Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Thực trạng việc bảo vệ quyền nhân thân- ví dụ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.54 KB, 18 trang )

Mục lục(17 trang)
MỞ ĐẦU
BÀI LÀM
I. Quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự
1.
2.

Quan hệ nhân thân và đặc điểm quan hệ nhân thân
Nội dung quyền nhân thân và những quy định về quyền nhân thân
trong bộ luật dân sự 2005: Khái niệm, đặc điểm....

II. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân
III. Các phương thức bảo vệ quyền nhân thân
IV. Thực trạng việc bảo vệ quyền nhân thân- ví dụ thực tiễn.
V. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
1


MỞ ĐẦU
Mỗi người trong chung ta đều có một số quyền mà trong đó, quyền
nhân thân là một trong những quyền cơ bản nhất. “Quyền nhân thân”
(Personaltily rights) là thuật ngữ pháp lí để chỉ những quyền gắn liền với bản
thân của mỗi con người, gắn liền với đời sống riêng tư của mỗi cá nhân, có
liên quan mật thiết đến danh dự, nhân phẩm, uy tín… của người đó. Trong
pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân được quy định cụ thể trong pháp
luật dân sự và chủ yếu là Bộ luật Dân sự việc Nhà nước ban hành và quy định
các quyền nhân thân của cá nhân trong Bộ luật dân sự là sự khẳng định sự của


Nhà nước đối với các giá trị của quyền nhân thân.
NOI DUNG

I. Quyền nhân thân trong Bộ luật dân sự
Muốn hiểu rõ về quyền nhân thân được quy định trong BLDS, cần phải
hiểu rõ thế nào là quan hệ nhân thân.
1. Quan hệ nhân thân và các đặc điểm của quan hệ nhân thân
1.1 Khái niệm quan hệ nhân thân:
Quan hệ nhân thân thuộc đối tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật
khác nhau. Khi nói tới quan hệ nhân thân, chúng ta có thể hiểu các quan hệ
này xuất phát từ các giá trị tinh thần của chủ thể, giá trị tinh thần này có thể
gắn liền với lợi ích về kinh tế hoặc có thể không gắn liền với lợi ích về kinh
tế.
Luật Dân sự điều chỉnh hai đối tượng chính đó là quan hệ tài sản và
quan hệ nhân thân (Điều 1 BLDS). Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với
2
2


người thông qua một tài sản. Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn với một tài sản
nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác, mang tính chất hàng
hóa – tiền tệ (đem ra trao đổi, vì mục đích cá nhân bằng trị giá khi trao đổi,
bồi thường thiệt hại hoặc tranh chấp khi chia tài sản), mang tính chất đền bù,
ngang giá. Khác với quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người
với người về một giá trị nhân thân của cá nhân hay tổ chức. Quan hệ nhân
thân phát sinh vì lợi ích tinh thần, luôn gắn liền với chủ thể nó không mang
tính hàng hóa - tiền tệ và không thể tính được bằng trị giá. Nếu như ở quan hệ
tài sản, có thể có sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thì
trong quan hệ nhân thân, việc dịch chuyển các giá trị tinh thần là không thể
thực hiện được.

1.2. Phân loại quan hệ nhân thân:
Luật Dân sự trong việc điều chỉnh các quan hệ nhân thân khằng định
đây là những quyền tuyệt đối gắn liền với cá nhân. Quan hệ nhân thân trong
Luật dân sự được chia làm 2 nhóm: Quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền
nhân thân không gắn với tài sản.
+ Nhóm các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là nhóm các quan hệ
xuất phát từ các giá trị tinh thần ban đầu, các chủ thế sẽ được hưởng các lợi
ích vật chất từ việc chuyển quyền đối với kết quả của hoạt động sáng tạo. Đây
là những quan hệ nhân thân do cá nhân tạo ra từ việc tạo ra một giá trị tinh
thần bằng nhân thân và gắn với tài sản và nó có thể chuyển giao cho người
khác.
+ Nhóm các quan hệ nhân thân không gắn với tài sản là nhóm các quan
hệ được Nhà nước quy định trong Bộ luật dân sự cho các cá nhân. Các quan
hệ nhân thân không gắn với tài sản đó là các quan hệ nhân thân xuất phát từ

3
3


giá trị tinh thần và các giá trị tinh thần này không có nội dung kinh tế và hoàn
toàn không thể chuyển giao được.

