Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Một số vấn đề về lãi suất trong hợp đồng vay tiền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.5 KB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Để tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Đảng và Nhà nước
ta luôn luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát
triển một cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới.
Những giải pháp đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã thu được những kết
quả khả quan, trong đó có những biện pháp quy định về lãi suất. Việc điều chỉnh
lãi suất hợp lí sẽ giúp phát triển nền kinh tế. Do vậy để hiểu hơn về vấn đề lãi
suất sau đây chúng ta cùng tìm hiểu “ Một số vấn đề về lãi suất trong hợp đồng
vay tiền”.
B. NỘI DUNG
I. Lãi suất và đặc điểm của lãi suất
1. Khái niệm lãi suất
Lãi suất trong hợp đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm
vào số tiền đã vay tính theo đơn vị thời gian. Lãi suất thường được tính theo
tuần, tháng hoặc năm do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định. Căn cứ
vào lãi suất số tiền vay và thời gian vay mà bên vay phải trả một số tiền nhất
định. Số tiền này tỉ lệ thuận với lãi suất, số tiền đã vay và thời gian vay. Trong
trường hợp các bên không có thoả thuận về lãi suất thì hợp đồng vay tiền sẽ
không có lãi suất. Nếu các bên có thoả thuận về lãi suất thì không được vượt
quá “150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố đối
với loại cho vay tương ứng”. Như vậy, nếu các bên thoả thuận về lãi suất gấp
hai, ba hoặc nhiều lần lãi suất của Ngân hàng Nhà nước công bố thì khi tranh
chấp xảy ra, mức lãi suất tối đa mà Toà án chấp nhận không vượt quá “150%
mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng”.
2. Đặc điểm của lãi suất
Là một công cụ để tính lợi nhuận nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh
thần của cảbên cho vay và bên vay, lãi suất có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài sản:
Qua nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng đầu tư,
cho thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy nhiên, lãi
1




suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong hợp đồng vay
bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó phải có một
tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong các hợp
đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở đểtính lãi còn dựa trên nhiều yếu
tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong hợp đồng vay thì cơ
sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật
quy định.
Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát sinh do
thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc: Bản chất của lãi
suất là một tỉlệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền
vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như
không tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài
sản.
Thứ ba, lãi suất được tính dựa trên số vay gốc và thời hạn vay (thời gian vay):
Như đã phân tích ở trên, lãi suất tỉ lệ thuận với vốn gốc và thời hạn vay. Do đó,
tương ứng với sốnợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có
thể thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
II. Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất.
Có thể thấy Nhà nước không phải lúc nào cũng kiểm soát được hết mọi quan
hệ pháp luật cho nên có tình trạng nhiều vi phạm pháp luật nằm ngoài vòng
kiểm soát của pháp luật. Điều này hoàn toàn dễ hiểu khi các văn bản pháp luật
của nước ta còn thiếu cụ thể, tính khả thi không cao, hơn nữa luật nước ta là luật
khung, muốn thi hành được trên thực tếphải có Nghị định hướng dẫn thi hành.
Vấn đề lãi suất trong hợp đồng vay cũng rơi vào tình trạng này. Trong BLDS
2005 chỉ quy định duy nhất một điều về lãi suất một cách trực tiếp: “Điều 476.
Lãi suất
1. Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

2. Trong trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác
định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do
Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”
2


Việc quy định chỉ một điều luật trực tiếp về lãi suất trong BLDS 2005 là quá
khái quát sẽtạo khe hở cho nhiều đối tượng “lách luật”, cố tình làm biến thái đi
và lợi dụng nó đểkinh doanh, tổ chức thực hiện một số hình thức không lành
mạnh. Lãi suất cơ bản được quy định trong điều 476 bỗng dưng đã gây tranh cãi
xem có nên sửa đổi hay không. Lãi suất này tự dưng trở thành mốc để suy ra lãi
suất trần. Ví dụ có thời điểm lãi suất cơ bản lãi 12%/năm suy ra lãi suất cho vay
tối đa sẽ ở mức 18%/năm. Tức là một điều luật nhằm ngăn chặn hiện tượng cho
vay nặng lãi ngoài xã hội bỗng trở thành yếu tố điều tiết lãi suất của hệ thống
ngân hàng chính thống. Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên
thoả thuận; tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo
cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp
không có cơ sở xác định rõ mức lãi đã thỏa thuận, mà pháp luật dân sự quy định
phương thức để xác định một mức lãi suất nào đó được xem là hợp lý và tiêu
chuẩn được BLDS năm 1995 lựa chọn là căn cứ vào cơ chế điều hành trần lãi
suất của Ngân hàng Nhà nước, tức mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà
nước quy định từng thời điểm đối với loại cho vay tương ứng.
BLDS 1995 cũng như BLDS 2005 quy định một điều duy nhất về lãi suất
nhưng so với Bộ luật này, BLDS 2005 có những thay đổi căn bản. Đối với
BLDS 1995 thì chỉ quy định “lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không
được vượt quá 50% của mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định
đối với loại cho vay tương ứng”. Thực tế cho thấy khi áp dụng quy định này
trong nhiều năm có nhiều bất cập và không còn phù hợp nữa, thay vào đó là quy
định “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không được vượt quá 150% của
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương

