Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Quyền định đoạt của người lập di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.3 KB, 13 trang )

Quyền định đoạt của người lập di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS)
2005
Lời mở đầu
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu
và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người. Mặt khác, quan hệ sở
hữu là quan hệ giữa người với người về việc chiếm hữu của cải vật chất trong xã
hội, trong quá trình sản xuất lưu thông phân phối của cải vật chất. Sự chiếm hữu
vật chất này thể hiện giữa người này với người khác, giữa tập đoàn người này với
tập đoàn người khác, đó là tiền đề đầu tiên để làm xuất hiện quan hệ thừa kế.
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được pháp luật của
các quốc gia ghi nhận. Tuy vậy, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau sự quy định cũng
khác nhau, tùy thuộc vào tính chất của chế độ sở hữu trong xã hội đó. Sự thừa kế,
tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác là quy luật khách quan, nhưng các quan hệ
thừa kế ở mỗi chế độ xã hội được giải quyết như thế nào là do chủ quan con người
quyết định.
Để góp phần giúp các bạn hiểu hơn về các quy định của pháp luật về thừa kế ở
nước ta, tôi xin được trình bày với các bạn vấn đề: “Quyền định đoạt của người
lập di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) 2005”.
A. Vài vấn đề lý luận
I. Sự phát triển của chế định thừa kế
Chế định thừa kế ở Việt Nam đã được điều chỉnh từ thời phong kiến Việt Nam qua
các bộ luật, chiếu, chỉ dụ, lệnh của vua…, đặc biệt là Bộ luật Hồng Đức (1483) và
Bộ luật Gia Long (1815).
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, để đảm bảo cho các quan hệ xã hội về dân sự
phát triển bình thường, Nhà nước cần phải có hệ thống pháp luật. Do đó, ngày
22/5/1950 Hồ chủ tịch đã ký Sắc lệnh 97/SL. Riêng trong lĩnh vực thừa kế đã quy
định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau; con trai, con gái đều có quyền
thừa kế di sản của cha, mẹ; chồng góa, vợ góa, các con đã thành niên có quyền xin
chia di sản; con, cháu hoặc vợ góa, chồng góa không bắt buộc phải nhận thừa kế
của người đã chết; các chủ nợ của người đã chết không có quyền đòi người thừa kế
phải thanh toán nợ quá phần di sản mà người đó nhận được.


Để đáp ứng yêu cầu của công tác xét xử trong phạm vi chức năng do Luật tổ chức
Tòa án quy định. Tòa án nhân dân tối cao ra nhiều Thông tư hướng dẫn. Thông tư
Số 549 NCPL ngày 27/8/1968 hướng dẫn đường lối xét xử các việc tranh chấp về


thừa kế; Thông tư Số 02 TATC ngày 02/8/1973 hướng dẫn giải quyết các tranh
chấp về thừa kế di sản liệt sỹ…
Thông tư 81 ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế (Di
sản thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật,…) của Tòa án nhân dân
tối cao là một văn bản tương đối hoàn chỉnh về các quy phạm liên quan dền quyền
thừa kế.
Tiếp đó, Luật hôn nhân và gia đình ban hành năm 1986 đã quy định một số điều
liên quan đến quyền thừa kế của vợ, chồng (Điều 14, 16, 17,…).
Ngày 30/8/1990, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông
qua Pháp lệnh Thừa kế.
Thừa kế được quy định tại Phần thứ tư BLDS năm 1995 đã kế thừa hầu hết các quy
định của Pháp lệnh về thừa kế 1990. Ngoài ra có bổ sung một số vấn đề mới trong
lĩnh vực thừa kế, đặc biệt là việc thừa kế quyền sử dụng đất của cá nhân và thành
viên của hộ gia đình.
Phần thứ tư BLDS 2005 về cơ bản vẫn giữ nguyên như trong quy định BLDS năm
1995 và có một số thay đổi nhở để khắc phục vướng mắc không phù hợp với thực
tế trong quá trình giải quyết tranh chấp về thừa kế trong 10 năm áp dụng vừa qua.
II. Khái niệm di chúc và thừa kế theo di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người
khác sau khi chết. Theo quy định này thì di chúc phải có các yếu tố sau:
- Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác;
- Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người
khác;
- Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc phải

tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và các điều kiện
có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của
mình bằng di chúc, cần phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di
chúc.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác
còn sống theo quyết định của người đó trước khi người đó chết được thể hiện trong
di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế (cá
nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài
sản,….
III. Người lập di chúc
Theo quy định của pháp luật tại điều 647 BLDS, người có thể lập di chúc là:
- Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm
thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức được và làm chủ được hành vi


