Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

“Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.45 KB, 17 trang )

A. Đặt vấn đề
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những
người chưa bị khởi tố, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã
hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có
hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự.
Trong các biện pháp ngăn chặn, bắt người là một trong những biện
pháp ngăn chặn thường gặp nhất. Trong quy định về bắt người, có quy
định về bắt bị can bị cáo để tạm giam ( điều 80 BLTTHS). Đây là một thủ
tục quan trọng trong tố tụng hình sự. Chính vì thế, để hiểu rõ hơn về vấn
đề này, em xin lựa chọn đề tài “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam”.

B. Giải quyết vấn đề
I. Một số khái niệm.
1. Khái niệm bị can.
Điều 49 BLTTHS quy định tại khoản 1: “ Bị can là người đã bị khởi
tố về hình sự”.
Theo quy định tại điều 49 thì bị can là người đã bị khởi tố về hình sự
và tham gia tố tụng hình sự kể từ khi có quyết định khởi tố bị can đối với
họ. Bị can tham gia vào giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn
xét xử sở thẩm. Tư cách tố tụng của họ sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra
ra quyết định đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát đình chỉ vụ án; Tòa án đình
chỉ vụ án ( trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can hoặc Tòa án ra
quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi trở thành bị can, họ trở thành đối
tượng bị buộc tội trong vụ án, điều đó không đồng nghĩa với việc họ là
người có tội. Họ vẫn được hưởng những quyền và nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật.
2. Khái niệm bị cáo.
1



Khoản 1 điều 50 BLTTHS quy định: “ Bị cáo là người đã bị Tòa án
quyết định đưa ra xét xử”.
Thời điểm tham gia tố tụng của bị cáo là kể từ khi có quyết định đưa
vụ án ra xét xử đến khi bản án hay quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật. Khái niệm bị cáo không đồng nghĩa với khái niệm chủ thể của
tội phạm bởi một người bị coi là bị cáo khi bị Tòa án đưa ra quyết định
đưa ra xét xử và quyết định đó có thể đúng hoặc sai. Bị cáo chỉ bị coi là
có tội khi bản án hay quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
3. Khái niệm “ Bắt bị can, bị cáo để tạm giam”.
Điều 80 BLTTHS quy định khá chi tiết về thủ tục bắt bị can bị cáo
để tạm giam nhưng lại không giải thích thế nào là bắt bị can bị cáo để tạm
giam. Trong khi đó, Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật
Hà Nội lại đưa ra khái niệm: “ Bắt bị can, bị cáo để tạm giam la bắt người
đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử
để tạm giam nhằm ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội cũng như
tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự”.
Khái niệm nêu trên chưa được đầy đủ do không nêu được căn cứ áp
dụng biện pháp ngăn chặn này.
II. Nội dung biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
1. Đối tượng áp dụng.
Theo định nghĩa nêu trên thì đối tượng của biện pháp ngăn chặn này
là bị can, bị cáo. Những người chưa bị khởi tố hình sự hoặc chưa bị Tòa
án đưa ra quyết định đưa ra xét xử không phải là đối tượng áp dụng của
biện pháp này. Điều này thể hiện rõ ngay ở tên gọi của biện pháp ngăn
chặn.
BLTTHS không quy định cụ thể việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam
được áp dụng trong trường hợp nào nhưng không phải bị can, bị cáo nào
cũng bị bắt để tạm giam. Mục đích của việc bắt người trong trường hợp

