
CHỨNG KHOÁN
2


1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng
khoán
Trước khi Luật Chứng khoán 2006 có hiệu lực, cơ chế giải quyết tranh chấp
chứng khoán tuân theo quy định trong Nghị định 144/2003/NĐ-CP: “Các tranh
chấp phát sinh trong hoạt động chứng khoán và trên thị trường chứng khoán phải
được giải quyết trên cơ sở thương lượng và hòa giải... Trường hợp hòa giải không
thành, các bên có thể yêu cầu trọng tài hoặc tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. Đối với tranh chấp có liên quan tới bên nước ngoài, nếu các bên không
thỏa thuận hòa giải được thì tranh chấp được giải quyết theo pháp luật Việt Nam,
nếu có điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia thì giải quyết theo quy
định của điều ước quốc tế”. Do phạm vi điều chỉnh của Nghị định bó hẹp ở thị
trường tập trung nên quy định trên chỉ áp dụng đối với các tranh chấp xảy ra trên

thị trường chứng khoán tập trung.
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã thống nhất quy trình giải quyết tranh chấp
trong lĩnh vực chứng khoán với quy định tại Điều 131: “Tranh chấp phát sinh
trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam có thể được
giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải hoặc yêu cầu trọng tài hoặc tòa án
giải quyết theo quy định của pháp luật”. So với quy định trước đây, quy định này
đã mở rộng phạm vi điều chỉnh không chỉ đối với tranh chấp ở thị trường chứng
khoán tập trung mà cả thị trường chứng khoán phi tập trung; và đã tôn trọng quyền
tự định đoạt của các bên hơn khi quy định thương lượng hòa giải không phải là
phương thức giải quyết mang tính bắt buộc đối với các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán. Các bên có quyền lựa chọn
phương thức giải quyết thích hợp mà không phải tuân theo quy trình định sẵn của
pháp luật.
1.1. Giải quyết tranh chấp thông qua thương lượng
Thương lượng là việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp,
tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có sự trợ
giúp hoặc phán quyết của bất kỳ bên thứ ba nào. Thương lượng trong tranh chấp
chứng khoán về cơ bản cũng giống như hình thức thương lượng trong tranh chấp
thương mại. Không có sự tham gia của bất kỳ trung gian nào, các bên trực tiếp gặp
nhau, nêu ra quan điểm, yêu cầu của mình, tìm biện pháp thích hợp để đi đến thống
nhất cách giải quyết cùng chấp nhận được.
Quá trình thương lượng ít chịu sự ràng buộc của bất kỳ nguyên tắc pháp lý
hoặc những quy định mang tính khuôn mẫu của pháp luật về thủ tục giải quyết
tranh chấp mà chủ yếu dựa trên nền tảng ý chí tự định đoạt của các bên tranh chấp.
Phương thức này cũng đảm bảo uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp
phần củng cố niềm tin và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên. Thương
lượng thường để giải quyết những tranh chấp không phức tạp, giá trị tranh chấp
thấp và các bên đều có thiện chí muốn duy trì mối quan hệ hợp tác sẵn có.
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về thương lượng, các bên
thường phải dựa vào kinh nghiệm để tiến hành.

1.2. Giải quyết tranh chấp bằng hoà giải

3


Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ
ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các
giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Hòa giải là một trong những phương thức được ưa chuộng, có thể áp dụng
khi các bên không đồng ý thương lượng hoặc quá trình thương lượng không đạt kết
quả. Hình thức hòa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian có sự
giúp đỡ, hỗ trợ các bên trong quá trình đàm phán để nhanh chóng tìm ra giải pháp
thích hợp. Pháp luật luôn ghi nhận vai trò trung gian hòa giải của Sở giao dịch
chứng khoán, trung tâm giao dịch chứng khoán đối với những tranh chấp liên quan
đến hoạt động giao dịch chứng khoán. Khoản 8 Điều 37 Luật chứng khoán 2005
quy định Sở giao dịch chứng khoán có thể làm trung gian hoà giải nếu được thành
viên yêu cầu đối với tranh chấp phát sinh từ giao dịch chứng khoán. Về vấn đề
này, pháp luật Việt Nam có điểm khác so với pháp luật các nước khi quy định về
phạm vi chủ thể có quyền đệ đơn yêu cầu trung tâm (sở) giao dịch chứng khoán
tiến hành hòa giải tương đối hẹp.
Trong thực tiễn, để đáp ứng yêu cầu của thị trường, trung tâm giao dịch
chứng khoán thành phố HCM đã ban hành quyết định số 39/2000/QĐ-TTGD3 và
quyết định số 43/2000/QĐ-TTGD3. Theo đó, ban hòa giải được thành lập theo
quyết định của giám đốc trung tâm, chỉ có thẩm quyền hòa giải các tranh chấp phát
sinh trong hoạt động chứng khoán liên quan đến công ty chứng khoán mà không
phải là tất cả các giao dịch trên thị trường chứng khoán. Quyết định 39/QĐ quy
định về thành phần ban hòa giải bao gồm có trưởng ban hòa giải là giám đốc hoặc
phó giám đốc trung tâm giao dịch chứng khoán, đại diện phòng giám sát thị
trường, các phòng chức năng liên quan và đại diện của các công ty chứng khoán
thành viên cùng một số thành viên khác theo đề nghị của trưởng ban hòa giải.