của mình.
- Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu
được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Pháp luật nước ta công nhận người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên. Vì
vậy, không phân biệt nam, nữ, tôn giáo, thành phần,… Người từ đủ 18 tuổi đều có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho ngưòi thừa kế.
Tuy nhiên, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi (người có năng lực hành vi một
phần) có thể lập di chúc nhưng với điều kiện “lập thành văn bản và phải được cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý”. Sự đồng ý ở đây là sự đồng ý cho họ lập di chúc.
Còn về phần nội dung di chúc, họ được toàn quyền quyết định.
B. Quyền định đoạt của người lập di chúc
I. Các điều luật trong bộ luật dân sự bảo vệ quyền định đoạt của người lập di
chúc
Tôn trọng và bảo vệ quyền năng của một cá nhân đối với tài sản của họ, BLDS
2005 của nhà nước ta đã ghi nhận quyền của người lập di chúc tại các điều luật sau

đây:
Điều 631. Quyền thừa kế của cá nhân
“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của
mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp
luật”.
Điều 648. Quyền của người lập di chúc.
“Người lập di chúc có các quyền sau đây:
1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;
3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;
4. Giao nghĩa vụ cho ngưòi thừa kế;
5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”
Điều 662. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc
“1. Người lập di chúc có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc vào bất cứ
lúc nào.
2. Trong trường hợp người lập di chúc bổ sung di chúc thì di chúc đã lập và phần
bổ sung có hiệu lực pháp luật như nhau; nếu một phần của di chúc đã lập và phần
bổ sung mâu thuẫn nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật.
3. Trong trường hợp người lập di chúc thay thế di chúc bằng di chúc mới thì di
chúc trước bị huỷ bỏ.”
Điều 664. Sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung của vợ, chồng
“1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung bất cứ lúc
nào.
2. Khi vợ hoặc chồng muốn sừa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung thì


phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể
sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình.”
II. Quyền đinh đoạt của người lập di chúc
1. Chỉ định người thừa kế

Thông thường, một người bao giờ cũng mong muốn rằng, sau khi chết, tài sản của
mình sẽ được dịch chuyển cho những người gần gũi, thân thiết nhất. Mong muốn
này thường được thể hiện trong di chúc mà họ đã lập trước khi chết. Ngay cả khi
người để lại di sản không có di chúc, di sản của họ được dịch chuyển cho những
người thừa kế theo hàng, điều kiện và trình tự thừa kế mà pháp luật đã quy định thì
chúng ta vẫn có thể nới rằng việc dịch chuyển tài sản đó đã hoàn toàn đúng với ý
muốn của người để lại di sản bởi việc quy định về thừa kế theo pháp luật được xem
như là sự phỏng đoán của pháp luật về ý chí của người để lại di sản.
Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất cứ cá nhân hoặc tổ chức nào. Họ
có thể là con, cha, mẹ, vợ, chồng… của người thuộc diện thừa kế theo luật dựa trên
các quan hệ hôn nhân, quan hệ nuôi dưỡng hoặc quan hệ huyết thống; và cũng có
thể là người nằm ngoài phạm vi nói trên, như Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội…
Vì đó là ý chí thực sự tự nguyện của người lập di chúc.
2. Truất quyền hưởng di sản
Quyền định đoạt của người lập di chúc còn được thể hiện thông qua việc họ có thể
truất quyền hưởng di sản của người thừa kế theo pháp luật (như: Cha, mẹ, vợ,
chồng, con, anh, em ruột…) mà không nhất thiết phải nêu lý do, người lập di chúc
có thể chỉ định một hay nhiều người thừa kế theo luật không được hưởng di sản
thừa kế của mình.
Tuy nhiên, do pháp luật không quy định cụ thể như thế nào là truất nên hiện nay
còn nhiều quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng người lập di chúc không
cho người thừa kế nào hưởng di sản theo di chúc thì người đó là người bị truất
quyền. Theo quan điểm này thì có hai cách truất quyền khác nhau:
+ Truất quyền hưởng di sản được nói rõ: Là việc người lập di chúc tuyên bố một
cách minh bạch trong di chúc rằng một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật
không có quyền hưởng di sản.
+ Truất quyền hưởng di sản không được nói rõ: Là việc người lập di chúc chỉ định
một hoặc nhiều người để hưởng toàn bộ di sản nhưng lại không nói gì đến những
người thừa kế theo pháp luật không được chỉ định. Khi đó người thừa kế không
được chỉ định trở thành người bị truất quyền hưởng di sản không được nói rõ. Tác

giả của quan điểm trên còn cho rằng người bị truất quyền hưởng di sản không mất
tư cách người thừa kế mà họ có được do luật định.
3. Quyền phân định di sản cho từng người thừa kế