2


này là để tạm giam nên trước khi ra quyết định bắt, chủ thể có thẩm
quyền cần xác định có cần thiết bắt hay không.
Có những bị can, bị cáo không thể là đối tượng áp dụng của biện
pháp ngăn chặn này. Điều này được quy định tại khoản 2 điều 88
BLTTHS: “ Bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36
tháng tuổi; người già yếu; người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng
thì không bị tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác”. Bên cạnh
đó, đối với những bị can, bị cáo phạm tội lần đầu cũng như có thái độ hối
cải, tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng mà có nơi cư trú rõ
ràng thì cũng không tạm giam mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác
như : bảo lãnh, đặt tiền…Đây là những quy định thể hiện sự nhân đạo của
pháp luật Việt Nam.
2. Điều kiện áp dụng.
Thông thường các cơ quan tiến hành tố tụng thường căn cứ vào tính
chất của tội phạm bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, các đặc điểm về
nhân thân cũng như thái độ chấp hành pháp luật của bị can, bị cáo trong
quá trình giải quyết vụ án để đưa ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm
giam. Các yếu tố được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau để
đảm bảo quyết định đưa ra là hoàn toàn chính xác. Tuy điều 80 không
quy định nhưng có thể thấy, để ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm
giam thì phải thỏa mãn các điều kiện quy định tại điều 88 BLTTHS .
- Căn cứ áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo có thể trốn không được quy định
trong luật. Tuy vậy, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm đã đúc kết những
căn cứ chủ yếu cần phải dựa vào đó để xem xét là: Tình trạng cư trú của
bị can, bị cáo (Có nơi cư trú? Thường trú hay tạm trú? Nếu tạm trú thì dài
hạn hay ngắn hạn? Có khai báo với chính quyền hay không? Nơi cư trú

có ở quá xa nơi tiến hành các hoạt động tố tụng hay không?); Tình trạng
nghề nghiệp (Có nghề nghiệp không? Làm việc trong cơ quan, tổ chức
3


hay làm nghề tự do?); Tính chất hành vi đã thực hiện (cướp, trộm cắp,
giết người hay lừa đảo...); Nhân thân (tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình,
lịch sử bản thân...); Sự ràng buộc với gia đình, quê quán, cơ sở làm việc;
Mối tương quan về lợi ích giữa việc bỏ trốn với việc chấp nhận bị xử lý
trước pháp luật; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như liên hệ với
người thân ở xa, mua vé đi xa...
Khi vận dụng các căn cứ để xét bị can, bị cáo có thể trốn cần lưu ý
là không phải khi nào cũng có thể làm rõ được tất cả các nội dung trên mà
tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và phải biết căn cứ vào nội dung
nào là chủ yếu. Để quyết định việc tạm giam không nhất thiết phải làm rõ
tất cả các nội dung trên, có thể chỉ một nội dung cũng đã đủ để nhận định
là đối tượng sẽ trốn.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử: được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như tiêu hủy chứng
cứ, làm giả hiện trường, thông đồng với nhau về những lời khai gian dối,
mua chuộc, khống chế người làm chứng, người bị hại hoặc các hình thức
khác. Cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử là trường hợp “gây khó khăn
cho việc điều tra, truy tố, xét xử” nhưng ở mức độ cao hơn mang tính đối
phó lại việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Việc xác định bị can, bị cáo cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử
phải dựa trên những căn cứ khách quan và phải xuất phát từ yêu cầu của
việc điều tra, truy tố, xét xử chứ không phải sự suy đoán chủ quan tùy
tiện.
+ Căn cứ cho rằng bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội: phải dựa vào
nhiều tình tiết và xem xét đánh giá một cách tổng hợp. Những tình tiết đó

thường là: Tính chất của tội phạm mà bị can, bị cáo đã thực hiện; Nhân
thân của bị can, bị cáo; Những biểu hiện cụ thể của bị can, bị cáo như đe
dọa, khống chế, mua chuộc người làm chứng, người bị hại, sử dụng thời
gian bất minh, đi lại gặp gỡ bọn tội phạm.
4


3. Thẩm quyền ra quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm
giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện
kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự
các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong
trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn
trước khi thi hành. ( khoản 1 điều 80 BLTTHS).,
Theo đó:
+ Trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định.
+ Trong giai đoạn truy tố, việc bắt bị can bị cáo để tạm giam do Viện
trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân
sự các cấp quyết định.
+ Trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do
Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp,
Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm tòa án
nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Sở dĩ có quy định như vậy là bởi : Việc bắt giữ bị can, bị cáo để tạm

giam là vấn đề quan trọng, liên quan đến 1 số quyền cơ bản của bị can , bị
cáo như quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền bảo hộ tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân…được quy định
trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác. Chính vì thế, việc ra lệnh
bắt phải được thực hiện bởi những người có chức vụ đứng đầu các cơ
quan tiến hành tố tụng.
5


4. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Khoản 2 điều 80 BLTTHS quy định:
 Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của
người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt
phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa
vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện
chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt
chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại
diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành
bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
 Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn
cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại Điều
81 và Điều 82 của Bộ luật này.
Những quy định về thủ tục nêu trên là bắt buộc để quyết định ra lệnh
bắt bị can, bị cáo để tạm giam có hiệu lực. Việc thực hiện những thủ tục
nêu trên vừa đảm bảo tính hợp pháp của lệnh bắt, đảm bảo tính khả thi,
minh bạch cũng như khách quan của quyết định.
5. Những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt.

Vấn đề này được quy định chi tiết tại điều 83 và 85 BLTTHS.
Điều 83 BLTTHS: Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận
người bị bắt
1. Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong
thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị
bắt.

6


2. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra
nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy
nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra
ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết
định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời
khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm
giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có
thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm
giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra
nhận người bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra
nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam
nơi gần nhất.
Điều 85 BLTTHS: Thông báo về việc bắt
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông
báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn
hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông
báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra

lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.
III. Về việc áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam đối
với người nước ngoài.
Khi bắt người nước ngoài phạm tội, ngoài việc thỏa mãn các điều
kiện nêu trên thì phải tuân theo các văn bản pháp luật khác cũng như các
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
- Đối với người nước ngoài được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao,
lãnh sự: theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh về quyền ưu đãi miễn trừ
dành cho cơ quan ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện tổ chức
quốc tế tại Việt Nam năm 1993 thì viên chức ngoại giao được hưởng
7


quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được đối xử trọng thị, họ không
thể bị bắt, bị tạm giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu họ phạm tội quả
tang thì cơ quan có thẩm quyền chỉ lập biên bản, thu giữ vật chứng, sau
đó trả tự do cho họ và báo cáo ngay lên lãnh đạo Bộ Công an, cơ quan đại
diện ngoại giao biết để phối hợp, xử lý. Các thủ tục tiếp theo giải quyết
bằng con đường ngoại giao.
- Đối với người nước ngoài không được hưởng quyền miễn trừ
ngoại giao và lãnh sự: phạm tội trên lãnh thổ nước Việt Nam. Theo Công
văn số 318/CV-BNV(V11) ngày 29/3/1992 của Bộ Công an trong về việc
báo cáo xin ý kiến trước khi bắt, giam giữ một số đối tượng đặc biệt, thì
việc bắt người nước ngoài phạm tội phải báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Bộ
trước khi bắt; nếu phạm tội quả tang thì ngay sau khi bắt phải báo cáo
nhanh nhất lên lãnh đạo Bộ. Quy định này là cần thiết và phù hợp với đặc
điểm tình hình trước đây, thời điểm đó số lượng người nước ngoài vào
nước ta còn hạn chế, đối tượng phạm tội chưa nhiều, chưa phổ biến.
Thời gian vừa qua, số lượng người nước ngoài đến Việt Nam và đã
thực hiện hành vi phạm tội có chiều hướng gia tăng. Khi bắt các đối

tượng này, các đơn vị, địa phương có thể chủ động giải quyết mà không
cần xin ý kiến trước của lãnh đạo Bộ. Việc báo cáo xin ý kiến lãnh đạo
Bộ sẽ gây khó khăn, cản trở công tác điều tra, tạo tâm lý ỷ lại cấp trên,
thụ động trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Chỉ thị số 52-CT/TW
ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị yêu cầu việc báo cáo xin ý kiến cấp uỷ
chỉ trong phạm vi “người phạm tội là người nước ngoài hoạt động chính
trị phản động hoặc phạm pháp về kinh tế, nhưng việc xét xử có ảnh
hưởng về chính trị”. Với những trường hợp này, khi Công an cấp tỉnh
phát hiện thì Ban giám đốc báo cáo với đồng chí Bí thư tỉnh uỷ, thành uỷ,
đồng thời báo cáo với Đảng uỷ Công an Trung ương xin ý kiến chỉ đạo”.
Công văn số 81 ngày 10/6/2002 của TAND tối cao quy định: “đối với vụ
án hình sự có bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi hoặc nghĩa vụ liên
8