2. Quyền nhân thân và những quy định về quyền nhân thân trong bộ
luật dân sự 2005
“Quyền” được hiểu theo góc độ pháp lí là điều mà pháp luật công nhận
cho người đó được hưởng, được làm, được đòi hỏi. Có nhiều cách phân loại
quyền theo những cơ sở khác nhau, dựa trên lĩnh vực có thể phân loại quyền
thành quyền trong lĩnh lực: kinh tế, chính trị, văn hóa… Cũng có thể phân
loại quyền dựa trên tính chất của đối tượng thuộc thành: quyền nhân thân và
quyền về tài sản.

Theo quy định của BLDS năm 2005, các quyền nhân thân bao gồm:
Quyền đối với tên, họ (Điều 26); quyền thay đổi tên họ (Điều 27); quyền xác
định dân tộc (Điều 28); quyền được khai sinh (Điều 29); quyền được khai tử
(Điều 30); quyền của cá nhân đối với hình ảnh (Điều 31); quyền được bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể (Điều 32); quyền hiến bộ phận
cơ thể (Điều 33); quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều 34);
quyền nhận bộ phận cơ thể người (Điều 35); quyền xác định lại giới tính
(Điều 36); quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 37); quyền bí
mật đời tư (Điều 38); quyền kết hôn (Điều 39); quyền bình đẳng của vợ chồng
(Điều 40); quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình
(Điều 41); quyền li hôn (Điều 42); quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con
(Điều 43); quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi
(Điều 44); quyền đối với quốc tịch (Điều 45); quyền bất khả xâm phạm về
chỗ ở (Điều 46); quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 47); quyền tự do đi

4
4


lại, tự do cư trú (Điều 48); quyền lao động (Điều 49); quyền tự do kinh doanh
(Điều 50); quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo (Điều 50).
Quyền nhân thân của cá nhân là một trong những quyền dân sự cơ bản
của con người được pháp luật bảo hộ. Hầu hết các quốc gia đều thừa nhận
quyền nhân thân của con người là một quyền tự nhiên, tuyệt đối, không thể
chuyển giao, nó có từ khi con người sinh ra và gắn liền với người đó cho đến
khi chết đi. Việc tôn trọng quyền nhân thân của người khác là nghĩa vụ của
mọi người và cũng là nghĩa vụ của chính người đó. Khi thực hiện quyền nhân
thân của mình về nguyên tắc không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khác. Trong một xã hội lí tưởng, mọi quyền dân sự trong đó
có quyền nhân thân của cá nhân sẽ được mọi người tôn trọng, không bị xâm

phạm. Tuy vậy, trên thực tế của đời sống xã hội do nhận thức của mỗi người
khác nhau nên cũng như các quyền dân sự khác việc xâm phạm đến quyền
nhân thân của cá nhân là điều không tránh khỏi. Việc xâm phạm đến quyền
nhân thân của cá nhân không những gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền
dân sự của cá nhân đó mà còn ảnh hưởng tới trật tự pháp lí của xã hội.
Điều 24 BLDS 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong
Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao
cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Có thể nói rằng
quy định này thể hiện một trình độ lập pháp cao mà theo Giáo sư Ravanas của
Trường Đại học Aix – Marseille, Cộng hòa Pháp thì “quy định này là tổng
hợp tất cả những đặc điểm của chế độ quyền nhân thân trong pháp luật dân
sự của các nước trên thế giới” (Hội thảo quyền nhân thân trong pháp luật dân
sự – Nhà pháp luật Việt – Pháp). Cộng hòa Pháp tuy không quy định đầy đủ
các quyền nhân thân của cá nhân trong BLDS, nhưng trong hệ thống án tiền lệ
của các Tòa án Pháp, khái niệm quyền nhân thân được hiểu là: “quyền dân sự