Người lập di chúc có quyền phân chia một cách cụ thể cho người thừa kế nào
hưởng phần di sản là bao nhiêu hoặc hưởng di sản là vật gì. Người lập di chúc có
quyền phân chia di sản cho mỗi người không nhất thiết phải ngang nhau mà không
cần phải nêu lý do, nếu không phân định. Vì vậy, quyền phân định di sản của người
lập di chúc được xem xét dưới ba góc độ và qua từng góc độ đó, việc phân chia di
sản theo di chúc được tiến hành cho phù hợp với ý nguyện của người để lại di sản.
+ Phân định tổng quát : Là trường hợp người lập di chúc không xác định rõ phần di
sản mà từng người thừa kế được hưởng. Theo góc độ này nếu trong di chúc chỉ có
một người thừa kế thì toàn bộ di sản sẽ thuộc về người đó. Nếu di chúc chỉ định
nhiều người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người có tên trong di chúc.
Nếu những người này có sự thỏa thuận về việc hưởng di sản thì việc phân chia di
sản sẽ tuân theo sự thỏa thuận đó.
+ Phân định theo tỷ lệ: Là trường hợp trong di chúc đã nói rõ mỗi người thừa kế
được hưởng một phần di sản theo một tỷ lệ nhất định so với tổng giá trị tài sản. Vì
vậy, khi phân chia di sản theo di chúc thì mỗi người thừa kế được hưởng phần di
sản theo tỷ lệ đã được xác định trên tổng giá trị khối tài sản đang còn vào thời điểm
phân chia. Chẳng hạn, nếu di chúc xác định rằng cho A hưởng 1/2 di sản và sau khi
định giá đã xác định được tổng giá trị di sản là 360 triệu đồng thì M sẽ được hưởng
phần di sản là: 360 triệu : 2 = 180 triệu.
+ Phân định cụ thể: Là trường hợp người để lại di sản đã xác định rõ trong di chúc
người thừa kế nào được hưởng di sản là hiện vật gì. Vì vậy khi di sản được phân
chia, các thừa kế được nhận hiện vật theo sự xác định trong di chúc “kèm theo hoa
lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị hiện vật bị giảm sút
tính đến thời điểm phân chia di sản”. “Nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người
khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại” (Điều 684 BLDS

2005).
4. Quyền giao nghĩa vụ cho người thừa kế
Nghĩa vụ được xét đến trong mục này là những nghĩa vụ về tài sản.
Theo sự chỉ định trong di chúc, người thừa kế phải thực hiện một công việc vì lợi
ích chất của người khác mà đáng lẽ khi còn sống, người để lại di sản phải thực hiện
như trả nợ, bồi thường thiệt hại… Tuy nhiên, người thừa kế không phải thực hiện
những nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân của người để lại di sản.
Cũng giống như việc phân định tài sản, việc phân định nghĩa vụ cũng được hiểu
theo ba góc độ sau đây:
+ Trong trường hợp người để lại di sản có để lại một nghĩa vụ về tài sản nhưng
trong di chúc không nói rõ người thừa kế nào phải thực hiện nghĩa vụ đó thì theo
quy định của pháp luật, ai hưởng thừa kế người đó phải thực hiện. Tuy nhiên,


người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại trong phạm
vi di sản thừa kế.
+ Trong trường hợp hợp để lại thừa kế đã xác định rõ tỷ lệ nghĩa vụ mà từng người
thừa kế phải thực hiện thì mỗi người phải thực hiện phần đó trong phạm vi di sản
mà mình được hưởng. Phần nghĩa vụ vượt quá di sản người này được hưởng sẽ
chia đều cho những người thừa kế khác thực hiện tương ứng với phần dí sản mà họ
đã nhận.
+ Nếu người lập di chúc đã giao nghĩa vụ cụ thể cho người thừa kế thì riêng người
được giao nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, nếu có phần nghĩa vụ
vượt quá số di sản mà người đó được hưởng thì những người thừa kế khác phải
thực hiện tương ứng với phần di sản mà họ được hưởng. Ví dụ: Ông A lập di chúc
để định đoạt khối tài sản của mình trị giá 120 triệu đồng như sau: cho M hưởng 30
triệu đông, N hưởng 30 triệu đồng, P hưởng 60 triệu đồng. Khi ông A chết còn nợ
của người khác một khoản tiền là 54 triệu đồng. Ông A giao cho M phải thay ông
trả khoản nợ đó. Như vậy, trong thực tế coi như M không được hưởng di sản theo
di chúc. Ngoài 30 triệu đồng mà M được hưởng đã dùng để thanh toán nghĩa vụ,