quan, nguyên đơn dân sự là người nước ngoài hoặc tổ chức nước ngoài
thì thẩm quyền xét xử thuộc về tòa án cấp tỉnh”, nếu cấp huyện phát hiện
người nước ngoài phạm tội thì phải chuyển vụ việc cho cơ quan điều tra
cấp tỉnh trở lên xử lý. Hiện nay, theo Quyết định số 1044/QĐ - BCA
(C11) ngày 05/9/2007 về phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp
trong hoạt động điều tra của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an các cấp,
thì thủ tục bắt đối tượng là người nước ngoài tiến hành như thủ tục bắt
được quy định trong BLTTHS. Trên thực tế, sau khi bắt những đối tượng
này, các cơ quan tiến hành tố tụng thường có văn bản thông báo cho Sở
ngoại vụ để theo dõi, xác định quốc tịch và thông báo cho cơ quan đại
diện ngoại giao nước họ để phối hợp xử lý.
Nghiên cứu thực tiễn về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người
trong Tố tụng hình sự đối với người nước ngoài không có thân phận
ngoại giao phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam còn gặp một số khó khăn,
vướng mắc:

Một là, khi tiến hành bắt khẩn cấp hoặc bắt bị can để tạm giam đối
với họ phải tuân theo theo quy định của luật Tố tụng hình sự như: đọc và
giải thích lệnh bắt, hoạt động này thường phải có người phiên dịch. Khi
thi hành lệnh bắt khẩn cấp cũng rất khó thực hiện, vì trường hợp bắt này
mang cấp tính cấp bách, người phiên dịch của ta còn ít, khả năng ngoại
ngữ của lực lượng tiến hành bắt còn hạn chế. Vì vậy, vấn đề đọc lệnh;
giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt chỉ mang tính hình thức,
đối tượng bị bắt không hiểu được họ có quyền và nghĩa vụ gì khi tham
gia Tố tụng hình sự.
Hai là, Điều 24 BLTTHS cho phép người tham gia tố tụng được
quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình, vì thế một số đối
tượng người nước ngoài đã lợi dụng điểm này, dù biết tiếng Anh nhưng
họ vẫn cứ dùng ngôn ngữ bản địa giao dịch với cơ quan điều tra. Người
phiên dịch của nước ta chủ yếu dùng tiếng Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc;
9


các thứ tiếng khác như: Thái Lan, Pakistan, Iran, Nigieria, Ghana,
Congo… rất ít người phiên dịch. Khi không giao dịch được thì khó khăn
cho việc thu thập tài liệu, chứng cứ ban đầu để bắt người phạm tội. Có
trường hợp quần chúng bắt người nước ngoài phạm tội quả tang giao cho
cơ quan Công an, do bất đồng ngôn ngữ nên cơ quan Công an không lấy
lời khai, thu thập tài liệu chứng cứ để chứng minh tội phạm, khi hết thời
hạn tạm giữ thì phải trả tự do cho họ. Như vậy, trường hợp này đã để lọt
tội phạm, ảnh hưởng tới hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm.
Ba là, để bắt người theo quyết định truy nã có kết quả thì trong
quyết định này phải có đủ những thông tin về đối tượng bị bắt, thực tế
nhiều quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội lại thiếu những
thông tin cần thiết. Khi có quyết định truy nã người nước ngoài phạm tội