Quyết định 43/QĐ hướng dẫn các bên tranh chấp về trình tự thủ tục hòa giải, tạo
cơ sở cho ban hòa giải thực hiện tốt vai trò của mình. Theo đó, quá trình hòa giải
gồm 4 bước cơ bản:
- Bước 1: Tiếp nhận đơn đề nghị hòa giải. Bên yêu cầu hòa giải gửi đơn đề
nghị hòa giải và các chứng cứ, tài liệu cần thiết đến trung tâm. Trong thời hạn 7
ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận, trung tâm phải gửi bản sao cho bị đơn.
- Bước 2: Chuẩn bị hòa giải. Trong thời hạn 15 ngày, bị đơn phải gửi văn
bản trả lời chấp nhận hoặc không chấp nhận việc hòa giải. Trường hợp bị đơn chấp
nhận hòa giải, giám đốc trung tâm kí quyết định thành lập ban hòa giải. Ban hòa
giải tiến hành triệu tập trực tiếp hoặc yêu cầu các bên giải thích bằng văn bản, cung
cấp chứng cứ, tài liệu, ra quyết định đình chỉ hòa giải trong một số trường hợp nhất
định, ấn định thời gian và địa điểm diễn ra phiên hòa giải, gửi giấy triệu tập hòa
giải cho các bên trước ngày hòa giải ít nhất 15 ngày.
- Bước 3: Tiến hành hòa giải dưới sự chủ trì của trưởng ban hòa giải
- Bước 4: Hòa giải kết thúc bằng việc ban hòa giải lập biên bản hòa giải
thành hoặc biên bản hòa giải không thành tùy theo kết quả của phiên hòa giải. Việc
thực hiện kết quả hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên.
1.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông
qua hoạt động của trọng tài viên (với tư cách là bên thứ ba độc lập) nhằm chấm dứt
4


xung đột bằng việc đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc với các bên. Trọng tài
được sử dụng phổ biến để giải quyết các tranh chấp trên thị trường chứng khoán
nói riêng và tranh chấp trong kinh doanh nói chung bởi tranh chấp luôn được giải
quyết tận gốc bằng phán quyết chung thẩm, có tính bắt buộc chung trong khi thời
gian giải quyết nhanh chóng và chi phí không cao, thủ tục đơn giản, linh hoạt. Tuy
nhiên, khi đã lựa chọn hình thức trọng tài, các bên đương nhiên mất quyền khởi
kiện vụ tranh chấp tại tòa án.

Với tư cách là tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thương mại đặc thù, tranh
chấp chứng khoán được giải quyết theo thủ tục trọng tài phải tuân theo pháp luật tố
tụng trọng tài nói chung và các quy định mang tính chuyên ngành của pháp luật về
chứng khoán. Tuy nhiên, pháp luật về chứng khoán hiện hành không có quy định
riêng, trực tiếp điều chỉnh vấn đề này. Do vậy, các quy định chung về tố tụng trọng
tài là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để giải quyết tranh chấp chứng khoán.
* Điều kiện: Để tranh chấp chứng khoán được giải quyết theo thủ tục trọng
tài phải thỏa mãn các điều kiện:
- Các bên trong tranh chấp phải là tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh.
- Hoạt động phát sinh tranh chấp chứng khoán phải thuộc một trong các hoạt
động thương mại được liệt kê tại Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
- Trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, các bên phải có thỏa thuận trọng tài.
Thỏa thuận trọng tài phải thể hiện dưới hình thức văn bản. Bên cạnh đó, pháp luật
cũng quy định rõ tính độc lập của điều khoản trọng tài trong quan hệ với hợp đồng,
không phụ thuộc vào nội dung hay hiệu lực của hợp đồng.
* Về thủ tục:
Giải quyết tranh chấp chứng khoán tại trọng tài thương mại phải tuân theo
trình tự thủ tục luật định. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp trong lĩnh vực chứng
khoán là 2 năm kể từ ngày xảy ra tranh chấp. Pháp luật cho phép các bên lựa chọn
một trong hai hình thức trọng tài để giải quyết tranh chấp, tại các trung tâm trọng
tài hoặc hội đồng trọng tài do các bên thành lập. Trường hợp các bên lựa chọn
trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn kiện gửi trung tâm trong đó chỉ rõ
trọng tài viên đã chọn. Trung tâm trọng tài sẽ gửi bản sao đơn kiện kèm theo danh
sách trọng tài viên của trung tâm cho bị đơn. Trong 30 ngày kể từ ngày nhận được,
bị đơn phải gửi cho trung tâm trọng tài bản tự bảo vệ cùng tên trọng tài viên đã
chọn. Hai trọng tài viên được chọn thống nhất chọn trọng tài viên thứ ba là chủ tịch
hội đồng trọng tài. Chủ tịch trung tâm trọng tài có thể chỉ định trọng tài viên nếu
hết thời hạn mà bị đơn không chọn trọng tài viên hoặc hai trọng tài viên không
thống nhất chọn được trọng tài viên thứ ba. Đối với trường hợp hội đồng trọng tài
do các bên thành lập, nguyên đơn phải gửi đơn đến bị đơn và quyền chỉ định trọng

tài viên giúp các bên thuộc tòa án cấp tỉnh nơi bị đơn có trụ sở hoặc cư trú. Tổng
thời gian từ thời điểm gửi đơn kiện đến khi hội đồng trọng tài được thành lập
không quá 59 ngày. Sau khi được chỉ định, các trọng tài viên phải nghiên cứu hồ
sơ, xác minh sự việc, nếu thấy cần thiết có quyền gặp các bên nghe trình bày ý
kiến, yêu cầu các bên cung cấp chứng cứ liên quan hoặc tự mình thu thập chứng
cứ. Các trọng tài viên vẫn có thể bị thay đổi trong quá trình giải quyết tranh chấp
nếu có yếu tố ảnh hưởng đến tính khách quan trong công việc phân xử của họ.
5


Thực tế hoạt động thị trường chứng khoán ở các nước cho thấy đa số trọng
tài viên phân xử tranh chấp chứng khoán thuộc các trung tậm trọng tài do cơ sở
giao dịch chứng khoán thành lập. Ở Việt Nam hiện nay chưa có trung tâm trọng tài
nào chuyên phân xử tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán. Trong khi đó, trọng
tài ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển đã đạt đến trình độ chuyên
nghiệp rất cao.
Thời gian mở phiên họp do chủ tịch hội đồng trọng tài quyết định nếu các
bên không có thoả thuận. Phiên họp không công khai, các bên có thể trực tiếp hoặc
uỷ quyền cho người đại diện tham dự, có quyền mời nhân chứng, luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đồng thời, trong quá trình hội đồng trọng tài
giải quyết vụ tranh chấp, các bên có quyền làm đơn yêu cầu toà án cấp tỉnh nơi hội
đồng trọng tài thụ lý áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời khi thấy quyền
và lợi ích bị xâm phạm hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại. Hội đồng trọng tài ra
quyết định dựa trên nguyên tắc đa số. Quyết định của trọng tài có giá trị chung
thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị và có tính cưỡng chế thi hành như bản án do
toà tuyên.
Pháp luật trọng tài khuyến khích các bên hòa giải trong quá trình tố tụng
trọng tài nhưng có sự phân biệt rõ giá trị pháp lý của kết quả hòa giải trong hai
trường hợp: Trường hợp các bên tự hòa giải với nhau, nếu hòa giải thành thì theo
yêu cầu của các bên, hội đồng trọng tài sẽ đình chỉ quá trình tố tụng trọng tài;