5
5


gắn với duy nhất tư cách cá nhân con người, nó thuộc về cá nhân bởi đơn
giản họ là con người”.
II. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền nhân thân của con người:
Khác các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong nhiều lĩnh
vực đời sống của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh
thần của cá nhân. Mỗi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người bị xâm phạm. Vì vậy,
việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có ý
nghĩa rất quan trọng. Trước hết, bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có tác
dụng kịp thời ngăn chặn các hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân

thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lí xã hội và giáo dục ý thức pháp luật
làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân. Mặt khác, bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân
của cá nhân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các
hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần cho
mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo. Tuy vậy, quyền
nhân thân của cá nhân có những điểm khác các quyền dân sự khác như không
thể trị giá được bằng tiền, không thể chuyển giao cho người khác, trừ những
ngoại lệ do pháp luật quy định… Vì vậy, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân trong trường hợp bị xâm phạm có một số khác biệt với việc bảo vệ các
quyền dân sự khác như các biện pháp bảo vệ được áp dụng đa dạng, việc khắc
phục thiệt hại về quyền nhân thân bị xâm phạm trong một số trường hợp phải
do chính những người hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân
của cá nhân phải thực hiện, việc bồi thường thiệt hại khắc phục thiệt hại về
quyền nhân thân không thể tính toán cụ thể, chỉ là tương đối và mang tính
giáo dục là chủ yếu v.v… Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá
nhân chịu sự ảnh hưởng rất lớn của cả các quy định pháp luật và những điều
6
6


kiện xã hội. Để nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân
ngoài góc độ pháp lí thì vấn đề này cũng cần phải được quan tâm nghiên cứu,
xem xét kỹ cả dưới góc độ xã hội.

III. Các phương thức bảo vệ quyền nhân thân
Nhiều vụ án đã được tòa án thụ lí xét xử, buộc người vi phạm dù là cá
nhân hay tổ chức, dù là tư nhân hay Nhà nước, đều phải có nghĩa vụ xin lỗi và
bồi thường bằng tiền cho công dân bị xâm phạm. Từ các cơ quan nhà nước
tiến hành tố tụng (khởi tố, giam giữ, xét xử…) gây oan sai; từ báo chí thông

tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống; từ việc cá nhân, tổ chức đạo văn, ăn cắp
nhạc, xâm phạm bản quyền: từ việc tự ý sử dụng họ tên, hình ảnh của công
dân trên các mẫu quảng cáo, in lịch mà không hỏi ý kiến và không được sự
đồng ý của người đó hoặc thân nhân của họ (nếu họ đã chết, mất năng lực
hành vi dân sự). Có lần một ca sĩ đã bị một nhà xuất bản tự ý lấy hình của
mình in lên lịch, anh ta đã làm đơn kiện nhà sản xuất. Qua sự việc này có thể
thấy, xâm phạm quyền nhân thân của công dân không nhất thiết phải gây ra
thiệt hại cho cá nhân công dân đó mà kể cả trường hợp người bị xâm phạm
không bị thiệt hại gì, thậm chí có khi còn có lợi cho họ nhưng về nguyên tắc
không hề có sự đồng ý của họ đã bị coi là vi phạm.
Việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là một khâu trong cơ chế bảo
đảm việc thực hiện quyền nhân thân của cá nhân. Tuy vậy, việc bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân một cách tùy tiện cũng có thể xâm phạm, gây thiệt hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác vì vậy pháp luật đã phải quy định
các phương thức, biện pháp bảo vệ quyền nhân thân trong trường hợp bị xâm
phạm. Hiện nay, pháp luật dân sự quy định các biện pháp bảo vệ và khôi phục
các quyền nhân thân của công dân. Theo đó, người xâm phạm quyền nhân
7
7


thân của người khác thì dù cố ý hay vô ý đều là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử
lí theo quy định. Trong trường hợp quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm
cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm chỉ được bảo vệ quyền nhân thân
của mình theo những phương thức và biện pháp do pháp luật quy định. Điều
25 BLDS quy định về việc bảo vệ quyền nhân thân như sau:
“Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự mình cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải chính công

khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền
buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.”
Đây là những biện pháp bảo vệ quyền nhân thân mang tính đặc trưng
của pháp luật dân sự. Những biện pháp này được sử dụng trong từng trường
hợp khác nhau và theo trình tự từ thấp đến cao, từ nhẹ đến nặng, phù hợp với
đặc thù của quan hệ pháp luật dân sự là trước tiên phải tôn trọng ý kiến của
các bên, tôn trọng sự thỏa thuận của họ. Pháp luật chỉ can thiệp khi các bên có
yêu cầu.
Khoản 1 Điều 25 BLDS quy định quyền của người bị xâm hại các
quyền nhân thân được tự mình cải chính. Tự mình cải chính là biện pháp bảo
vệ quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm được áp dụng trong trường hợp
người có hành vi trái pháp luật đưa ra những tin tức không đúng xúc phạm
đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Việc pháp luật quy định cá nhân có
quyền nhân thân bị xâm phạm tự bảo vệ quyền nhân thân của mình bảo đảm
việc bảo vệ quyền nhân thân được tiến hành kịp thời, ngăn chặn được hậu quả
8
8


xấu có thể xảy ra, hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về vật chất và tinh thần
do những xâm phạm gây ra và có thể không khoét sâu thêm mâu thuẫn giữa
các đương sự, giữ gìn được mối quan hệ bình thường giữa các đương sự. Đây
là biện pháp đơn giản nhất để bảo vệ quyền nhân thân của chủ thể bị xâm
phạm được pháp luật trao cho. Tuy vậy, việc tự bảo vệ quyền nhân thân của
cá nhân thường chỉ có hiệu quả khi người có hành vi trái pháp luật xâm phạm
đến quyền nhân thân của cá nhân nhận thức được trách nhiệm của họ. Để
người có quyền nhân thân bị xâm phạm thực hiện được việc tự cải chính thì
pháp luật phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thực hiện việc tự cải chính
của người họ nhưng do các văn bản pháp luật liên quan không có quy định,

hướng dẫn cụ thể nên việc tự cải chính những tin tức xúc phạm đến danh dự,
nhân phẩm của cá nhân trên thực tế hầu như không thể thực hiện được hoặc
có thực hiện thì cũng không hiệu quả. Hơn nữa, về tâm lý thì cũng không mấy
ai tin việc cải chính của chính người có quyền nhân thân bị xâm phạm.
Khoản 2 Điều 25 quy định quyền yêu cầu người vi phạm chấm dứt
hành vi vi phạm là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp
dụng trong mọi trường hợp quyền nhân thân bị xâm phạm. So với biện pháp
tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng trong một phạm vi rộng hơn. Tuy
nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường
hợp người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân sớm nhận thức được hành
vi trái pháp luật của họ. Nếu người có hành vi xâm phạm quyền nhân thân
không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì phương thức bảo vệ
quyền nhân thân này cũng không có hiệu quả và lúc đó người có quyền nhân
thân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mạnh mẽ hơn mới bảo
đảm được quyền nhân thân của mình.
Khoản 2 Điều 25 cũng quy định về quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm cũng là biện pháp
bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp
9
9


quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm. Đây là biện pháp bảo vệ quyền
nhân thân có hiệu quả cao vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc
người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân chấm dứt
hành vi đó. Trên thực tế, biện pháp này thường được người có quyền nhân
thân bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp đã yêu cầu chấm dứt hành vi trái
pháp luật nhưng không được đáp ứng. Cá nhân có quyền nhân thân bị xâm
phạm có thể yêu cầu các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của

pháp luật bảo vệ như yêu cầu tổ hòa giải ở cơ sở, Ủy ban nhân dân các cấp,
Tòa án, Viện kiểm sát,… bảo vệ. Các cơ quan, tổ chức này căn cứ vào yêu
cầu của đương sự, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã được pháp luật quy định
tiến hành các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân bị xâm phạm như xử lí người có hành vi xâm phạm
quyền nhân thân của cá nhân, buộc họ phải chấm dứt hành vi xâm phạm hoặc
bồi thường thiệt hại. Đặc biệt, việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân thông
qua việc yêu cầu các cơ quan nhà nước như Tòa án, Viện kiểm sát bảo vệ là
rất cần thiết bởi các cơ quan này là các cơ quan nhà nước được Nhà nước giao
nhiệm vụ quyền hạn bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể, trong
đó có quyền nhân thân của cá nhân. Hơn nữa, các quyết định của Tòa án,
Viện kiểm sát còn được bảo đảm thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước do đó
các quyết định liên quan đến việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân của các
cơ quan này sẽ được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, bảo vệ quyền
nhân thân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ được thực hiện theo một
trình tự, thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi người có quyền nhân thân của mình, hành
vi xâm phạm quyền nhân thân của họ là trái pháp luật.
Khoản 3 Điều 25 quy định quyền yêu cầu người vi phạm bồi thường
thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm
bồi thường thiệt hại là biện pháp bảo vệ quyền nhân thân được thực hiện khi
10
10