ứng”. Quy định mới này đã dễ hiểu hơn, thực tế hơn và hiệu quả hơn và sau gần
bốn năm thực hiện quy định về lãi suất này, từ ngày 01/01/2006 – ngày BLDS
2005 có hiệu lực thi hành, chúng ta đã thu được những kết quả đáng mừng. Tại
sao lại có sự thay đổi đó? Đó là vì cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà
nước đã có nhiều thay đổi, cơ chế điều hành trần lãi suất được thay thế bằng cơ
3


chế điều hành lãi suất cơ bản. Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 quy định:
“Lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các
Tổ chức tín dụng (TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh”; “Ngân hàng Nhà nước
xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”. Mặc dù vậy, phải
đến 02/8/2000, Ngân hàng Nhà nước mới ban hành Quyết định số
241/2000/QĐ-NHNN (có hiệu lực từ ngày 5/8/2000) chính thức bắt đầu thực
hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng Đồng Việt Nam thay
cho cơ chếđiều hành trần lãi suất cho vay. Hệ quả là: từ thời gian này cho đến
trước khi BLDS năm 2005 có hiệu lực, rõ ràng đã tồn tại một khoảng trống
pháp lý khi có sự bất tương đồng giữa Điều 473 BLDS năm 1995 với Luật
Ngân hàng Nhà nước 1997 và Quyết định số241/2000/QĐ-NHNN1 về tiêu chí
so sánh (lãi suất trần và lãi suất cơ bản), Toà án không có cơ sở để dẫn chiếu khi
giải quyết các tranh chấp về lãi suất phát sinh trong thời gian ấy. Thay thế cho
BLDS năm 1995 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, về nội dung này, BLDS
năm 2005 quy định: “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay
tương ứng”. Đây là sự pháp điển hoá Luật Ngân hàng Nhà nước, Quyết định
241/2000/QĐ-NHNN1 vào trong BLDS mới một cách hợp lý và tất yếu.
Như vậy, nếu như cơ sở tồn tại của tiêu chí so sánh đã được BLDS năm
2005 giải quyết hợp lý, thì trong lời văn của điều luật lại phát sinh một vấn đề
khác, đó là sự khác nhau về mức lãi suất thoả thuận tối đa được phép (bị khống
chế) giữa 2 quy định tương ứng trong hai Bộ luật dân sự. Vấn đề đặt ra cho

chúng ta là cần thống nhất cách hiểu và cách tính toán mức lãi suất cho vay tối
đa này của BLDS năm 2005 như thế nào để không phạm luật? Hay nói cách
khác, với quy định trên ta cần quan niệm giá trị 150% là của phần vượt quá so
với lãi suất cơ bản hay là tỷ lệ so sánh thuần tuý giữa chúng với nhau – lãi suất
thoả thuận với lãi suất cơ bản?
Theo quy định của BLDS năm 1995 (Khoản 1, Điều 473) thì mức lãi suất
thoả thuận tối đa không vượt quá 50% (của lãi suất trần do NHNN quy định đối
với loại cho vay tương ứng). Trong thực tiễn áp dụng pháp luật suốt thời gian
4


qua thì cái ngưỡng 50% này luôn được hiểu và vận dụng nhất quán: lãi suất thoả
thuận không được vượt giới hạn nhiều hơn gấp rưỡi, nghĩa là phần vượt quá
phải ít hơn hoặc bằng 50% (và được xác định theo công thức: mức lãi suất thoả
thuận tối đa được phép = lãi suất trần + lãi suất trần x 50%). Hiển nhiên sẽ là
phi lý nếu xem ngưỡng 50% ấy chỉ là phân nửa (của lãi suất trần do NHNN quy
định) bởi không lẽ pháp luật lại buộc các thoả thuận dân sự trong xã hội (bao
gồm cả hoạt động cho vay của ngân hàng) chỉ được thoả thuận mức lãi suất vay
tối đa bằng nửa mức lãi suất trần do NHNN quy định (= lãi suất trần x 50%),
thực tiễn giao lưu dân sự và việc giải quyết các tranh chấp dân sự của Toà án
cũng không bao giờ diễn dịch theo ý tứ này. Có lẽ ở nội dung này, chúng ta cần
mặc nhiên thừa nhận bởi sự lý giải rõ ràng của chính thực tiễn áp dụng và thực
thi BLDS năm 1995. Tuy nhiên, dường nhưvẫn có điều gì đó bất ổn, phải chăng
thực tiễn áp dụng luật có thể là đúng với ý đồ nhà làm luật nhưng cách diễn đạt
của điều luật số 473 lại hàm chứa thiếu sót là chưa phản ánh đúng tinh thần ấy?
Đến BLDS năm 2005, tại khoản 1, Điều 476, ngưỡng tối đa được phép của
lãi suất vay thoả thuận nêu trên đã có sự chỉnh lý – thay giá trị 50% bằng giá trị
150%
- Với cùng lập luận như cách hiểu về tinh thần và thực tiễn thi hành BLDS năm
1995 thì nên chăng ta cần nhất quán cách xác định ngưỡng này là tiếp tục căn

cứ vào giá trị của phần vượt quá, nếu mức lãi suất cơ bản là 1% thì mức lãi suất
tối đa được phép thoảthuận sẽ là 2,5% (= 1% + 1% x 150%), trong đó phần
vượt quá là 1,5%, tức bằng 150% của mức lãi suất cơ bản 1% (nghĩa là tiếp tục
xác lập theo công thức: mức lãi suất thoảthuận tối đa được phép = lãi suất cơ
bản + lãi suất cơ bản x 150%).
Hay nói cách khác, BLDS năm 2005 đã nâng giá trị tỷ lệ xác định mức tối đa
của lãi suất thoả thuận được phép, so với BLDS năm 1995 (đồng thời thay đổi
đối tượng so sánh lãi suất trần bằng lãi suất cơ bản).
- Nhưng còn có một khả năng khác: phải chăng lời văn khoản 1, Điều 473,
BLDS năm 1995 đã không chuyển tải đúng ý đồ nhà làm luật (thay vì phải xác
định giá trị của tỷ lệcần so sánh trực tiếp giữa 2 mức lãi suất là đối tượng cần
5