khoản nợ vẫn còn lại 24 triệu đồng. Khoản nợ này do N và P cùng phải thực hiện
nhưng tương ứng với phần di sản mà mỗi người được hưởng. Vì vậy N = 30 triệu
đồng trừ 8 triệu đồng còn 22 triệu đồng;P = 60 triệu đồng trừ 16 triệu đồng còn 44
triệu đồng.
5. Người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để di tặng
Di tặng là việc người để lại di sản dành một phần trong số di sản để tặng cho người
khác thông qua việc thể hiện ý nguyện trong một di chúc.
Về nguyên tắc, hiệu lực của việc di tặng được xác định theo hiệu lực của di chúc.
Nghĩa là việc di tặng chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm người lập di chúc chết và dĩ
nhiên là người được di tặng phải còn sống vào thời điểm đó. Mặt khác, người nhận
tài sản di tặng được coi là một bên trong hợp đồng tặng cho (dù hợp đồng đó chỉ
được thực hiện sau khi người tặng cho đã chết) nên họ được hưởng di sản mà
không phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại. Tuy nhiên, để bảo vệ
quyền lợi chính đáng cho các chủ nợ của người chết, pháp luật nước ta quy định:
“Trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập
di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của
người này.”(khoản 2, Điều 671 BLDS 2005).
6. Quyền được để lại di sản dùng vào việc thờ cúng
Con người Việt Nam cổ truyền vốn coi việc thờ phụng tổ tiên là bổn phận hết sức
thiêng liêng và hệ trọng của con, cháu. Khi một gia đình có kinh tế khá giả bao giờ
người ta cũng quan tâm thi hành bổn phận ấy bằng cách dành ra một số tài sản để


lo việc phụng tự. Các tài sản này có thể bao gồm nhiều loại với tên gọi khác nhau,
nhưng chung quy đó là các “Di sản dùng vào việc thờ cúng” mà các bộ dân luật cũ
gọi là “hương hỏa”.
Tôn trọng và ghi nhận truyền thống đó của dân tộc, Pháp lệnh Thừa kế trước đây
và BLDS hiện nay của nước ta đều ghi nhận quyền để lại di sản dùng vào việc thờ
cúng của người lập di chúc. Đồng thời, tại Điều 670 – BLDS 2005 đã ghi rõ:
“1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc

thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người
đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được
chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những
người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc
thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ
cúng thì những người thừa kế của một người quản lý di sản thờ cúng.
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di
sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số
những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa
vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng”.
Như vậy, việc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng là do ý muốn của
người để lại thừa kế. Không ai có thể buộc một người phải dành một số di sản khi
chết để con cháu lo việc cúng giỗ cho họ và tổ tiên của họ nhưng nếu bằng di chúc,
người để lại di sản thể hiện ý nguyện như vậy thì ý nguyện đó phải được tôn trọng.
Ý nguyện thật sự của người để lại di sản thờ cúng là phần di sản đó phải được
những người về sau này lưu giữ mãi mãi, truyền từ đời này sang đời khác, những
người thừa kế chỉ thay nhau quản lý để phục vụ cho công việc phụng tự. Phỏng
đoán theo ý chí truyền thống, pháp luật nước ta quy định: phần di sản dùng vào
việc thờ cúng không được chia thừa kế.
Trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của người lập di chúc, pháp luật nước ta
cho phép người đó dành một phần di sản để dùng việc thờ cúng và cũng không cần
quy định cụ thể “phần” đó là tỷ lệ bao nhiêu so với giá trị khối tài sản. Tuy nhiên,
để đảm bảo quyền lợi cho những người có quyền tài sản liên quan đến di sản của
người đã chết, pháp luật nước ta cũng đã hạn chế quyền dành di sản vào việc thờ
cúng của người lập di chúc bằng việc quy định tại Khoản 2 Điêu 670 BLDS:
“Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ
tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ

cúng”.
Theo quy định trên dù người lập di chúc đã thể hiện ý chí dành một phần di sản của
mình vào việc thờ cúng nhưng ý chí đó không được pháp luật thừa nhận nếu những