trường hợp các bên yêu cầu hội đồng trọng tài hòa giải, nếu hòa giải thành các bên
yêu cầu hội đồng trọng tài lập biên bản hòa giải thành và ra quyết định công nhận
hòa giải thành. Quyết định này là chung thẩm và có tính chất bắt buộc phải thi
hành với các bên.
1.4. Giải quyết tranh chấp tại tòa án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
qyền lực nhà nươc, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và
bản án hay quyết định của tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân
thủ sẽ được bảo đảm thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Lựa chọn
hình thức này các bên phải tuân thủ trình tự thủ tục pháp lý phức tạp, thời gian bị
kéo dài, công sức và chi phí cao. Do vậy, giải quyết tranh chấp bằng toà án chủ yếu
trong trường hợp các bên không đồng ý hoà giải, hoà giải không thành hoặc không
thể áp dụng hình thức trọng tài (do không có thoả thuận trọng tài hoặc thoả thuận
trọng tài vô hiệu).
Theo quy dịnh của Bộ luật tố tụng dân sự, các quan hệ pháp luật tố tụng mở
rộng sang các quan hệ tố tụng kinh tế, lao động, hôn nhân và gia đình. Do vậy, mọi
tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán đưa ra giải quyết tại tòa án tuân theo
một trình tự tố tụng chung, thống nhất trên cơ sở Bộ luật tố tụng dân sự.
* Về thẩm quyền:
Thẩm quyền của tòa án về giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ
dân sự theo nghĩa rộng (trong đó có tranh chấp chứng khoán) được pháp luật phân
định theo vụ việc, theo cấp tòa án, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của nguyên
đơn.
- Xác định thẩm quyền của tòa kinh tế và tòa dân sự trong việc giải quyết
tranh chấp chứng khoán: Căn cứ vào Điều 29 BLTTDS có thể xác định các tranh
6


chấp chứng khoán thuộc thẩm quyền của tòa kinh tế gồm hai nhóm cơ bản: Nhóm
thứ nhất xảy ra giữa các tổ cức cá nhân có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có

mục đích lợi nhuận (Khoản 1 Điều 29), bao gồm tranh chấp phát sinh từ hoạt động
tư vấn đầu tư chứng khoán, môi giới chứng khoán, bảo lãnh pát ành chứng
khoán… Có thể nhận thấy các tranh chấp thuộc nhóm thứ nhất đều phát sinh từ
quan hệ hợp đồng được thiết lập trên thị trường chứng khoán và để nhận biết tranh
chấp chứng khoán thuộc nhóm này phải quy tranh chấp đó về các tranh chấp phát
sinh từ các hoạt động thương mại nói chung được liệt kê tại khoản 1 Điều 29,
ngoại trừ tranh chấp về mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác.
Loại giấy tờ có giá chưa có định nghĩa rõ ràng, bao gồm những loại nào. Về điều
kiện có đăng ký kinh doanh của chủ thể tranh chấp, bộ luật không có quy định giải
thích rõ mối quan hệ giữa hoạt động có tranh chấp phát sinh và hoạt động tuộc nội
dug đăng ký kinh doanh, trong khi pháp luật về thị trường chứng khoán chỉ yêu
cầu một số hoạt động trên thị trường phải tiến hành đăng ký kinh doanh như hoạt
động kinh chứng khoán, hoạt động lưu ký chứng khoán…
Nhóm thứ hai gồm một số tranh chấp chứng khoán được nhà làm luật quy
kết về loại tranh chấp xảy ra giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành
viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty và thuộc thẩm quyền của tòa
kinh tế. Các tranh chấp thuộc nhóm này phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định:
tranh chấp phải xảy ra giữa công ty chứng khoán và cổ dông hoặc giữa các cổ đông
với nhau.
- Xác định thẩm quyền theo cấp của tòa án để giải quyết tranh chấp chứng
khoán: Căn cứ quy định tại Điều 33, 34 BLTTDS, tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp về mua bán chứng khoán giữa các tổ chức, cá nhân có
đăng ký kinh doanh và tranh chấp giữa công ty với cổ đông hoặc giữa cổ đông với
nhau, không phụ thuộc vào dấu hiệu có yếu tố nước ngoài trong tranh chấp. Các
tranh chấp còn lại thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh nếu đương sự hay tài sản ở
nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài. Có thể nói hai nhóm tranh chấp thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh
chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số tranh chấp có khả năng xảy ra trong lĩnh vực
chứng khoán, bởi hoạt động giao dịch chứng khoán là hoạt động chủ yếu của thị

trường và số lượng chủ thể nước ngoài tham gia rất đa dạng, đặc biệt với tư cách
nhà đầu tư. Hiện tại, ngoại trừ những tranh chấp về mua bán chứng khoán giữa các
tổ chức cá nhân có đăng ký kinh doanh và tranh chấp giữa công ty với cổ đông
hoặc giữa các cổ đông với nhau, các tranh chấp còn lại trên thị trường chứng khoán
sẽ thuộc thẩm quyền của tòa án cấp huyện nếu tranh chấp không có đương sự hoặc
tài sản ở nước ngoài.
- Xác định thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn của
nguyên đơn: về cơ bản, tòa án có thẩm quyền sơ thẩm là tòa án nơi bị đơn cư trú,
làm việc hoặc có trụ sở. Ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận yêu cầu tòa án nơi cư
trú, làm việc hoặc có trụ sở của nguyên đơn giải quyết. Pháp luật cũng quy định
những trường hợp nhất định nguyên đơn được lựa chọn tòa án để giải quyết vụ
tranh chấp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc khởi kiện của nguyên đơn và quá
trình giải quyết của tòa án.
7