quan tâm với nhau chứ không thể bóc tách phần vượt quá để so sánh – nghĩa là
phải lấy giá trị 150% chứ không phải là 50%), và để giải quyết bất cập ấy mà
BLDS năm 2005 về câu chữ “tưởng như” đã nâng số giá trị % của mức ngưỡng
tối đa, song nội dung thực tế là không tăng mà chỉ đơn giản là trả lại tỷ lệ % cần
so sánh về đúng với sự hợp lý của ý tứ lời văn điều luật, theo đó: “Lãi suất vay
do các bên thoả thuận nhưng không vượt quá 150% của lãi suất cơ
bản…”sẽ được hiểu và tính toán bởi công thức: mức lãi suất thoả thuận tối đa =
lãi suất cơ bản x 150%. Như vậy, Đ476 BLDS năm 2005 còn ẩn chứa điều gì
chưa rõ ràng và cần có sự giải thích kịp thời của Quốc hội, trước hết là sự
hướng dẫn áp dụng pháp luật của liên ngành các cơ quan tư pháp trung ương về
vấn đề nêu trên.
Để dễ nhận thấy sự khác biệt giữa hai Điều luật, ta so sánh, đối chiếu như
sau:
Khoản 1 Điều 473 BLDS 1995 Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 Qui định:
“Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 50% của lãi
suất cao nhất (nay là lãi suất cơ bản) do Ngân hàng nhà nước quy định(công bố)

đối với các loại cho vay tương ứng”. Qui định: “Lãi suất vay do các bên thỏa
thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà
nước công bố đối với các loại cho vay tương ứng”. Ví dụ: Thời điểm C vay D là
tháng 12-1995. Theo Quyết định số 381-QĐ/NH1 ngày 28-12-1995 thì lãi suất
cao nhất của loại vay trung hạn và dài hạn là 1,7%/tháng. Như vậytoà án chỉ
chấp nhận mức lãi suất của hợp đồng vay nợ là 2,55%/tháng. (1,7% + 1,7%
x 50% = 2,55%/tháng). Từ Ví dụ trên, áp dụng toán học ta có công thức tính lãi
suất cho vay, như sau: Gọi A: là lãi suất cơ bản; B: là Lãi suất cho vay tối đa. Ta
có: B = A + A x 50% = A (1+50%) [Qui đổi 1=100%] = Ví dụ: Thời điểm C vay
D là tháng 03-2008. Theo Quyết định số 479-QĐ/NHNN ngày 29/02/2008 thì
lãi suất cao cơ bản là 8,75%/năm. Như vậy Toà án chỉ chấp nhận mức lãi suất
của hợp đồng vay nợ là 21,875%/năm (8,75% + 8,75% x 150% = 21,875/năm).
Từ Ví dụ trên, áp dụng toán học ta có công thức tính lãi suất cho vay nhưsau:
Gọi A: là Lãi suất cơ bản; B: là Lãi suất cho vay tối đa. Ta có: B= A + A x 150%
6


= A (1+150%) [Qui đổi 1=100%] = A A (100%+50%) = A x 150% hay B= A x
1,5lần (100%+150%) = A x 250% hay B = A x 2,5 lần. Tóm lại: Theo BLDS
1995, nếu mức lãi suất do các bên thoả thuận vượt quá 50% của lãi suất cao
nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại vay tương ứng tại thời điểm
vay, thì toà án áp dụng khoản 1 Điều 473 BLDS1995 buộc bên vay phải trả lãi
bằng 150% mức lãi suất cao nhất do Ngân hàng Nhà nước quy định đối với loại
vay tương ứng. Theo BLDS 2005, nếu mức lãi suất do các bên thoả thuận vượt
quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại vay
tương ứng tại thời điểm vay, thì toà án áp dụng khoản 1 Điều BLDS 2005 buộc
bên vay phải trả lãi bằng 250% mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố đối với loại vay tương ứng.
Như vậy với cách hiểu và tính toán trên ta có: Gọi A: Lãi suất cơ bản do
Ngân hàng nhà nước công bố, thì lãi suất cho vay của các Ngân hàng sẽ không

được vượt quá: A + A x 150% = A (1+150%) = A (100%+150%) = A x 250% =
A x 2,5 lần. Như vậy mức lãi suất cơ bản được NHNN công bố là 8,75%/năm
thì mức lãi suất cho vay của các ngân hàng không được vượt quá: 8,75% x
250% = 21,875%/năm. Nếu các ngân hàng cho vay trên mức 21,875%/năm (hay
1,82%/tháng) là phạm luật. Đây là những quan điểm của các luật sư và các nhà
chuyên môn mà những quan điểm này được đánh giá rất cao và là cơ sở để thế
hệ chúng tôi học tập. Một điều luật có thểdẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
nhưng với cách hiểu của mình tôi thiết nghĩ nếu hiểu nội dung của điều 476
BLDS 2005 là quy định lãi suất không được vượt quá 250% lãi suất cơ bản thì
không ổn. Vì khi quy định như thế chẳng khác nào là khuyến khích cho vay
nặng lãi. Một đòi hỏi bức thiết là cần phải giải thích luật một cách rõ ràng, cụ
thể để tránh tình trạng có những quan điểm khác nhau.
Các hợp đồng dân sự luôn mang trong nó tính chất “thoả thuận giữa các bên”
tuy nhiên pháp luật cũng hạn chế quyền của người cho vay trong hợp đồng vay
tiền có lãi suất bằng cách “Lãi suất vay do các bên thoả thuận nhưng không
được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối
7


với loại cho vay tương ứng”. Nhưng “quy định vẫn chỉ là quy định”, không có
chế tài áp dụng thì việc đưa ra các quy định này cũng không mang lại kết quả
như ý muốn. Nếu có chế tài áp dụng đối với việc quy định lãi suất cũng chỉ là
chế tài hành chính, trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại một khoản
tiền mà bên vay chứng minh được việc vay với lãi suất vượt qua mức quy định
của pháp luật của bên cho vay gây thiệt hại cho mình. Hơn nữa, nhu cầu đi vay
của người vay thường trong những trường hợp cấp bách và cần thiết, việc tuyên
bố hợp đồng vô hiệu của Toà án đôi khi làm ảnh hưởng đến công việc của người
đi vay. Cần phải có những quy định và chế tài cụ thể để hạn chế tình hình trên.
Việc quy định lãi suất quá cao sẽ không chỉ gây ảnh hưởng cho nền kinh tế mà
còn ảnh hưởng đến chính bên cho vay. Khi lãi suất của bên cho vay cao sẽ khiến