phần tài sản còn lại để thờ cúng phải dùng để thanh toán các khoản còn lại của
người lập di chúc.
Mặt khác, nếu việc để lại di sản vào việc thờ cúng của người lập di cúng ảnh
hưởng đến quyền lợi chính đáng của những người thừa kế theo Điều 669 BLDS thì
quyền định đoạt đó bị hạn chế để bảo đảm những người thừa kế nói trên được
hưởng phần di sản ít nhất là bằng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật.
7. Quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc
Người lập di chúc có sự thay đổi ý chí thì việc định đoạt trong di chúc sẽ bị thay
đổi. Sự thay đổi đó xảy ra khi người lập di chúc thực hiện việc sửa đổi, bổ sung,
hủy bỏ di chúc.
Sửa đổi di chúc là việc người lập di chúc bằng di chúc ý chí tự nguyện của mình
phủ nhận (làm thay đổi) một phần di chúc đã lập. Vì vậy, những phần di chúc
không bị sửa đổi (phần giữ nguyên) vẫn có hiệu lực pháp luật, phần di chúc đã bị
sửa đổi sẽ không còn hiệu lực mà thay vào đó, pháp luật sẽ căn cứ vào ý chí thể
hiện trong sự sửa đổi sau cùng. Thông thường sự thay đổi di chúc đã lập được biểu
hiện ở những mặt sau đây:
+ Sửa đổi người được hưởng thừa kế. Có nghĩa là một di chúc đã lập có thể đã chỉ
định một số người được hưỏng là A, B, C…sau đó người lập di chúc sửa đổi bổ
sung không cho B hoặc C thừa kế nữa mà chỉ định K thay vào vị trí của B hoặc C
để hưởng di sản.
+ Sửa đổi về quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
Sửa đổi di chúc còn được thể hiện qua việc sửa đổi về quyền và nghĩa vụ cho
người thừa kế, có thể bớt hoặc tăng thêm quyền và nghĩa vụ mà người thừa kế phải
thực hiện.
+ Sửa đổi về câu chữ

Trong di chúc có thể có những câu khó hiểu hoặc có từ được hiểu theo nhiều nghĩa
khác nhau. Người lập di chúc có quyền sửa đổi những câu, chữ cho rõ ràng, tránh
sự hiểu nhầm sau này ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kê.
Bổ sung di chúc là việc người lập di chúc quy định thêm một số vấn đề mà trong di
chúc đã lập chưa nói đến nhằm làm cho di chúc cụ thể, chi tiết hơn, rõ hơn. Vì vậy,
khi người lập di chúc bổ sung di chúc thì cả di chúc đã lập và cả phần bổ sung đều
có hiệu lực như nhau. Trong trường hợp di chúc đã lập và phần bổ sung mâu thuẫn
nhau thì chỉ phần bổ sung có hiệu lực pháp luật (lúc này việc bổ sung di chúc đã
chuyển hóa thành sự sửa đổi di chúc).
Hủy bỏ di chúc là người đã lập di chúc lại bằng ý chí tự nguyện của mình truất bãi
di chúc đã lập. Theo Khoản 3 Điểu 662 BLDS 2005 thì pháp luật chỉ xác định một
trường hợp được coi là hủy bỏ di chúc: khi người lập di chúc thay thế di chúc đã
lập.


8. Quyền thay thế di chúc
Theo nguyên tắc: “Di chúc chỉ có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế” nên khi còn
sống, một người tuy đã lập di chúc định đoạt tài sản của mình cho người khác
nhưng sau đó nếu họ thấy việc định đoạt của mình chưa phù hợp (hoặc không còn
phù hợp) thì có quyền lập một di chúc khác để thay di chúc đã lập trước. Tại
Khoản 3 Điều 22 Pháp lệnh Thừa kế đã quy định “Trong trường hợp người lập di
chúc đã thay thế di chúc thì coi như không có di chúc trước”. Điều đó được quy
định lại trong BLDS 2005 tại Khoản 3 Điều 662: “Trong trường hợp người lập di
chúc thay thế di chúc bằn di chúc mới thì di chúc trước bị hủy bỏ”. Như vậy, theo
quy định của pháp luật, người lập di chúc đã thay thế di chúc thì những di chúc
trước hoàn toàn không có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên bản chất của việc thay thế di chúc là gì, trường hợp nào mới được coi là
thay thế di chúc có một ý nghĩa hết sức quan trọng và thiết thực trong việc giải
quyết đúng đắn một vụ án.
Trước hết, cần thống nhất về bản chất của thay thế di chúc là: Việc một người bằng