* Về thời hiệu khởi kiện: thời hiệu khởi kiện của các tranh chấp trên thị
trường là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Thời điểm
quyền và lợi ích bị xâm phạm được xác định là thời điểm người có nghĩa vụ vi
phạm nghĩa vụ đó, không phụ thuộc vào bên có quyền lợi ích bị xâm phạm có nhận
thức được hành vi xâm phạm của bên kia không.
* Trình tự, thủ tục: Thủ tục tố tụng bắt đầu từ thời điểm tòa án thụ lý đơn
kiện của nguyên đơn và kết thúc bằng bản án do hội đồng xét xử tuyên. Pháp luật
hiện hành quy định rõ, trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tối đa là 6 tháng kể
từ ngày thụ lý đối với tranh chấp dân sự và 3 tháng đối với tranh chấp về kinh
doanh thương mại, tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến
hành hòa giải được. Trong trường hợp hòa giải thành, thẩm phán lập biên bản hòa
giải thành. Các bên được pháp luật dành cho 7 ngày để suy nghĩ và cân nhắc những
nội dung đã thỏa thuận. Hết thời hạn mà không có bên nào thay đổi ý kiến, thẩm

phán mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Quyết định này
có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành và không bị kháng cáo kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm nhưng có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu
có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp
luật, đạo đức xã hội. Trường hợp hòa giải không thành, thẩm phán sẽ ra quyết định
đưa vụ án ra xét xử. Phiên tòa sơ thẩm diễn ra công khai theo thời gian và địa điểm
do thẩm phán ấn định. Thủ tục diễn ra phiên tòa theo quy định của BLTTDS. Bản
án sơ thẩm có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên và được đảm bảo bằng sự
cưỡng chế của Nhà nước mà đại diện là cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, nếu không
đồng ý với quyết định phân xử của Tòa án, các bên tranh chấp có quyền kháng cáo
trong thời hạn luật định theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
1.5. Một số hạn chế của pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực
chứng khoán
- Thứ nhất, pháp luật chưa có những quy định cụ thể về phương thức giải
quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán thông qua thương lượng, hòa giải.
Pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán luôn khuyến khích
các bên có xung đột tiến hành thương lượng và hòa giải với nhau bởi những ưu
điểm của hai phương thức giải quyết tranh chấp này. Pháp luật đã ghi nhận vai trò
trung gian hòa giải của một số tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán
nhằm giải quyết hiệu quả tranh chấp chứng khoán. Nhưng trên thực tế vẫn chưa có
quy định cụ thể về hai cơ chế giải quyết tranh chấp này (chưa có quy định về thủ
tục tiến hành, về vấn đề thi hành kết quả thương lượng, hòa giải) mà chỉ là sự ghi
nhận phương thức giải quyết tranh chấp trong pháp luật. Hai quyết định về hòa giải
do trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ban hành không phải
là văn bản pháp luật bởi lẽ trung tâm không có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật. Đối với loại tranh chấp phức tạp, có tính gay gắt cao như tranh
chấp chứng khoán, nếu chỉ dựa vào kinh nghiệm của các bên mà không có quy
định hướng dẫn cụ thể thì quá trình thương lượng, hòa giải khó đạt được kết quả.
- Thứ hai, hạn chế trong quy định về vai trò trung gian hòa giải của một số
tổ chức hoạt động trên thị trường chứng khoán.

8


+ Quy định về thẩm quyền hòa giải của trung tâm giao dịch chứng khoán
không thống nhất. Cụ thể, theo quy định tại Luật chứng khoán, phạm vi tranh chấp
có thể được hòa giải tại trung tâm bó hẹp trong các tranh chấp liên quan đến hoạt
động giao dịch chứng khoán. Nhưng tại một số văn bản hướng dẫn thi hành, phạm
vi này đã được mở rộng. Theo đó, trung tâm có thể hòa giải các tranh chấp liên
quan đến hoạt động kinh doanh chứng khoán hoặc liên quan đến chứng khoán giao
dịch tại trung tâm. Trong đó, có những tranh chấp liên quan đến hoạt động kinh
doanh chứng khoán nhưng không liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán;
có những tranh chấp liên quan đến chứng khoán đăng ký giao dịch tại trung tâm
nhưng không liên quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán. Tồn tại sự chồng
chéo giữa các quy định của pháp luật về thẩm quyền hòa giải của trung tâm giao
dịch chứng khoán.
+ Phạm vi tranh chấp được hòa giải tại trung tâm giao dịch chứng khoán
hoặc sở giao dịch chứng khoán tương đối hẹp, chỉ bao gồm các tranh chấp liên
quan đến hoạt động giao dịch chứng khoán, trong khi chủ thể duy nhất có quyền
yêu cầu trung tâm đóng vai trò trung gian hòa giải là các thành viên của trung tâm.
+ Pháp luật không ghi nhận vai trò trung gian hòa giải của các tổ chức khác
hoạt động trên thị trường chứng khoán ngoài trung tâm (sở) giao dịch chứng
khoán. Thực tế, một số tổ chức khác trên thị trường cũng có đủ điều kiện và khả
năng để đảm nhiệm vai trò như như tổ chức lưu ký chứng khoán, các hiệp hội
ngành nghề chứng khoán.
- Thứ ba, thiếu những quy định cụ thể hóa về trọng tài thương mại trong việc
giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán. Pháp lệnh trọng tài thương mại
quy định những vấn đề chung nhất về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Hiện nay, pháp luật chuyên
ngành về chứng khoán không có quy định cụ thể hướng dẫn về trọng tài thương
mại giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán, trong khi xuất phát từ