các doanh nghiệp, các cá nhân… (bên vay) không vay dẫn đến tình trạng tiền bị
đọng lại và không phát huy được giá trị sinh lời của nó. Doanh nghiệp vay tiền
là để đầu tư nhưng với mức lãi suất cao sẽ dự tính việc đầu tư không có lãi nên
các doanh nghiệp không vay là đương nhiên. Còn cá nhân, họ cần tiền cũng có
thể để đầu tư, cũng có thể vay để chi trả cho một công việc nào đó hay để đảm
bảo cho cuộc sống hàng ngày… lãi suất cao khiến những người này không có
khả năng trả cả gốc lẫn lãi nên họ “không dám” vay. Và như vậy
nguồn tiền trong các Ngân hàng, nguồn tiền dự trữ trong nhân dân không những
không đem lại hiệu quả mà còn gây khó khăn cho các doanh nghiệp, các cá
nhân… muốn vay.
Việc quy định lãi suất thấp so với sự phát triển và tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tếcũng không ổn. Việc quy định lãi suất thấp chỉ áp dụng cho các đối
tượng ưu tiên mà pháp luật quy định còn mặt bằng chung phải phù hợp với mọi
nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất (lạm phát hay giảm phát, kinh tế phát triển hay
chậm phát triển…). Lãi suất thấp sẽlàm giảm hiệu quả của đồng tiền, làm giảm
sự phát triển kinh tế, làm giảm nguồn thu của bên cho vay. Nhìn một cách khách
quan, lãi suất thấp chỉ có lợi trước mắt cho bên vay. Nhưng cái lợi trước mắt
không phải là mục tiêu mà Nhà nước hướng tới. Như vậy, việc quy định lãi suất
quá cao hay quá thấp đều không mang lại hiệu quả. Nhà nước tính toán làm sao
8


để pháp luật có những quy định hợp lý không làm giảm hiệu quảcủa giá trị đồng
tiền mang lại cũng không ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia
hợp đồng vay, đem lại sự phát triển bền vững và lâu dài cho nền kinh tế.
Hơn nữa có thể thấy sự bất cập và thiếu chặt chẽ còn thể hiện ở chỗ: lãi suất
được quy định trong BLDS 2005 phải ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất cơ
bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp A cho
B vay với lãi suất là 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố

trong thời gian 1 năm nhưng hết 1 năm B vẫn chưa trả cho A, lúc này phát sinh
lãi suất quá hạn và lãi suất này được tính như thế nào? Nếu A và B có thoả
thuận về mức lãi suất quá hạn nhưng mức lãi suất này lại vượt quá 150% mức
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố (vì lãi suất đúng hạn mà A và B
thoả thuận đã bằng 150% lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước) thì lúc này
hậu quả sẽ ra sao? Việc áp dụng Điều 476 BLDS 2005 có thực sự hiệu quả? Nếu
trường hợp A và B không thoả thuận về lãi suất quá hạn thì việc tính lãi suất này
sẽ theo quy định của pháp luật, tức là vẫn ≤ (nhỏ hơn hoặc bằng) 150% lãi suất
cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố, như vậy việc phân loại lãi suất đúng
hạn và lãi suất quá hạn không còn ý nghĩa bởi vì cách tính lãi suất đúng hạn và
lãi suất quá hạn là như nhau. Hiện nay, lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng tại
một số ngân hàng đã bắt đầu cán đích 10%, trong khi lãi suất cơ bản vẫn giữ
nguyên 7% và trần cho vay tối đa không quá 10,5%/năm. Bằng phép tính đơn
giản cũng có thể nhận ra rằng không có lý do gì để ngân hàng đẩy lãi suất lên để
gánh lấy thua lỗ, trừ khi lâm vào tình huống gặp khó khăn trong
thanh khoản. Thật ra, nguyên nhân chính ở đây là do một số ngân hàng đang
chuyển hướng mạnh sang cho vay tiêu dùng theo cơ chế lãi suất thỏa thuận, với
mức lãi suất bình quân từ 12-15%/năm, chênh lệch giữa đầu ra – đầu vào lên
đến 4-5 điểm phần trăm/năm, một tỷ lệ thực sự hấp dẫn nếu chúng ta biết rằng
trong tín dụng nếu duy trì chênh lệch khoảng 3,5 điểm phần trăm/năm là có thể
tạm yên tâm về tài chính. Việc điều hành thông qua cơ chế “hai giá”, vừa duy trì
lãi suất trần vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận, tưởng chừng là lối thoát tài chính
9


hợp lý cho các ngân hàng thương mại, nhưng vô hình trung đã nắn dòng chảy
tín dụng ngày càng trở nên bất cập. Do sức hấp dẫn của chênh lệch lãi suất, vốn
tín dụng tất yếu chảy dồn vào các kênh tiêu dùng, đáng kể nhất hiện nay là bất
động sản và chứng khoán. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước vẫn đang khẳng định
dư nợ cho vay chứng khoán và bất động sản hạch toán trên sổ sách nhìn chung