người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân
gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho họ. Nếu có hành vi trái pháp
luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất
hoặc tinh thần thì cá nhân có quyền nhân thân bị xâm hại có quyền yêu cầu
người có hành vi trái pháp luật bồi thường thiệt hại cho mình. Nếu người có
hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân không chịu

bồi thường thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa
án hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật. Về vấn đề bồi thường thiệt hại, bộ luật
dân sự cũng quy định về mức bồi thường cho những thiệt hại khi xâm phạm
quan hệ nhân thân cụ thể tại Điều 609 đến Điều 612 Mục 2 chương XXI, phần
thứ ba của bộ luật dân sự. Cụ thể, khi có hành vi xâm hại đến sức khỏe; xâm
hại đến tính mạng; xâm hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín đều phải bồi
thường các chi phí cho thiệt hại vật chất và tinh thần. Riêng về mức bồi
thường thiệt hại tinh thần thường để cho các bên thỏa thuận, nếu không thỏa
thuận được sẽ bồi thường tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu đối
với thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm, tối đa không quá sáu mươi tháng
lương tối thiểu đối với thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm và tối đa không
quá mười tháng lương tối thiểu do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Tại khoản 2, khoản 3 Điều 25 BLDS quy định khi quyền nhân thân của
cá nhân bị xâm phạm thì người có quyền đó được yêu cầu cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền bảo vệ thông qua việc buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại. Theo quy định này,
thì người có quyền nhân thân bị xâm phạm được yêu cầu cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền bảo vệ nhưng cơ quan, tổ chức nào là cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền lại chưa được quy định rõ ràng. Bên cạnh đó còn tồn tại vấn đề trong
các văn bản pháp luật hiện hành không có quy định về việc bảo vệ quyền
nhân thân của người có quyền nhân thân bị xâm phạm trong trường hợp họ đã
11
11


chết. Tuy dù họ đã chết nhưng việc bảo vệ quyền nhân thân của họ vẫn phải
đặt ra vì trong nhiều trường hợp việc xâm phạm đến các quyền nhân thân của
họ cũng có những ảnh hưởng xấu nhất định tới những người thân và những
người liên quan đến họ. Từ việc pháp luật không quy định cụ thể về thẩm

quyền của cơ quan, tổ chức trong việc bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân,
các loại vụ việc Tòa án có thẩm quyền giải quyết nên trong thực tiễn xét xử
của Tòa án có vụ việc được Tòa án thụ lí giải quyết, có vụ việc Tòa án không
thụ lí giải quyết và quan điểm về thẩm quyền về giải quyết các vụ việc về
quyền nhân thân giữa các Tòa án cũng rất khác nhau dẫn đến cùng loại vụ án
Tòa án này thì thụ lí giải quyết, Tòa án khác lại không thủ lí giải quyết.
Việc bồi thường thiệt hại là trách nhiệm pháp lý giữa người với người –
giữa người vi phạm với người bị xâm phạm; còn đối với xã hội nói chung thì
Nhà nước đại diện cho xã hội sẽ xử phạt họ. Việc xâm phạm quyền nhân thân
của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu ở mức độ thấp, tính
nguy hiểm chưa đáng kể thì có thể bị Nhà nước xử lí hành chính; nếu nguy
hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể thì người thực hiện hành vi ấy có thể bị xử
lí hình sự theo các tội danh quy định trong Bộ luật hình sự như: tội làm nhục
người khác (Điều 121), tội vu khống (Điều 122), tội sử dụng trái phép thông
tin trên mạng và trong máy tính (Điều 226), tội truyền bá văn hóa phẩm đồi
trụy (Điều 253),...
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì có nhiều phương thức bảo vệ
quyền nhân thân, tùy quyền nhân thân nào của cá nhân bị xâm phạm, tùy mức
độ xâm phạm và thái độ của người có hành vi trái pháp luật mà cá nhân có
quyền nhân thân bị xâm phạm có thể lựa chọn thực hiện phương thức pháp lí
cần thiết, phù hợp để bảo vệ quyền nhân thân của mình. Việc pháp luật quy
định cá nhân có quyền nhân thân bị xâm phạm có thể bảo vệ quyền nhân thân
của mình theo các phương thức khác nhau là cần thiết, tạo điều kiện cho việc
bảo vệ quyền nhân thân có hiệu quả. Hơn nữa, các quyền nhân thân của cá
12
12