đặc thù của tranh chấp cũng như yêu cầu riêng biệt của hoạt động giải quyết loại
tranh chấp này mà cần phải có quy định riêng hoặc quy định cụ thể về một số vấn
đề liên quan đến trọng tài thương mại.
+ Pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện riêng nên việc áp dụng thời
hiệu khởi kiện 2 năm đối với tranh chấp trên thị trường chứng khoán là tương đối
ngắn. Trong khi các hành vi vi phạm có thủ đoạn rất tinh vi thì việc bên có quyền
lợi bị vi phạm thường không có khả năng phát hiện ngay hành vi vi phạm mà phải
mất khoảng thời gian nhất định.
+ Pháp luật thiếu những quy định cụ thể về trọng tài viên giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán trong khi đây là vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả của hoạt động phân xử. Muốn giải quyết hiệu quả tranh chấp trên thị
trường chứng khoán cần phải có đội ngũ trọng tài viên đáp ứng những yêu cầu
chuyên biệt mà việc giải quyết loại tranh chấp này đặt ra, đặc biệt là yêu cầu về
trình độ chuyên môn và kiến thức pháp lý về thị trường chứng khoán. Hiện nay,
các tiêu chuẩn chung về trọng tài viên ghi nhận trong Pháp lệnh trọng tài thương
mại không đảm bảo cho việc hình thành đội ngũ trọng tài viên giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán đạt chất lượng. Các trường hợp thay đổi trọng tài
viên chưa được cụ thể hóa trong quá trình giải quyết loại tranh chấp chuyên biệt
9


này, đặc biệt trong trường hợp “trọng tài viên có lợi ích trong vụ tranh chấp”. Ví
dụ: trọng tài viên đang đầu tư vào chứng khoán A có được phân xử tranh chấp liên
quan đến chứng khoán A hoặc tổ chức phát hành chứng khoán A không?
+ Quy định về thủ tục trọng tài cần có sự linh động về mặt thủ tục trong một
số trường hợp nhất định, tránh tình trạng kéo dài không cần thiết, gây lãng phí về
thời gian và công sức cho các bên. Chẳng hạn như thủ tục mở phiên họp có thể
không cần thiết với các tranh chấp có giá trị nhỏ, không phức tạp hoặc trách nhiệm
chủ động thu thập chứng cứ của trọng tài trong những trường hợp cụ thể… Do
pháp luật chuyên ngành không có hướng dẫn cụ thể, việc giải quyết tranh chấp

trong lĩnh vực chứng khoán theo thủ tục trọng tài vẫn phải tuân theo những quy
trình tương đối cứng nhắc. Bên cạnh đó, quy định liên quan đến thẩm quyền của
trọng tài thương mại cũng chưa được cụ thể hóa, bởi trong một số trường hợp,
tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán thỏa mãn điều kiện phân xử bằng
trọng tài nhưng có thể không được phép tự do lựa chọn phương thức này để giải
quyết (như tranh chấp giữa các thành viên sở hữu sở giao dịch chứng khoán).
- Thứ tư, một số quy định còn bất cập trong pháp lệnh trọng tài thương mại.
Pháp luật chuyên ngành về chứng khoán và thị trường chứng khoán không có quy
định riêng về vấn đề trọng tài nên pháp lệnh trọng tài thương mại là văn bản pháp
luật trực tiếp điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán
theo thủ tục trọng tài. Pháp lệnh vẫn tồn tại một số hạn chế:
+ Quyền lựa chọn trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp chứng
khoán bị hạn chế. Pháp luật chỉ cho phép chủ thể trong quan hệ tranh chấp là cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh được quyền thỏa thuận trọng tài để giải quyết
tranh chấp. Trong khi đó chủ thể tham gia hoạt động chứng khoán có thể bao gồm
cả các nhà đầu tư không có đăng ký kinh doanh và số lượng chủ thể này tương đối
lớn. Nếu quy định như trên sẽ là không hợp lý, tạo sự bất bình đẳng trong cách đối
xử của phá luật dành cho nhà đầu tư.
+ Quy định không rõ ràng về cách xác định thời hiệu khởi kiện. Nhà làm
luật đã dựa vào thời điểm ngày xảy ra tranh chấp để tính thời hiệu khởi kiện nhưng
không giải thích rõ cách xác định ngày xảy ra tranh chấp, dẫn đến những cách hiểu
khác nhau về vấn đề này, có thể là ngày quyền và lợi ích bị xâm phạm hoặc ngày
một bên phát hiện quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm.
+ Một số vấn đề liên quan đến trọng tài viên chưa được quy định cụ thể, rõ
ràng và hợp lý. Pháp luật chỉ quy định trường hợp các bên có quyền yêu cầu trọng
tài viên do mình lựa chọn từ chối giải quyết vụ tranh chấp. Đối với các trọng tài
viên không do mình lựa chọn các bên có được quyền yêu cầu thay đổi không và
yêu cầu này phải gửi đến chủ thể có thẩm quyền nào.
- Thứ năm, quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp tại tòa án vẫn tồn tại
những bất cập:

+ Vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp trên thị trường chứng
khoán còn mâu thuẫn, chồng chéo. Theo quy định của pháp luật hiện hành đa số
các dạng tranh chấp xảy ra trên thị trường chứng khoán thuộc thẩm quyền của tòa
án cấp huyện, trong khi tranh chấp về mua bán cổ phiếu và các chứng khoán khác
giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh do tòa án cấp tỉnh giải quyết.
10


+ Pháp luật không quy định về thời hiệu khởi kiện riêng đối với tranh chấp
trong lĩnh vực chứng khoán trong khi việc phát hiện hành vi vi phạm của bên vi
phạm không hề đơn giản.
2. Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức hoạt động trong một thời gian
chưa thực sự lâu dài, chưa phản ánh đầy đủ tình hình phát triển kinh tế- xã hội của
đất nước, nền kinh tế. Chính tình trạng hoạt động kém sôi động của thị trường đã
dẫn đến hệ quả là các mâu thuẫn, xung đột về lợi ích xảy ra trên thị trường tập
trung chưa nhiều và thường không phức tạp. Các tranh chấp đã xảy ra chủ yếu liên
quan đến loại chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đăng ký giao dịch của một số
doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hóa như công ty cổ phần Tràng Tiền,
công ty cổ phần Hữu Nghị… Trong khi đó, thực trạng pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, nhiều quy định
chung nhưng lại thiếu những quy định mang tính chuyên ngành để hướng dẫn cụ
thể nên hoạt động giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán vẫn chưa thực
sự đạt được hiệu quả.
- Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong thời gian qua cho thấy giải quyết
tranh chấp bằng con đường thương lượng là hình thức được sử dụng phổ biến nhất,
chiếm tỉ trọng gần như quyết định trên thị trường chứng khoán hiện nay. Điều này
xuất phát từ ưu điểm của phương thức này là không có sự xuất hiện của bên thứ ba,
uy tín của các bên không bị ảnh hưởng (đây lại là vấn đề được đặc biệt quan tâm
khi thi trường có tính cạnh tranh cao). Điều đó cũng lý giải vì sao trong thời gian