chưa có biến động lớn vượt tầm kiểm soát, đây là ý kiến đáng lưu ý vì nhiều nhà
quan sát cho rằng sở dĩ thịtrường chứng khoán thời gian qua nóng lên bất
thường phần lớn là do sự tiếp sức nhanh và mạnh từ các luồng tiền ngân hàng.
Hiện tại, các NHNN đang tổ chức lấy ý kiến góp ý vào Dự thảo Luật NHNN
Việt Nam (sửa đổi) và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi). Một trong
những điểm mới mà luật đưa ra là TCTD và khách hàng có thể tự thỏa thuận
mức lãi suất.
Việc thỏa thuận lãi suất sẽ khiến việc huy động vốn dễ hơn. Dự thảo Luật
Ngân hàng Nhà Nước và Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng sẽ chính thức trình
Quốc hội thông qua vào năm2010. Dự thảo Luật Các TCTD sửa đổi gồm 10
chương, 164 điều. Nhận được nhiều ý kiến đồng tình khi trao quyền cho TCTD
và khách hàng thỏa thuận mức lãi suất trong các hoạt
động ngân hàng, không phụ thuộc vào quy định của Bộ luật Dân sự vì bản chất
hoạt động kinh doanh ngân hàng của TCTD khác về bản chất với hoạt động cho
vay trong quan hệdân sự thông thường. Đặc biệt, việc áp dụng trần lãi suất có
thể làm cho lãi suất trên thịtrường liên ngân hàng không phản ánh đúng và đầy
đủ tình trạng thanh toán của các ngân hàng, qua đó đã vô hiệu hóa một tín hiệu
quan trọng nhất để điều hành chính sách tiền tệ…
Như vậy chiếu theo Khoản 1 Điều 476 BLDS 2005 “Lãi suất cho vay do các
bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN
công bố đối với loại cho vay tương ứng” thì rất nhiều Ngân hàng đang vi phạm
luật bởi lãi suất cơ bản do NHNN công bố hiện chỉ 7%/năm tức lãi suất cho vay
không được vượt quá 10,5%/năm. Dường như, thời gian qua nắm được điểm
yếu này, các Ngân hàng tha hồ nâng lãi suất, ký những hợp đồng phạm luật mà
không e ngại. Một vấn đề cũng rất cần quan tâm đó là hiện tượng các Ngân
10


hàng hiện nay cho vay với các điều kiện vô lý. Ví dụ: muốn vay 10.000.000
đồng (mười triệu đồng) để đầu tư phải thoả mãn điều kiện có 10 héc ta (ha) đất

không thì phải trả lãi suất cao mới được vay. Nhưng rất ít hộ dân có tới 10 ha
đất. Tác giả cho rằng không nên quy định hạn mức mà điều kiện cho vay cần
phụ thuộc nhiều yếu tố. Vì nếu hộ dân có 1, 2 sào thì chỉ được vay 1, 2 triệu
đồng như vậy không đủ để đầu tư. Hơn nữa, nếu trên mảnh đất “1, 2 sào” đó lại
có tiềm năng phát triển thì như vậy quy định của các ngân hàng lại gián tiếp làm
ảnh hưởng đến nền kinh tế. Nếu chấp nhận vay thì người dân phải chấp nhận
một lãi suất cao “ngút trời”. Các ngân hàng đã vin vào các điều kiện vô lý này
để tiến hành cho vay nặng lãi. Dư luận đang chờ các cơ quan có thẩm quyền
giải bài toán “cho vay nặng lãi” của các ngân hàng.
III. Một số vấn đề cơ bản về hợp đồng vay tiền
1. Khái niệm hợp đồng vay tiền
Hợp đồng vay tiền là một loại hợp đồng vay tài sản, dựa trên định nghĩa về
Hợp đồng (Điều 388 – BLDS 2005) và Hợp đồng vay tài sản (Điều 471 – BLDS
2005) ta có thể định nghĩa về hợp đồng vay tiền như sau: hợp đồng vay tiền là
sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tiền cho bên vay; khi đến
hạn trả bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay đúng số lượng và chỉ phải trả lãi
nếu có thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng có sự thoả thuận về lãi suất hoặc
lãi suất do pháp luật quy định. Khi tranh chấp xẩy ra đòi hỏi thẩm phán phải
quan tâm để giải quyết cả về việc trả tiền nợ gốc, nợ lãi, bao gồm cả lãi suất và
thời gian tính lãi nợ quá hạn kể từ khi hết hạn vay, với hợp đồng vay không có
thờ
2. Đặc điểm của hợp đồng vay tiền
Qua những phân tích ở trên, hợp đồng vay tiền có những đặc điểm pháp lý
sau:
Thứ nhất, hợp đồng vay tiền là hợp đồng chuyển quyền sở hữu đối với số
tiền vay, khi bên vay nhận tiền. Bên vay có toàn quyền đối với tiền vay trừ
11



trường hợp vay tiền có điều kiện sử dụng. Ví dụ: A thoả thuận với B không
được sử dụng khoản tiền mà A cho B vay để chi tiêu vào việc kinh doanh, chỉ
được mua sắm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hành ngày…
Thứ hai, hợp đồng vay tiền có lãi suất là hợp đồng song vụ. Nghĩa là các bên
chủ thể trong hợp đồng (bên cho vay và bên vay) đều có nghĩa vụ đối với nhau
(theo khoản 1 điều 406 – BLDS 2005), hay nói cách khác mỗi bên chủ thể trong
hợp đồng vay tiền có lãi suất là người vừa có quyền vừa có nghĩa vụ dân sự.
Trong nội dung của hợp đồng, quyền dân sự của bên này đối lập tương ứng với
nghĩa vụ bên kia và ngược lại. Tức là bên cho vay có nghĩa vụ chuyển tiền đúng
thời hạn, bên vay có nghĩa vụ nhận tiền và phải trả cả gốc và lãi đúng thời hạn
theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi các bên vi phạm nghĩa vụ
nêu trên thì sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự.
Thứ ba, hợp đồng vay tiền là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, vấn đề mà chúng ta đề cập tới là lãi
suất trong hợp đồng vay tiền nên hợp đồng vay có lãi suất là hợp đồng vay có
đền bù. Các bên chủ thể sau khi thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được
từ bên kia một lợi ích tương ứng. Chúng ta biết rằng bản chất của các giao dịch
dân sự mang tính đền bù tương đương và đặc điểm cơ bản của quan hệ tài sản
trong giao lưu dân sự là sự trao đổi ngang giá. Khi cho vay một khoản tiền nhất
định thì trong một thời hạn có thể do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy
định phải có một khoản tiền phát sinh để đền bù cho sự đầu tư cho vay tiền của
bên cho vay nhằm thoả mãn nhu cầu của bên cho vay.
3. Đối tượng và kỳ hạn của hợp đồng vay tiền
3.1. Đối tượng
Đối tượng của hợp đồng vay tiền là một khoản tiền nhất định. Sự tiến triển
không ngừng các hoạt động kinh tế dưới các hình thức khác nhau của sản xuất
và trao đổi sản phẩm là sự phát triển của hệ thống tiền tệ. Dù tiền tệ được thể