thì cơ quan có thẩm quyền phải báo cáo ngay cho Văn phòng Interpol để
phối hợp truy bắt. Công an các tỉnh, thành phải xác định được đầy đủ các
thông tin cần thiết về đặc điểm nhân thân, đặc điểm dạng người, quốc tịch
của người bị bắt và báo ngay cho Văn phòng Interpol để phối hợp truy
bắt đối tượng, đồng thời phải báo ngay cho phòng Quản lý xuất nhập
cảnh không làm thủ tục xuất cảnh với các đối tượng trên và ra thông báo
truy nã toàn quốc để mọi người phát hiện bắt giữ phục vụ cho yêu cầu
giải quyết vụ án.
Để nâng cao hiệu quả bắt người nước ngoài phạm tội, theo chúng tôi
phải làm tốt công tác sau:
Quy định rõ hơn thủ tục xử lý đối với người được hưởng quyền
miễn trừ ngoại giao có phạm tội quả tang (ai lập biên bản phạm tội quả
tang, ai thu giữ vật chứng, thủ tục tiến hành như nào?). Bộ Công an cần
ban hành một quy trình quy định về: việc tiếp nhận tin báo về tội phạm có
yếu tố nước ngoài, thủ tục xử lý và giải quyết các nguồn tin trên cho đến
khi kết thúc hồ sơ, chuyển vụ án tới Viện Kiểm sát để đề nghị truy tố.
10


Cần có quy định riêng, nới rộng hơn về thời gian kiểm tra, xác minh
nguồn tin về tội phạm do người nước ngoài thực hiện.
IV. Thực trạng quy định của pháp luật về biện pháp bắt bị can,
bị cáo để tạm giam, nguyên nhân và biện pháp khắc phục.
1. Thực trạng.
Thứ nhất: Về đối tượng và các trường hợp áp dụng.
Pháp luật chưa có quy định rõ ràng , cụ thể về từng trường hợp được
bắt để tạm giam. Khi áp dụng biện pháp này, cơ quan và người tiến hành
tố tụng phải có căn cứ vào quy định tại khoản 1,2 điều 88 BLTTHS trong
khi đó tại điều 80 lại không viện dẫn được điều kiện đối với bị can, bị cáo
có thể bị bắt để tạm giam. Điều này cho thấy chưa có sự liên hệ giữa các

điều luật.
Thêm vào đó, luật không quy định chặt chẽ và thiếu sự thống nhất về
các đối tượng bị bắt để tạm giam. Không hề có biện pháp để ngăn chặn
những chủ thể được quy định tại điều 88 khoản 2 nếu nhưng chủ thể này
tiếp tục phạm tội hoặc cố ý cản trở công tác điều tra, truy tố, xét xử ; bị
can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ để cho
rằng nếu không tạm giam thì họ sẽ gây hại cho an ninh quốc gia.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng đối với
các trường hợp bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư
trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự hoặc là lưu
manh chuyên nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử thì có thể bắt tạm giam. Mặc dù, quan điểm hiện nay nên giảm
thiểu các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, nhưng việc quy định
bắt tạm giam đối với đối tượng này là cần thiết cho hoạt động điều tra của
Cơ quan điều tra.
Thứ hai: Về thời hạn bắt theo lệnh.

11


Khi đem lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng việc triển khai có
thể chậm trễ do đối tượng bỏ trốn. Như vậy, trong trương hơp này,thời
hạn bắt là có giới hạn. Tuy nhiên, luật lại không có quy định cụ thể về
thời gian giới hạn việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Chính điều này có
thể gây ra sự chậm trễ, kéo dài đến hết hạn điều tra.
Thứ ba: Khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định “Không được bắt
người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc
bắt người đang bị truy nã quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật
này” theo em là chưa chính xác, không thống nhất mà phải quy định rõ

“không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm”.
Thứ tư: việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều
80 BLTTHS, với tên gọi của chế định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam” nên đã dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực
hiện lệnh tạm giam”. Cách hiểu như vậy là không đúng bởi lẽ nếu coi
“bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm
giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên
căn cứ pháp lý nào? Vì vậy xác định tên gọi của chế định này là “bắt tạm
giam bị can, bị cáo”.
2. Nguyên nhân.
Trước hết phải thấy rằng kĩ thuật lập pháp của chúng ta chưa cao.
Tuy các quy định đã có nhiều cải tiến nhưng vẫn còn những hạn chế,
chưa theo sát thực tiễn tội phạm. CHính vì thế khi áp dụng nảy sinh nhiều
vấn đề mà pháp luật không phù hợp.
Thêm vào đó, việc hướng dẫn các quy định của pháp luật nhiều khi
không rõ ràng, mập mờ. Hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành luật
không phải là thiếu nhưng quy định chưa đồng bộ, nhiều điểm mâu thuẩn
nhau dẫn đến việc áp dụng khó khăn.