nhân bao gồm nhiều quyền khác nhau và các hành vi xâm phạm đến quyền
nhân thân cũng rất đa dạng nên việc pháp luật quy định đa dạng hóa các

phương thức bảo vệ quyền nhân thân của cá nhân là rất cần thiết.
VI. Thực trạng việc bảo vệ quyền nhân thân – Ví dụ thực tiễn:
Quyền nhân thân của cá nhân đã được quy định rất cụ thể, rõ ràng trong
Bộ luật dân sự năm 2005 và nhiều văn bản hướng dẫn đã tạo thuận lợi cho
việc áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, xã hội phát triển ngày càng đa dạng và
phức tạp cùng với nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng xâm hại
đến quyền nhân thân của các cá nhân xảy ra nhiều và xâm hại đến nhiều
quyền nhân thân khác nhau với nhiều vụ việc xảy ra rất nghiêm trọng. Một
ví dụ đơn giản mà chúng ta có thể dễ dạng nhận thấy đó là việc bí mật đời
tư hay những thông tin cá nhân của một người nào đó xuất hiện rất nhiều
trên mặt báo mà không được sự đồng ý của họ, thông tin thường không
được kiểm chứng, và sau đó chỉ có vài dòng cải chính, một vài lời xin lỗi là
mọi việc lại được cho qua dễ dàng, họ không phải chịu trách nhiệm nào về
những thông tin như vậy. Ý thức pháp luật không có, và vấn đề lương tâm
nghề nghiệp cũng cần phải xét đến ở đây.
+ Ví dụ thực tiễn


Tháng 1-2003, cô Phan Thị Như Quỳnh gửi đơn khiếu nại Tổng cục
Du lịch Việt Nam và tác giả Vũ Quốc Khánh vì sử dụng bức ảnh “Nụ
cười Việt Nam” có ảnh của cô mà không xin phép. Bức ảnh này được
nghệ sĩ nhiếp ảnh Vũ Quốc Khánh chụp năm 1994, đến năm 2000 được
Tổng cục Du lịch Việt Nam chọn làm biểu tượng “Việt Nam! Điểm đến
của thiên niên kỷ mới!”

13
13





Đầu năm 2004, gia đình bé Minh Khôi kiện Công ty Biti’s, đòi bồi
thường thiệt hại 154 triệu đồng vì Biti’s xài trái phép ảnh của bé Minh
Khôi in trên bìa lịch, tập quảng cáo. Tháng 9-2004, TAND quận 6
(TP.HCM) buộc Biti’s phải xin lỗi công khai gia đình bé Khôi, chấm
dứt vô điều kiện việc sử dụng trái phép hình ảnh của bé và bồi thường
gần ba triệu đồng.



Tháng 2-2004, Công ty Điện toán và Truyền số liệu VDC (Tổng Công
ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam) xài không xin phép ảnh “Hai bà
cháu” trên thẻ gọi điện thoại 1717. Đây là bức ảnh được nghệ sĩ Mạnh
Đan chụp năm 1982. Sau đó, VDC phối hợp với đơn vị thiết kế mẫu
đến, gặp gia đình thân nhân người được chụp ảnh để nhận lỗi, thoả
thuận bồi thường…



Tháng 12-2004, nhà nhiếp ảnh Nguyễn Văn Trí phát hiện bức ảnh in
trên tờ vé số An Giang chính là tấm ảnh có tên “Hoa sen” mà ông chụp
ở Đồng Tháp Mười. Ông Trí đã hỏi Công ty Xổ số kiến thiết An Giang
và Công ty cổ phần In An Giang, được các nơi này cho biết lấy bông
sen trên đĩa vi tính, không đề tên tác giả nên không biết và “mong tác
giả thông cảm”!



Tháng 4-2006, luật sư Phạm Thành Long khiếu nại sân bay Tân Sơn
Nhất dùng bức ảnh “Áo dài” của ông làm pano ở đường vào sân bay.