qua, mặc dù thực tế có nhiều tranh chấp nhưng không được đề cập trên các phương
tiện thông tin đại chúng.
- Hoạt động giải quyết tranh chấp chứng khoán thông qua cơ chế hòa giải
chưa thực sự phát huy được vai trò của nó trong thực tiễn. Do pháp luật quy định
về chức năng hòa giải của trung tâm giao dịch chứng khoán và sở giao dịch chứng
khoán nhưng lại quy định phạm vi yêu cầu hòa giải tương đối hẹp, thực tế các bên
tranh chấp cũng không thực sự ưa chuộng phương thức này. Họ chỉ sử dụng đến
khi nó là thủ tục bắt buộc. Nếu tranh chấp không quá phức tạp, có thể tự giải quyết
thì họ thường tự thương lượng với nhau. Nếu mâu thuẫn phát sinh quá lớn thì họ
tìm đến những cơ chế giải quyết cần có sự phán quyết của một bên thứ ba là trọng
tài hoặc tòa án.
- Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chưa thực sự phổ biến và chưa được
giới doanh nhân tin cậy và sử dụng. Trong khá nhiều lý do thì có 2 lý do cơ bản:
Thứ nhất, cộng đồng doanh nghiệp chưa ý thức được hạn chế của rủi ro pháp lý
trong tranh chấp thương mại và cách giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài, bởi công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về vấn đề này
chưa được chú trọng. Thứ hai, một số phán quyết của trọng tài bị hủy bỏ (không
công nhận thẩm quyền của trọng tài) vì những lý do được xem là “vu vơ”, đã tác
động tiêu cực đến doanh nghiệp, khiến chỉ số tín nhiệm của doanh nghiệp đối với
trọng tài xuống rất thấp.
- Giải quyết tranh chấp tại tòa án cũng diễn ra tình trạng tương tự. Chánh toà
Kinh tế, Toà án Nhân dân thành phố Hà Nội, ông Phạm Tuấn Anh cho biết, năm
2010, cơ quan này chưa thụ lý và đưa ra xét xử vụ nào liên quan đến tranh chấp
11


xảy ra trong lĩnh vực chứng khoán, còn trước đó cũng chỉ có rất ít vụ liên quan đến
chứng khoán được đưa đến Tòa. Trong năm qua, trên thị trường chứng khoán Việt
Nam ghi nhận khá nhiều vụ tranh chấp gay gắt, nhất là giữa các chủ thể hoạt động
trên thị trường tự do khi mà quy định pháp lý về chứng khoán vẫn hoàn toàn bỏ

ngỏ thị trường này. Tuy nhiên, việc Tòa án nhân dân TP. Hà Nội cũng như Tòa án
nhân dân các địa phương khác không mấy khi phải "động não" phán xét các vụ
tranh chấp về chứng khoán cho thấy, con đường đến Tòa để xử lý tranh chấp trong
lĩnh vực này là không đơn giản. Ví dụ: một nhà đầu tư "tố" công ty chứng khoán
APEC "xài chùa" tài khoản của mình xảy ra năm 2008; năm ngoái, các nhà đầu tư
Nguyễn Bá Phong, Đồng Thị Phương Thanh, Nguyễn Thanh Hải và Nguyễn Thị
Thu Hà tố cáo Công ty Chứng khoán phố Wall chủ động cho bảng điện tử "nghỉ"
giao dịch, khiến họ bị thiệt hại hàng tỷ đồng khi giao dịch cổ phiếu MB trên thị
trường OTC… Các vụ việc trên sau một hồi rùm beng dư luận, đã rơi vào im lặng,
mà chưa có một phán quyết rõ ràng từ cơ quan công quyền rằng bên nào đúng, bên
nào sai. Đây có thể là một trong những lý do chính khiến một số vụ tranh chấp vẫn
diễn ra dai dẳng. Theo bà Đồng Thị Phương Thanh, thành viên của nhóm nhà đầu
tư kiện Cty Chứng khoán phố Wall về giao dịch cổ phiếu MB, sau hơn 1 năm
chuẩn bị hồ sơ, bà cùng nhóm NĐT khởi kiện vẫn chưa thể nộp hồ sơ lên Toà kinh
tế, Toà án nhân dân TP Hà Nội, mặc dù có sự trợ giúp của luật sư. Sự chậm trễ này
là do bên bị hại phải hoàn tất những thủ tục khởi kiện, giải quyết tranh chấp của
Toà án quá rườm rà, tốn nhiều thời gian… Dẫu vậy, bà Thanh khẳng định sẽ theo
đuổi vụ kiện tới cùng để làm rõ phải trái, dù nguyên đơn hiểu rằng điều này chưa
có tiền lệ1.
Thông thường, nỗ lực tìm công lý ở Toà của nhà đầu tư sẽ đi qua hai con
đường: Thứ nhất, sau khi nhà đầu tư có đơn khiếu nại gửi Uỷ ban chứng khoán nhà
nước, cơ quan này sẽ tiến hành kiểm tra, thanh tra để làm rõ những sai phạm của
công ty chứng khoán mà nhà đầu tư cáo buộc. Nếu các sai phạm này không quá
nghiêm trọng, Uỷ ban chứng khoán nhà nước sẽ ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính. Trường hợp phát hiện dấu hiệu các bên có hành vi gây thiệt hại
nghiêm trọng cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhau hoặc cho đối tượng khác,
UBCK sẽ chuyển hồ sơ cho cơ quan công an để xem xét điều tra, xử lý.
Thứ hai, nhà đầu tư có thể chọn cách khởi kiện ra Toà kinh tế, để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của mình. Nói là vậy, nhưng hiện cả hai con đường dẫn đến Toà đều
không dễ dàng vì nhiều lý do, khiến nhiều đương sự gặp trắc trở khi nỗ lực tìm