12


Một nguyên nhân nữa là trình độ hiểu biết pháp luật của người áp
dụng chưa cao nên dẫn đến việc áp dụng luật không thành thạo, nhiều sai
sót.
Thêm vào đó, hiện nay tình hình tội phạm ngày càng biến đổi nhanh
chóng, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, nguy hiểm hơn trong khi các
quy định của pháp luật lại chưa dự liệu được. Bên cạnh đó, trình độ, năng
lực , trang bị của các cơ quan bảo vệ pháp luật lại hết sức đơn giản, hoạt
động mang nặng tính hành chính sự nghiệp.

Nguyên nhân tiếp theo là nguồn kinh phí chi cho hoạt động nghiên
cứu, bồi dưỡng, đào tạo nhân lực còn chưa được đảm bảo. Điều đó dẫn
đến người làm công tác còn hạn chế, ý thức trách nhiệm chưa cao…
3. Giải pháp.
Một là: cần có khái niệm cụ thể về biện pháp bắt bị can, bị cáo để
tạm giam nhằm tạo ra một cách hiểu thống nhất về biện pháp ngăn chặn
này.
Hai là: Cần phải quy định về các trường hợp bắt bị can, bị cáo để
người có thẩm quyền áp dụng trên thực tế và tạo ra sự logic giữa các điều
luật.
Ba là: thời hạn bắt bị can, bị cáo cần được quy định cụ thể, không
thể để kéo dài gây khó khăn cho công tác tố tụng.
Bốn là: nâng cao hơn nữa năng lực , trình độ, trách nhiệm và thái độ
làm việc của đội ngũ nhân lực, Từng bước hiện đại hóa trang thiết bị…
Năm là,Cần phải ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất, chi tiết
việc bắt các đối tượng là đại biểu dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ
CAND; người có chức sắc trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có
danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có
tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý tới và
người nước ngoài.

13


Bộ Luật Tố tụng hình sự chưa có điều luật quy định việc bắt các đối
tượng nêu trên. Trong khi đó việc bắt những “đối tượng đặc biệt” này
được quy định trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước, văn bản của
Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Công văn số 318/CV-BNV(V11)
ngày 29/3/1992 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) về việc xin ý kiến

trước khi bắt, giam, giữ một số đối tượng đặc biệt; chỉ thị số 52-CT/TW
ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn
giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng VKSND,
Ban cán sự Đảng TAND trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm
liên quan đến cán bộ, đảng viên; Hướng dẫn số 05-HD/NCTW ngày
15/01/2001 của Ban Nội chính Trung ương về sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác xử lý tội phạm theo tinh thần chỉ thị số 52-CT/TW ngày
16/3/2000 của Bộ Chính trị về việc bắt giữ các đối tượng đặc biệt.
* Nhận xét.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật về bắt bị can, bị cáo để tạm
giam là khá hoàn chỉnh và chính xác. Điều này đã giúp ích rất nhiều cho
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền mà còn là sự đảm bảo
quan trọng cho các quyền tự do cá nhân của bị can, bị cáo không bị xâm
phạm. Tuy còn tồn tại những hạn chế nhưng không thể phủ nhận nỗ lực
của các chủ thể có thẩm quyền.

C.Kết luận.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là quy định cần thiết nhằm đảm bảo
việc thực thi pháp luật . Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đê các quyền tự
do của các nhân. Do vậy, việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo các quyền tự do cá
nhân đó không bị xâm phạm . Để làm được điều đó trước hết đòi hỏi sự
14


cố gắng của tất cả các chủ thể có thẩm quyền để tránh tình trạng sai sót
khi thực hiện.

15



Danh mục tài liệu tham khảo
- Trường Đại học Luật Hà Nội- Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt
Nam 2007- NXB CAND.
- Bộ luật tố tụng hình sự
- Viện khoa học pháp lý- Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
2003, NXB Tư pháp.
- luathinhsu.wordpress.com

16


Mục Lục



×