12



hiện dưới dạng vỏ sò, hạt tiêu, miếng vàng hay tiền giấy chúng đều thể hiện ba
chức năng cơ bản sau:
- Phương tiện trao đổi: Trong hầu hết các giao dịch, tiền đóng vai trò phương
tiện trao đổi – thực chất là thực hiện giá trị của hàng hoá, có nghĩa là nó được sử
dụng mua bán, thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ. Chức năng trao đổi của tiền tệ
khắc phục được những hạn chế của quá trình trao đổi trực tiếp, nhờ đó mà tiết
kiệm các chi phí giao dịch liên quan đến việc tìm kiếm, chờ đợi tác nhân có khả
năng thoã mãn nhu cầu trao đổi.
- Đơn vị tính toán giá trị: Các hàng hoá khi trao đổi với nhau cần có sự so sánh
để hình thành tỉ lệ trao đổi. Chức năng này của tiền tệ biểu hiện giá trị hàng hoá
thành tiền, nhờ đó mà các hàng hoá có thể so sánh với nhau về mặt lượng. Điều
này có tầm quan trọng rất lớn do tiết kiệm được các chi phí giao dịch bởi số lần
hình thành giá trung gian trong trao đổi trực tiếp.
- Phương tiện tích luỹ giá trị: Chức năng này của tiền tệ giúp để tích luỹ sức
mua trong thời gian nhận thu nhập cho đến khi sử dụng chúng bởi thu nhập của
con người thường không được sử dụng ngay một lúc.
Tiền là đối tượng của hợp đồng vay có thể là Việt Nam đồng (VND) hay
ngoại tệ tuỳ theo sự thoả thuận của các bên hoặc pháp luật quy định. Đối tượng
của hợp đồng vay tiền được chuyển từ bên cho vay sang bên vay làm sở hữu.
Bên vay có quyền định đoạt số tiền vay. Khi hết hạn của hợp đồng vay tiền, bên
vay có nghĩa vụ trả cho bên kia số tiền đã vay. Có hợp đồng vay tiền không thoả
thuận thời hạn thì bên vay phải trả số tiền vay bất kỳ lúc nào khi có yêu cầu của
bên cho vay.
3.2. Kỳ hạn
Hợp đồng vay tiền có thể có hoặc không có kỳ hạn (xác định hoặc không xác
định). Nếu hợp đồng vay tiền không thoả thuận về kỳ hạn thì hợp đồng vay tiền
được coi là không có kỳ hạn. Bên cho vay có quyền yêu cầu bên vay phải thực
hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên để tạo điều kiện cho bên vay chuẩn bị
13



tiền, bên cho vay phải báo trước cho bên vay một thời gian hợp lí để thực hiện
hợp đồng. Hết thời gian đó, bên vay buộc phải thực hiện nghĩa vụ của mình
(Điều 447 – BLDS 2005). Nếu hợp đồng không có kỳ hạn thì bên vay có thể
thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, bên cho vay không được từ chối tiếp nhận
việc thực hiện nghĩa vụ của bên vay. Xác định thời điểm chấm dứt hợp đồng
vay tiền có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm dân sự của các
bên và thời hiệu khởi kiện yêu vầu giải quyết tranh chấp về hợp đồng.
Trường hợp hết hạn hợp đồng mà bên vay không trả nợ được thì phải chịu
trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài
này chúng ta đang đề cập tới hợp đồng vay có lãi suất nên bên vay phải trả lãi
trên nợ gốc và lãi quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố
tương ứng với thời hạn chậm trả tại thời điểm trả nợ, nếu có thoả thuận (Khoản
4 Điều 474 – BLDS 2005).
4. Hình thức của hợp đồng vay tiền
Hình thức của hợp đồng vay tiền có thể bằng miệng hoặc bằng văn bản. Hình
thức miệng thường được áp dụng trong những trường hợp như số lượng tiền cho
vay không lớn hoặc giữa các bên có mối quan hệ thân quen. Trường hợp cho
vay bằng miệng nếu xảy ra tranh chấp hợp đồng, bên cho vay phải chứng minh
được là mình đã cho vay một số tiền nhất định. Trong thực tế nếu hình thức của
hợp đồng bằng miệng có tranh chấp thì rất khó xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên. Để làm cơ sở pháp lí cho việc giải quyết hợp đồng vay tiền, các bên
cần phải ký kết hợp đồng bằng văn bản. Các bên có thể tự lập văn bản hoặc yêu
cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận văn bản đó.
5. Quyền và nghĩa vụ của các bên
5.1. Bên cho vay
Nếu hợp đồng vay tiền không có kỳ hạn, bên cho vay có quyền yêu cầu bên
vay trả lại tiền và lãi bất cứ thời gian nào nhưng phải thông báo cho bên vay