công lý tại Toà án. Với tư cách là luật sư hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Luật
sư Trương Thanh Đức, Giám đốc Ban pháp chế, Ngân hàng Bảo Việt lý giải, người
bị hại, nhất là nhà đầu tư khó tìm đến Toà để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình không phải do khó khăn trong thu thập chứng cứ, vì rất nhiều vụ chứng cứ đã
có đầy đủ. Lý do chủ yếu là bởi thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp của Toà
án quá phức tạp, kéo dài. Tâm lý của người đi kiện thường muốn giải quyết nhanh
tranh chấp, trong khi dù có thắng kiện ở Toà án cũng chưa chắc thu hồi được tiền
hoặc phải chịu cảnh theo kiện nhiều năm, làm mất hết cơ hội đầu tư, nên khiến bị
hại ngán ngại tìm đến Toà. Ông Đức khuyến cáo, bị hại nếu muốn khởi kiện ra Toà
thành công, điều cần đặc biệt lưu ý là phải xuất trình được các chứng cứ gốc về
1

/>
12


hành vi vi phạm cam kết của bị đơn như: bản gốc hợp đồng mua bán chứng khoán,
đặt cọc, thoả thuận; bản gốc giấy biên nhận tiền hay chứng từ chuyển tiền qua ngân
hàng... Sau khi có được chứng cứ, nhà đầu tư thực hiện các bước khởi kiện theo
trình tự quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Theo đó, người khởi kiện
phải làm đơn khởi kiện và gửi đến Toà án có thẩm quyền giải quyết (ví dụ là Toà
kinh tế nơi cư trú của bị đơn đối với tranh chấp mua bán cổ phiếu, trái phiếu). Kèm
theo đơn là tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp, đồng thời nộp tiền tạm ứng án phí theo thông báo của Toà án
(khi đó Toà đã chấp nhận thụ lý vụ kiện).
Vì vậy, vụ tranh chấp chứng khoán được phân xử tại Tòa lần đầu tiên mới
vào năm 2007, khi thị trường chứng khoán việt Nam chính thức đi vào hoạt động
hơn 7 năm và luật chứng khoán cũng được thi hành trong 1 năm.
III. KHUYẾN NGHỊ HẠN CHẾ VÀ GIẢI QUYẾT TỐT TRANH
CHẤP TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN

1. Khuyến nghị để hạn chế tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán
Tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán phát sinh do nhiều nguyên nhân, bao
gồm cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Trong đó, phải kể đến
như:
- Sự thiếu minh bạch trong các giao dịch trên thị trường chứng khoán.
- Sự thiếu hiểu biết của các chủ thể khi tham gia vào hoạt động chứng
khoán, mà đặc biệt là các nhà đầu tư. Họ tham gia thị trường chứng khoán nhằm
mục tiêu lợi nhuận nhưng lại có những hiểu biết chưa đầy đủ nên thường có những
sai phạm. Đặc biệt trong việc giao kết hợp đồng khi tham gia giao dịch tại thị
trường chứng khoán, do sự thiếu hiểu biết nên có trường hợp giao kết hợp đồng vô
hiệu và sau đó có những sai phạm dẫn đến nảy sinh tranh chấp.
- Đối với các công ty chứng khoán thì thường lợi dụng sự thiếu hiểu biết của
nhà đầu tư, lợi dụng những khe hở của pháp luật để “thao túng” thị trường, làm ảnh
hưởng đến hoạt động của thị trường, như hiện tượng “làm giá” chứng khoán.
- Ngoài ra còn có các nguyên nhân như quy định pháp luật về chứng khoán
chưa hoàn thiện, sự quản lý và giám sát của nhà nước chưa chặt chẽ…
Trên cơ sở đó, để hạn chế những tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán cần
thiết phải giảm thiểu những nguyên nhân gây ra tranh chấp bằng cách:
- Hoàn thiện quy định pháp luật chứng khoán theo hướng đồng bộ, chặt chẽ,
tránh sự lợi dụng kẽ hở pháp luật để có hành vi trục lợi.
- Tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với
hoạt động chứng khoán, đặc biệt là hoạt động của thị trường chứng khoán. Qua đó,
đảm bảo sự minh bạch của thị trường, hạn chế tới mức thấp nhất những tổn thất,
rủi ro cho các chủ thể.
- Tăng cường hiểu biết cho các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán,
nhất là các nhà đầu tư thông qua việc đưa tin tức trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Đặc biệt, với những giao dịch có liên quan đến hợp đồng cần có sự hiểu
biết của các chủ thể trong việc giao kết hợp đồng cũng như nâng cao ý thức trách
nhiệm hợp đồng, tránh những tranh chấp xảy ra.
2. Khuyến nghị để giải quyết tốt tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán

13


2.1. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng
khoán
Để có thể giải quyết tốt các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán, việc
làm có ý nghĩa quan trọng đầu tiên là phải hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán, hoàn thiện các cơ chế giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực chứng khoán:
- Ban hành văn bản pháp luật về hòa giải tranh chấp trên thị trường chứng
khoán. Bất kỳ nhà kinh doanh nào, trong lĩnh vực nào đều thừa nhận tính ưu việt
của việc giải quyết tranh chấp bằng hào giải. Đối với hòa giải tranh chấp trong lĩnh
vực chứng khoán cần phải có những quy định riêng ghi nhận vai trò trung gian hòa
giải cảu một số tổ chức chuyên môn như Sở Giao dịch chứng khoán, hiệp hội các
nhà kinh doanh chứng khoán hoặc có thể là đơn vị thuộc cơ quan quản lý nhà nước
về thị trường chứng khoán thì pháp luật các nước thường cho phép mỗi sở giao
dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán ban hành bản quy tắc
riêng về hòa giải cho tổ chức mình.
Văn bản về hòa giải tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán với tư cách là
phương thức giải quyết tranh chấp độc lập có thể bao gồm một số nội dung chính:
+ Về phạm vi áp dụng: áp dụng cho mọi tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực
chứng khoán.
+ Về hòa giải viên: phải quy định cụ thể các điều kiện trở thành hòa giải
viên tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
+ Về cơ cấu ban hòa giải: ban hòa giải có thể gồm một hoặc một số hòa giải
viên tùy thuộc vào độ phức tạp của vụ tranh chấp và yêu cầu từ phía các bên có
tranh chấp. Đối với những tranh chấp có tính phức tạp, ban hòa giải phải từ hai
thành viên trở lên. Tuy nhiên, thực tế hoạt động chứng khoán, quản lý nhà nước về
chứng khoán ở thị trường chứng khoán Việt Nam đã chỉ ra rằng trình độ hiểu biết
pháp luật và áp dụng pháp luật của các chuyên gia chứng khoán chưa đủ để giải