Bức ảnh này được ông chụp nhân ngày khai giảng tại cổng trường Trần
Phú (Hà Nội), sau đó được công bố lần đầu vào ngày 6-9-2004 trên
mạng. Ông đã đăng ký bảo hộ quyền tác giả đối với bức ảnh tại Cục
Bản quyền (Bộ Văn hoá – Thông tin). Trước đó, bức ảnh từng bị …
“xài chùa” 14 lần khiến ông phải khiếu nại nhiều tờ báo và doanh
nghiệp. Kết quả, một doanh nghiệp của Nhật đã phải bồi thường…
14

14


V. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quyền nhân thân
Trước thực trạng về việc bảo vệ quyền nhân thân – quyền cơ bản của mỗi
người như vậy, cần có một số giải pháp sau để hoàn thiện hơn nữa những quy
định của pháp luật cũng như việc đưa những quy định đó vào thực tiễn:
- Về nội dung pháp luật, cần sửa đổi, bổ sung những quy định trong Bộ
luật dân sự, những bộ luật có các điều luật liên quan đến quyền nhân thân của
con người. Với Điều 25 BLDS, tại khoản 1 cần sửa đổi, bổ sung theo hướng
quy định không chỉ người có quyền nhân thân bị xâm phạm có quyền yêu cầu
bảo vệ mà cả người đại diện của họ cũng có quyền yêu cầu bảo vệ và việc yêu
cầu bảo vệ được đặt ra trong cả trường hợp người có quyền nhân thân bị xâm
phạm đã chết vì như đã nêu trên việc xâm phạm đến quyền nhân thân của cá
nhân trong nhiều trường hợp không chỉ gây thiệt hại, ảnh hưởng tới quyền lợi
của họ mà còn gây thiệt hại, ảnh hưởng xấu tới cả quyền lợi của người thân và
người liên quan đến họ. Ngoài ra, cần sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 25
BLDS theo hướng quy định rõ cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc bảo
vệ quyền nhân thân của cá nhân để tạo thuận lợi cho cá nhân có quyền nhân
thân bị xâm phạm kịp thời thực hiện được việc bảo vệ quyền nhân thân của
mình.
- Về việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tố tụng, xét xử. Cần có

những quy định cụ thể hơn nữa về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp tòa án,
cơ quan. Về trình tự thủ tục để đề nghị tòa án xem xét, giải quyết bảo vệ
quyền nhân thân cho các cá nhân cần được quy định rõ ràng, đơn giản, ngắn
gọn. Bên cạnh đó, phải xây dựng và ban hành những văn bản hướng dẫn thi
hành Bộ luật dân sự,… về trình tự, thủ tục thực hiện việc bảo vệ quyền nhân
thân của cá nhân. Trong đó, cần chú trọng quy định, hướng dẫn về trình tự,
thủ tục tự cải chính; yêu cầu cơ quan, tổ chức khác (ngoài việc yêu cầu Tòa
án). Việc bảo vệ quyền nhân thân có nhiều điểm khác với việc bảo vệ các
15
15


quyền dân sự khác. Trong nhiều trường hợp việc bảo vệ phải được thực hiện
kịp thì mới có hiệu quả, nếu bảo vệ chậm sẽ khó khắc phục được hậu quả thiệt
hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Việc xây dựng, ban hành được các văn
bản quy định, hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục tự cải chính và yêu cầu cơ
quan, tổ chức khác bảo vệ sẽ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cá nhân có
quyền nhân thân bị xâm phạm kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo
vệ quyền nhân thân của mình, tránh được sự đùn đẩy trách nhiệm cho nhau
giữa các cơ quan, tổ chức.
KẾT LUAN
Một xã hội càng tiến bộ bao nhiêu, nền tự do dân chủ càng được mở
rộng bao nhiêu, thì con người càng được tôn trọng bấy nhiêu, và do đó các
quyền nhân thân càng được pháp luật quy định đầy đủ, rõ ràng hơn cùng với
những biện pháp bảo vệ ngày càng có hiệu quả.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

16
16



1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I,

Nxb.CAND, Hà Nội, 2006.
2. Bộ luật dân sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2005.
3. Các website: www.ledinhnghi.net

www.doisongphapluat.com
www.thongtinphapluatdansu.wordpress.vn

17
17


18
18



×