14


một thời hạn hợp lí. Hết thời hạn đó là hết hạn của hợp đồng và bên vay không
trả nợ là vi phạm nghĩa vụ trả tiền.
Đối với hợp đồng vay tiền có kì hạn, khi hết hạn của hợp đồng, bên cho vay
có quyền yêu cầu bên vay phải trả cho mình một số tiền tương ứng với số tiền
đã vay cộng với một khoản lãi tính theo lãi suất thời hạn và theo thoả thuận.
Nếu hợp đồng cho vay tiền có áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
nhưng bên vay không thực hiện đúng thời hạn thì bên cho vay có quyền xử lý
tài sản bảo đảm đó hoặc bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ.
Bên cho vay có nghĩa vụ giao tiền đúng số lượng như thoả thuận cho bên vay.
Nếu bên cho vay có ý lừa dối bên vay mà gây thiệt hại cho bên vay thì phải bồi
thường.
5.2. Bên vay
Là người cần đến sự giúp đỡ vật chất của bên cho vay do vậy khi hết thời hạn
của hợp đồng phải tự giác thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình phát sinh từ
hợp đồng đã ký kết. Phải trả đủ tiền gốc và tiền lãi theo thoả thuận hoặc theo
pháp luật quy định. Nếu hợp đồng cho vay không kỳ hạn, khi bên cho vay yêu
cầu trả nợ thì bên vay phải thực hiện hợp đồng trong thời gian thoả thuận. Bên
vay cũng có thể thực hiện hợp đồng bất cứ thời gian nào. Thời điểm này được
coi là thời điểm chấm dứt hợp đồng cho vay tiền không kỳ hạn. Trường hợp các
bên có thoả thuận về mục đích vay, bên cho vay có quyền kiểm tra việc sử dụng
tiền của bên vay có đúng mục đích như thoả thuận hay không. Nếu sử dụng tiền
không đúng mục đích như đã thoả thuận, bên cho vay có quyền huỷ hợp đồng
(Khoản 2 Điều 478 – BLDS 2005).
IV. Phương hướng hoàn thiện pháp luật
Để góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về lãi suất trong hợp đồng vay
tiền, dựa vào thực trạng và những nhận xét nêu ta có thể đưa ra một số giải pháp
sau:

Thứ nhất, trong Bộ luật dân sự cần có quy định rõ về khái niệm lãi suất và
các loại lãi suất. Việc quy định của pháp luật còn bất cập ở chỗ vô tình đồng
15


nhất lãi suất đúng hạn và lãi suất quá hạn, cần có một sự điều chỉnh. BLDS cần
bổ sung thêm khái niệm lãi suất và các loại lãi suất như sau: Lãi suất trong hợp
đồng vay tiền là tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả thêm vào số tiền đã vay tính
theo đơn vị thời gian. Lãi suất đúng hạn là tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả
cho bên cho vay tính trên số tiền đã vay tương ứng với thời hạn mà các bên đã
thoả thuận. Lãi suất quá hạn là tỉ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà bên vay phải
trả cho bên cho vay tương ứng với thời gian chậm trả. Để không gây mâu thuẫn
trong các quy định, các văn bản quy phạm pháp luật nhất thiết phải chỉ rõ:
- Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng;
- Lãi suất đúng hạn mà các Ngân hàng thương mại.
- Lãi suất quá hạn không được vượt quá 150% lãi suất đúng hạn.
Thứ hai, về việc xử lí hậu quả của hợp đồng vay tiền vi phạm quy định về
lãi suất: đối với một số hợp đồng vay tiền đã có hiệu lực và việc thoả thuận lãi
suất vượt quá quy định cho phép của Nhà nước của bên cho vay thì không nên
tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Trong trường hợp này, để bảo vệ quyền lợi cho các
bên Toà án sẽ áp dụng và quy định lại lãi suất chuẩn và hợp lí tại thời điểm bấy
giờ trong hợp đồng vay tiền và hợp đồng cho vay tiền này tiếp tục có hiệu lực.
Cũng cần phải cân nhắc điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và dự liệu “những
trường hợp khác do pháp luật quy định” để không gây mâu thuẫn trong chính
Bộ luật dân sự.
Thứ ba, về chính sách lãi suất: Có thể nói khi lãi suất của ngân hàng Nhà
nước tăng cao hoặc việc cho vay tiền của các cá nhân có quy định mức lãi suất
quá cao sẽ làm giảm nhu cầu đầu tư. Nhu cầu đầu tư là lượng tiền được nắm giữ
nhằm quản lý tài sản một cách linh hoạt và có hiệu quả trên cả hai góc độ: tối đa
hoá lợi nhuận và an toàn. Nói cách khác, công chúng nắm giữ tiền với tư cách

như là một công cụ đầu tư mà không phải là phương tiện để trao đổi. Mức sinh
lời của tiền tệ là bằng 0 hoặc rất thấp so với các hình thức đầu tư khác. Mặc dù
loại hình đầu tư này vẫn tốt hơn mức sinh lời âm mà các loại
hình đầu tư đó có thể mang lại. Tỷ lệ sinh lời của một công cụ đầu tư trong một
giai đoạn là tổng của tỷ lệ lãi suất và tỷ lệ tăng giá; trong khi mức sinh lời từ lãi
suất luôn lớn hơn 0 thì tỉ lệ biến động giá có thể là một số âm. Trong chừng mực
16