ý chí tự nguyện sau của mình phủ nhận một ý chí tự nguyện trước đó về việc định
đoạt di sản thừa kế.
Từ khái niệm trên chúng ta thấy rằng trong trường hợp một người để lại bản di
chúc được lập ra theo những ngày tháng khác nhau nhưng chưa hẳn đó là sự thay
thế di chúc vì rằng chưa chắc bản di chúc sau đã là ý chí tự nguyện của người đó.
9. Quyền chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di
sản
Để đảm bảo ý nguyện của mình không bị người khác xâm phạm, để tránh việc thất
lạc, hư hỏng di chúc, người lập di chúc có thể gửi lại di chúc ở công chứng nhà
nước hoặc gửi bất kỳ người nào mà mình tin tưởng giữ bản di chúc.
Nếu di chúc được gửi ở công chứng nhà nước thì cơ quan công chứng phải bảo
quản giữ gìn bản di chúc theo quy định của pháp luật. Khi người lập di chúc chết
thì cơ quan công chứng phải công bố trước những người thừa kế bằng việc sao gửi
di chúc đến tất cả những người có liên quan đến nội dung của di chúc. Nếu di chúc
được lập bằng tiếng nước ngoài thì bản di chúc đó phải được dịch ra tiếng Việt. Tất
cả các bản dịch và sao di chúc đều phải có chứng nhận hoặc chứng thực của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Nếu người giữ bản di chúc là cá nhân thì cá nhân đó phải giữ bí mật nội dung của
di chúc, nghĩa là không được tiết lộ cho người thừa kế cũng như những người khác
biết được sự định đoạt trong nội dung của di chúc. Người nhân giữ bản di chúc
phải bảo quản, giữ gìn cẩn thận bản di chúc. Trong thời gian người lập di chúc còn
sống, nếu không may di chúc bị thất lạc, hư hại thì cá nhân giữ bản di chúc phải
thông báo ngay cho người lập di chúc biết. Khi người lập di chúc chết, cá nhân giữ


bản di chúc phải giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền
công bố di chúc.
Nếu người giữ di chúc đồng thời được người lập di chúc chỉ định là người công bố
di chúc thì khi người lập di chúc chết, người đó phải công bố di chúc trước những
người thừa kế theo đúng thủ tục như trường hợp cơ quan công chứng là người công

bố di chúc.
Để di sản của người lập di chúc để lại không bị mất mát, hư hỏng, pháp luật đã dự
liệu nhiều trường hợp cụ thể nhằm qua đó xác định người quản lý di sản là ai. Tôn
trọng ý chí của người lập di chúc nên trước hết người quản lý di sản phải là người
được chỉ định trong di chúc, khi nào trong di chúc không xác định người quản lý di
sản thì sẽ xác định người quản lý di sản theo một trong các trường hợp sau:
- Là người được những người thừa kế cùng thỏa thuận cử ra để quản lý di sản trong
thời gian di sản chưa được chia.
- Người đang chiếm giữ, quản lý di sản là người quản lý di sản trong thời gian
những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản mới. Ví dụ: Ông A có ba
người con thừa kế theo luật là M, N, P, khi ông A chết M, N đã thoát ly và đang
công tác tại một tỉnh khác, P đang ở cùng với ông tại ngôi nhà là di sản thừa kế mà
ông để lại. Trong thời gian M, N, P chưa cử được người quản lý di sản thì P được
xác định là người quản lý di sản theo quy định của pháp luật.
- Người đang chiếm giữ, sử dụng di sản thừa kế theo hợp đồng mà họ đã ký kết với
người để lại di sản là người quản lý di sản cho đến khi hết hạn hợp đồng.
- Di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý khi chưa xác định được người
thừa kế và di sản chưa có người quản lý.
Quyền chỉ định người quản lý di sản của người lập di chúc không bị giới hạn về
diện những người được chỉ định. Vì vậy, người được chỉ định trong di chúc về việc
quản lý di sản có thể là một trong những người thừa kế theo luật của người đó
nhưng cũng có thể là một người bất kỳ hoặc một cơ quan hay tổ chức nào đó. Ý chí
này của người lập di chúc luôn luôn được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực
hiện, nếu đúng là ý chí tự nguyện và không trái với pháp luật.
Thông thường, khi xác định ai quản lý di sản thì người lập di chúc cũng chỉ định
luôn người đó phân chia tài sản. Tuy nhiên, cũng có thể người lập di chúc chỉ định
hai người khác nhau để cùng thực hiện. Dù là ai thì người phân chia di sản đều là
người trong thực tế đứng ra phân chia di sản khi người để lại di chúc chết. Việc
phân chia di sản phải tuân theo di chúc. Trong trường hợp di chúc không xác định
cách phân chia di sản thì phải chia theo sự thỏa thuận của những người thừa kế.