quyết mọi vấn đề pháp lý phát sinh. Do vậy, trong thành phần ban hòa giải phải có
ít nhất một hòa giải viên là chuyên gia pháp lý trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
+ Về trình tự thủ tục tiến hành hòa giải: quy địnhcuj thể các bước tiến hành
để hòa giải một vụ tranh chấp trên thị trường, bắt đầu từ khi các bên đề xuất
nguyện vọng giải quyết tranh chấp bằng hòa giải, lựa chọn hòa giải viên, tổ chức
phiên hòa giải và cuối cùng là việc ghi nhận kết quả hòa giải.
- Cần mở rộng thẩm quyền hòa giải của Sở giao dịch chứng khoán, trung
tâm giao dịch chứng khoán, đồng thời ghi nhận vai trò trung gian hòa giải của một
số tổ chức khác hoạt động trên thị trường chứng khoán.
- Hoàn thiện các quy định về trọng tài thương mại đói với việc giải quyết
tranh chấp trên thị trường chứng khoán

14


+ Sửa đổi một số quy định trong pháp lệnh trọng tài thương mại nhằm tạo cơ
sở đúng đắn cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trọng tài giải quyết tranh
chấp trên thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, cần mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
thương mại.
Thứ hai, cần sửa đổi kịp thời quy định liên quan đến thời hiệu khởi kiện giải
quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài theo hướng xác định lại thời điểm dùng làm
mốc để xác định thời hiệu khởi kiện. Nên tính thời hiệu khởi kiện từ ngày quyền và
lợi ích bị xâm phạm như trong tố tụng tòa án.
Thứ ba, pháp luật không nên quy định bắt buộc trọng tài viên phải là công
dân Việt Nam. Pháp luật nên cho phép người nước ngoài cũng có thể trở thành
trọng tài viên để giải quyết tranh chấp tại Việt Nam nếu họ đáp ứng các điều kiện
do pháp luật và từng trung tâm trọng tài đặt ra.
Thứ tư, bổ sung quy định về số lượng trọng tài viên trong một hội đồng

trọng tài để nâng cao chất lượng làm việc của hội đồng trọng tài trên cơ sở tôn
trọng quyền định đoạt của các bên.
+ Cần quy định cụ thể hóa một số vấn đề quan trọng về trọng tài trong quá
trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán.
Thứ nhất, quy định thời hiệu khởi kiện riêng đối với tranh chấp trong lĩnh
vực chứng khoán theo hướng tăng thời hiệu.
Thứ hai, cụ thể hóa tiêu chuẩn trọng tài viên trong lĩnh vực giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực chứng khoán nhằm xây dựng đội ngũ trọng tài viên chuyên
biệt, góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp chứng khoán.
- Hoàn thiện một số quy định liên quan đến việc giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực chứng khoán tại Tòa án:
+ Xác định lại thẩm quyền theo cấp của Tòa án đối với một số tranh chấp
trên thị trường chứng khoán.
+ Cần phải quy định hướng dẫn cụ thể một số vấn đề trong quá trình giải
quyết tranh chấp trên thị trường chứng khoán.
Thứ nhất, phải ban hành quy định hướng dẫn cụ thể cách xác định “chứng
khoán ở nước ngoài” trong đó chứng khoán với tư cách là tài sản liên quan đến
tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán, để từ đó xác định chính xác thẩm quyền
giải quyết của tòa án cấp tỉnh và tòa án cấp huyện.
Thứ hai, vấn đề xác định nơi thực hiện hợp đồng mua bán chứng khoán trên
thị trường chứng khoán. Theo quy định hiện hành, tranh chấp phát sinh từ quan hệ
hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải
quyết. Trên thị trường chứng khoán tập trung, việc mua bán chứng khoán phải
được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là công ty chứng khoán. Bên mua và
bên bán không cần thực hiện bất cứ hành vi nào nhằm thực hiện hợp đồng ngoại
trừ hành vi đặt lệnh bán hoặc mua tại công ty chứng khoán. Căn cứ quy trình này,
nơi hợp đồng được thực hiện có thể được xác định theo nhiều cách khác nhau: nơi
15



thực hiện hành vi chuyển giao chứng khoán, nơi thực hiện hành vi thanh toán tiền
hoặc nơi lệnh được khớp.
2.2. Nâng cao năng lực thực tiễn trong giải quyết tranh chấp trong lĩnh
vực chứng khoán
- Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm trọng tài cũng như tòa án
trong hoạt động giải quyết tranh chấp. Tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của đội ngũ thẩm phán trong các tòa
án, đặt ra điều kiện về trình độ, năng lực đối với các trọng tài viên cũng như có sự
tuyển chọn kỹ lưỡng lực lượng hòa giải viên.
- Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý. Giải quyết tranh chấp trong
lĩnh vực chứng khoán cũng là một trong những nội dung của quản lý nhà nước nên
cần thiết phải nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán
bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán.
Giải quyết tốt tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán sẽ góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, bảo đảm hoạt
động của thị trường chứng khoán qua đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật chứng khoán, Nxb. CAND,
Hà Nội, 2008.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2008.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2008.
4. Luật Chứng khoán 2006.
5. Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003.
6. Bộ luật tố tụng dân sự 2005.
7. Nguyễn Thị Phương Thảo, “Pháp luật về giải quyết tranh chấp trên thị
trường chứng khoán Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà
Nội, 2006.
8. Phạm Thị Giang Thu, “Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp trên thị

trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Luật học, năm 2002.

16



×