sự thiệt hại từ mức giá biến động vượt quá lợi nhuận mang lại từ lãi suất thì tỉ lệ
sinh lời của một công cụ đầu tư là một số âm. Việc đầu tư vừa phải mang lại lợi
nhuận, vừa phải an toàn. Với mức lãi suất cao, người đi vay khó có khả năng
cáng đáng được được cả gốc lẫn lãi. Hệ quả xảy ra là ít người, ít công ty… vay
hoặc vay nhiều để đầu tư có quy mô. Ngược lại, với lãi suất quá thấp, người dân
sẽ không gửi tiền và dẫn đến hoạt động của các Ngân hàng kém hiệu quả, ảnh
hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy, ban hành một chính sách
lãi suất phù hợp kích thích được các hoạt động cho vay tài sản nói chung và vay
tền nói riêng sẽ có tác động không nhot tới sự phát triển ổn định của kinh tế – xã
hội.
Thứ tư, cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân
hàng nói riêng và nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân nói chung: sự biến
đổi của đồng tiền và sự khan hiếm của chính nó tại một số thời điểm trong thời
gian qua đã tạo cơ hội cho các đối tượng cho vay nặng lãi vượt nhiều lần so với
sự quy định của Nhà nước. Trên thực tế, các Ngân hàng có những lúc không có
đủ tiền để cho vay hay chỉ là đưa ra những lí do để tạo khó khăn cho người đi
vay? Chính phủ đưa ra các gói giải pháp để hỗ trợ cho những người nghèo
nhưng việc tiếp cận của các gói giải pháp này tới người dân còn rất
khó khăn. Người dân không chạm tới được những sự hỗ trợ của Nhà nước, may
chăng được tiếp cận nó nhưng cơ chế cho vay tiền của các Ngân hàng đặc biệt
là các tổ chức tín dụng ở vùng sâu, vùng xa đã gây khó khăn cho người đi vay.

Từ những nguyên nhân trên, những người có nhu cầu đi vay, để tránh “phiền
phức”, họ không vay ở các Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng mà vay của
những người “dư dật” của cải và có nhu cầu cho vay để thoả mãn nhu cầu vật
chất của chính mình, nhưng sự biến đổi bất thường của giá trị đồng tiền và việc
vay khó khăn tại các Ngân hàng khiến cho những người cho vay đã cố tình nâng
lãi suất. Một đòi hỏi bức thiết là Nhà nước cần đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ
Ngân hàng và tăng cường kiểm soát các hợp đồng vay tiền.
17


Thứ năm, có thể sửa đổi Điều 474 và 476 của Bộ Luật dân sự theo 2 phương
án
Phương án 1: Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Điều 474 và Điều 476
Bộ Luật dân sự theo hướng “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không
được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố”, quy
định này không điều chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ
chức tín dụng hoạt động theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật
các tổ chức tín dụng.
Phương án 2: Chỉnh sửa Điều 474 và Điều 476 của Bộ Luật dân sự theo
hướng quy định này không áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Theo tác giả
các cơ quan làm luật nên sửa Bộ Luật dân sự theo phương án 1 để đáp ứng
kịp thời cho tình hình kinh tế hiện nay với một nền kinh tế đa dạng, năng động
và nhiều thách thức, nếu chậm ngày nào sẽ gây ách tắc và sự cứng nhắc trong
hoạt động ngân hàng, không đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của nền kinh
tế, nhất là trong giai đoạn đang suy thoái do cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu mang lại. Nếu chọn
Thứ sáu, về vấn đề tranh cãi có nên nâng trần lãi suất? Quy định của pháp
luật hiện hành tại điều 476 BLDS 2005 nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội về
vay, cho vay vốn và các giao dịch dân sự, nhằm ngăn chặn cho vay nặng lãi,

mang tính bóc lột không phù hợp với bản chất của Nhà nước ta. Trong bối cảnh
lạm phát hiện nay, chúng ta cần tính đến các nhà sản xuất bởi khi không có vốn
họ đi vay nhưng vay với lãi cao không đủ sức trả nợthì phá sản, lại ảnh hưởng
trực tiếp đến nền kinh tế. Tác giả cho rằng, tạm thời Nhà nước nên giữ nguyên
quy định của điều 476 bởi việc thay đổi lãi suất cần phải cân đối giữa các lợi ích
nhằm chống cho vay nặng lãi, suy giảm kinh tế… và đặc biệt cần phải phù hợp
với hoàn cảnh kinh tế xã hội. Đồng thời kết hợp hài hoà với việc giải thích luật
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về vấn đề điều 476 BLDS 2005 không điều
chỉnh các quan hệ tín dụng của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng hoạt
động theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng.

18


Khi nền kinh tế đi vào ổn định, lạm phát phi mã chấm dứt, kinh tế phát triển…
chúng ta sẽ nghĩ đến việc nâng trần lãi suất.
C. KẾT LUẬN
Qua đây ta có thế thấy được rằng lãi suất là một vấn đề còn rất mới mẻ và sự
biến đổi không ngừng, thất thường cũng như sự phức tạp của nó khiến cho
chúng ta gặp không ít những khó khăn trong thực tế. Và khi có rất nhiều tranh
chấp xảy ra cộng với tình hình phức tạp của nền kinh tế hiện nay thì một đòi hỏi
nhất thiết là phải sửa đổi luật để đảm bảo lợi ích cho các chủ thể và xây dựng
một hàng rào pháp luật vững chắc.

MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………..…..1
19



B. NỘI DUNG……………………………..……………………………..…….1
I. Khái niệm và đặc điểm của lãi suất………………………………………..….2
1. Khái niệm……………………………………………………………...2
2. Đặc điểm……………………………………………………………….2
II. Quy định của pháp luật về lãi suất…………………………………………...3
III. Một số vấn đề về hợp đồng vay tiền…………..………………………..….13
IV. Phương hướng hoàn thiện pháp luật………………………………............17
C. KẾT LUẬN………………………………………………………………...20

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội, 2009.
3. Bộ tư pháp, Những vấn đề cơ bản của Bộ luật dân sự năm 2005, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, 2005, tr. 42 - 60;

20


4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 2,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2006, 2009.
5.

Luật số 06/1997/QH10 về Ngân hàng Nhà nước do Quốc hội ban hành;

6.

Luật số 10/2003/QH11 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam do Quốc hội ban hành;


7. Luật các Tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12 1997;
8. Nghị định 144/2006/NĐ-CP quy định về hình thức họ, hụi, biêu, phường;

quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của những người tham gia họ;
9. Thông tư số 01 – TT/LT ngày 19/6/1997 của Liên tịch Tòa án nhân dân
Tối cao – Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao – Bộ Tư Pháp – Bộ tài Chính;

* website





21



×