Người phân chia di sản chỉ được hưởng thù lao đối với công việc chia di sản và
theo mức mà người để lại di sản đã xác định, nếu trong di chúc có cho phép hưởng
thù lao. Trong trương hợp di chúc không xác định điều này nhưng nếu có sự thỏa
thuận của những người thừa kế thì người phân chia di sản vẫn được hưởng thù lao


theo sự thỏa thuận đó.
Việc xác định trong di chúc, như đã trình bày ở phần trước bao giờ cũng chỉ là ý
chí đơn phương của một bên trong việc thiêt lập giao dich dân sự. Vì vậy, người
đươc xác định phân chia tài sản có thể từ chối công việc đó nếu muốn và trong
những trường hợp này những người thừa kế tự thỏa thuận để cử ra người phân chia
di sản.
III. Một số vấn đề còn vướng mắc và giải pháp
1. Vấn đề truất quyền hưởng thừa kế
Như đã nói ở trên, người thừa kế đã bị truất quyền hưởng di sản với người thừa kế
không được chỉ định trong di chúc là hoàn toàn khác nhau. Để có sự thống nhất
quan điểm khi áp dụng các quy định của pháp luật, chúng ta cần giải quyết hai vấn
đề sau:
- Người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản
Đây là trường hợp người thừa kế theo pháp luật bị người để lại thừa kế nói rõ trong
di chúc về việc truất quyền hưởng di sản của họ.
Trong trường hợp di chúc bị vô hiệu toàn bộ (nghĩa là việc truất quyền hưởng di
sản cũng vô hiệu) thì tư cách người thừa kế theo luật của những người nói trên
không ảnh hưởng. Tuy nhiên, trong trường hợp di chúc có hiệu lực toàn bộ hoặc có
một phần vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của việc truất quyền hưởng
di sản thì tư cách người thừa kế theo luật của họ đương nhiên bị mất. Vì vậy, trong
trường hợp này, nếu có phần di sản liên quan đến phần di chúc không có hiệu lực
sẽ được chia theo luật thì người đó vẫn không được hưởng.
- Người thừa kế không được hưởng di sản theo di chúc
Là người thừa kế theo luật của người lập di chúc nhưng không được người lập di

chúc chỉ định hưởng di sản.
Trong trường hợp người để lại di sản lập di chúc trong đó xác định người thừa kế
theo di chúc của mình thì những người thừa kế theo pháp luật nào không có tên sẽ
là người không được hưởng di sản theo di chúc. Ngoài ra, cũng có trường hợp,
người lập di chúc đã định đoạt hết tài sản thì những người thừa kế theo luật không
được người lập di chúc định đoạt cho phần tài sản nào cũng là người không được
hưởng di sản theo di chúc. Nói tóm lại, người thừa kế không được hưởng di sản
theo di chúc là ngưởi có quyền hưởng di sản của người chết để lại theo quy định
của pháp luật nhưng thực tế họ không được hưởng bởi di sản không còn vì người
lập di chúc đã định đoạt hết cho người khác. Vì vậy, nếu có một phần di sản nào đó
được chia theo pháp luật thì họ sẽ được hưởng vì họ là người thừa kế theo pháp
luật của người để lại di sản.
Từ những vấn đề được giải quyết trên đây, chúng tôi mong rằng để không còn tình
trạng có nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một vấn đề luật định, khi ban hành các


văn bản giải thích luật và hướng dẫn thi hành BLDS cần quy định rõ như thế nào là
truất quyền hưởng di sản; có coi người thừa kế theo pháp luật không được hưởng
di sản khi người lập di chúc đã phân định hết tài sản cho những người thừa kế khác
là bị truất quyền hay không?
2. Vấn đề dành một phần di sản thừa kế để di tặng
Theo quy định của pháp luật thì người được di tặng có nhiều ưu tiên, như khi thực
hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người được di tặng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi
toàn bộ di sản không đủ để thanh toán.Vì vậy, chúng ta cần xem xét xem có áp
dụng Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 với người di tặng hay không?
Theo tôi, dù người được di tặng không phải là người thừa kế nhưng về bản chất,
người được tặng là người được hưởng một phần di sản theo di chúc. Vì vậy, người
đó sẽ bị tước quyền hưởng di tặng nếu có những hành vi được quy định tại điều
luật nói trên.
3. Vấn đề để lại di sản vào việc thờ cúng

Di sản này cũng được hưởng ưu tiên khi thực hiện nghĩa vụ, và hơn nữa nếu có tồn
tại thì nó sẽ không bị đem ra chia thừa kế. Nhưng các quy định của pháp luật đều
không chỉ rõ phần di sản của người để lại di sản tối đa là bao nhiêu. Chính việc
này, làm ảnh hưởng ít nhiều đến quyền lợi của người thừa kế.
Chúng ta có thể thấy ngay trong các bộ luật thời phong kiến của nước ta cũng có
quy định cụ thể phần di sản thờ cúng là 1/20 di sản. Theo tôi, các nhà làm luật cần
nghiên cứu trên các tài liệu lịch sử và cuộc sống hiện tại của xã hội để đưa ra quy
định cụ thể hơn của pháp luật về vấn đề này.
4. Vấn đề sửa đổi, bổ sung di chúc
Trong BLDS không quy định điều kiện về hình thức của việc sửa đổi, bổ sung di
chúc. Vì thế, có thể hiểu rằng sự sửa đổi, bổ sung thực hiện theo hình thức nào
cũng được, hoàn toàn không phụ thuộc vào hình thức của di chúc đã lập, miễn rằng
việc sửa đổi, bổ sung là ý chí tự nguyện, minh mẫn, hợp pháp của người lập di
chúc.
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng, để tránh việc tẩy xóa, thêm bớt trong một bản
di chúc (vì điều đó sẽ làm giảm tính xác thực của di chúc đồng thời là điều không
được phép đối với một di chúc có chứng thực, chứng nhận) nên khi ban hành các
văn bản để hướng dẫn thi hành BLDS, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần
quy định thêm: Việc sửa đổi, bổ sung di chúc phải được thể hiện bằng văn bản
riêng biệt kèm theo di chúc đã lập.
5. Vấn đề hủy bỏ di chúc
Ngoài trường hợp nói trên, việc hủy bỏ di chúc còn có thể được người lập di chúc
thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Có thể coi một người đã hủy bỏ di chúc khi


thực hiện hành vi xé, đốt, tiêu hủy di chúc mà người đó đã lập ra hay không? Hoặc
khi người lập di chúc tuyên bố trước mọi người về việc phế truất di chúc đã lập hay
viết vào bản di chúc là không thừa nhận di chúc đó nữa thì có coi là hủy bỏ di chúc
hay không?
Trong BLDS, các nhà làm luật không quy định về hình thức hủy bỏ, vì vậy theo

nhiều ý kiến, dù thực hiện bằng cách nào chăng nữa nhưng nếu đó là ý chí tự
nguyện của người lập đều được coi là hủy bỏ di chúc. Do đó các cơ quan có thẩm
quyền cần có văn bản hướng dẫn về vấn đề này. Có thể giải quyết vấn đề trên như
sau, trong những trường hợp đó, nếu người để lại di sản không thực hiện ý chí mới
về việc dịch chuyển di sản cho ai thì việc thừa kế sẽ được giải quyết theo pháp luật.
C. Kết luận
Trên đây, tôi đã trình bày với các bạn về quy định “Quyền định đoạt của người lập
di chúc theo quy định của Bộ luật dân sự (BLDS) 2005”. Tôi mong rằng qua bài
viết của tôi, các bạn sẽ có một cái nhìn toàn diện hơn về pháp luật dân sự nói riêng
và pháp luật nước ta nói riêng, pháp luật đã có những quy định rất cụ thể, tiến bộ
nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều điểm thiếu sót. Do đó, tôi và các bạn, những nhà
làm luật tương lai hãy hoàn thiện những điểm thiếu sót của pháp luật, góp phần xây
dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam , Nxb. CAND.
Hà nội – 2006.
2. Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Nxb. Thống kê –
2007.
3. TS. Phạm Văn Tuyết, Thừa kế - quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng,
Nxb. CTQG, Hà nội – 2007.
4. TS. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam (Sách chuyên khảo), Nxb. Hà nội
– 2008.
5. TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong luật dân sự Việt Nam ,
Nxb. Trẻ, thành phố HCM, 2001.
6. Đỗ Văn Chỉnh, Di sản không có người thừa kế hoặc từ chối nhận di sản – vấn đề
cần có hướng dẫn, Tạp chí tòa án nhân dân, số 20/2006.
7. Phùng Trung Tập, Quy định về người lập di chúc”, Tạp chí tòa án nhân dân, số
3/2005.
8. Phùng Trung Tập, Pháp luật thừa kế Việt Nam hiện đại – Một số vấn đề cần
được bàn luận”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 7/2008.




×