Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ VÀ CƠ QUAN NGANG BỘ QUA CÁC THỜI KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.46 KB, 15 trang )

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
BỘ VÀ CƠ QUAN NGANG BỘ
QUA CÁC THỜI KỲ.
A. MỞ ĐẦU.
Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi các cơ quan nhà nước. Bộ máy nhà nước
Việt Nam gồm 3 hệ thống cơ quan chính: lập pháp, hành pháp, tư pháp( cơ quan tòa án, cơ quan kiểm sát). Luật
Việt Nam đặt vai trò của cơ quan lập pháp rất lớn, không chỉ thiết lập ra các hệ thống cơ quan khác mà còn là cơ
quan chỉ đạo, giám sát chung. Tuy nhiên, cơ quan chấp hành của Quốc Hội là Chính Phủ(cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất) cũng có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý nhà nước và thực thi các văn bản mà Quốc Hội
ban hành.
Là một bộ phận cấu thành nên Chính Phủ, Bộ và Cơ quan ngang bộ giữ một vị trí rất quan trọng, giúp cho
Chính Phủ hoàn thiện hơn bộ máy hành chính, bảo đảm tính khả thi trong việc thực hiện chính sách quản lý nhà
nước, cùng phối hợp hoạt động có hiệu quả các lĩnh vực mà mình phụ trách. Trải qua các giai đoạn, thời kỳ, cùng
với việc sửa đổi các bản Hiến pháp (46,59,80,92). Bộ và Cơ quan ngang Bộ cũng theo đó mà đổi mới về tổ chức và
hoạt động theo hướng tích cực và tinh gọn hơn.


B. NỘI DUNG.
Bài tiểu luận được trình bày có 4 mốc giai đoạn theo 4 bản Hiến pháp:





I.

Giai đoạn 1946 – 1959.
Giai đoạn 1959 – 1980.
Giai đoạn 1980 – 1992.
Giai đoạn 1992 – nay.


Giai đoạn 1946 – 1959.

-- Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã làm lễ ra mắt quốc dân tại Quảng trường Ba
Đình, Hà Nội. Đây là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo trong toàn quốc, đợi đến ngày
triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ dân chủ cộng hòa chính thức.
Chính phủ Lâm thời gồm: 13 Bộ và 2 không bộ.
-- Nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, ổn định tình hình bên trong để tập trung đối phó với bọn
xâm lược nước ngoài, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương thành lập Chính phủ liên hiệp lâm
thời (tồn tại từ ngày 1-1 đến ngày 2-3-1946).
Chính phủ Liên hiệp lâm thời gồm 14 Bộ và 1 không bộ.
-- Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên diễn ra trên đất nước Việt Nam. Ngày 2-3-1946, Chính phủ Liên
hiệp kháng chiến ra mắt. Bao gồm 10 Bộ, 1 đoàn Cố vấn tối cao và 1 chủ tịch kháng chiến ủy viên hội.
 Cơ cấu của 3 Chính phủ trên không có chức vụ Thủ tướng mà chỉ có Chủ tịch nước đóng vai trò lãnh đạo
cao nhất.
-- Ngày 3-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình Quốc hội danh sách Chính phủ mới thay cho Chính phủ liên hiệp
kháng chiến.
Ngày 9-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà.
Chính phủ Mới gồm: 12 Bộ, 2 không bộ và 1 Cơ quan ngang bộ. (được bổ sung đến 1955).
1.Bộ Nội vụ, 2.Bộ Quốc phòng, 3.Bộ Giáo dục, 4.Bộ Tài chính, 5.Bộ Giao thông công chính, 6.Bộ Y tế, 7.Bộ Lao động,
8.Bộ Tư pháp, 9.Bộ Canh nông, 10.Bộ cứu tế, 11.Bộ Kinh tế (5-1951 đổi tên thành bộ Công thương), 12.bộ Ngoại
giao.


Cơ quan ngang bộ: Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
Bộ và Cơ quang ngang bộ của Chính phủ mới được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp 46.
Tổ chức:
+ Thủ tướng chọn Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có
thể chọn ngoài Nghi viện và do Thủ tướng đề cử ra Hội đồng chính phủ duyệt y.
+ Nếu khuyết Bộ trưởng nào thì Hội đồng chính phủ thì Thủ tướng thỏa thuận với Ban thường vụ để chỉ định

ngay người tạm thay cho đến khi Nghị viện họp và chuẩn y.
Hoạt động:
+ Mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải có chữ ký chủa Chủ tịch nước và tùy theo quyền hạn các Bộ, phải có một hay
nhiều vị Bộ trưởng trực tiếp ký. Các vị bộ trưởng ấy chịu trách nhiệm trước Nghị viện.
+ Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì phải từ chức.
+ Bộ trưởng chịu trách nhiệm cá nhân về hành vi của mình.
+ Bộ trưởng trả lời bằng thư từ hoặc bằng lời nói những điều chất vấn của Nghị viện hoặc của Ban thường vụ.
Kỳ hạn trả lời chậm nhất là 10 ngày sau khi trả lời chất vấn.
-- Ngày 20-9-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ghị thành lập Chính phủ Mở rông, được Quốc hội khóa I kỳ họp
thứ 5 thông qua. Và được tiếp tục bổ sung cho đến Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa I, ngày 27-5-1959.
Chính phủ mở rộng gồm 22 Bộ và 2 Cơ quan ngang bộ.
+ So với Chính phủ mới, Chính phủ mở rộng đã cơ cấu thêm những bộ hoàn toàn mới: Bộ Công an, Bộ Văn hóa,
Bộ Thương binh, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương nghiệp, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương. Nhằm ổn định tình hình
đất nước, tăng cường giao lưu kinh tế với nước ngoài, củng cố thành phần kinh tế quốc doanh,xây dựng một nền
kinh tế độc lập tự chủ. Nâng cao đời sống, tinh thần của người dân.
2 Cơ quan ngang bộ mới được thành lập: Ủy ban Kế hoạch nhà nước và Ủy ban Khoa học nhà nước. Nhằm kiến
thiết đất nước, chú trọng nghiên cứu khoa học-kỹ thuật, từng bước cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Bên cạnh đó, Bộ Thủy lợi và Kiến trúc được tách ra thành Bộ Thủy Lợi và Bộ Kiến trúc chứng tỏ Chính phủ đã
chú trọng hơn trong việc phát triển lĩnh vực thủy lợi và kiến trúc
Tổ chức và hoạt động của Chính phủ mở rộng không có gì nổi bật hơn so với Chính phủ mới vì đều cùng tuân theo
Hiến pháp 46.

Giai đoạn 1959 – 1980.

II.

Trong mốc giai đoạn của hiến pháp (1959 -1980) CP có các nhiệm kỳ (1960-1964); (1964-1971); (1971-1975);
(1975-1976); (1976-1981).
1.


Nhiệm kỳ (1960-1964).

Có 18 Bộ + 7 Cơ quan ngang bộ.

Các bộ: 1-Bộ Nội vụ, 2-Bộ Ngoại giao, 3-Bộ Quốc phòng, 4-Bộ Công an, 5-Bộ Nông nghiệp, 6-Bộ Nông trường, 7-Bộ
Thủy lợi và Điện lực, 8-Bộ Công nghiệp nặng, 9-Bộ Công nghiệp nhẹ, 10-Bộ Kiến trúc, 11-Bộ Giao thông và Bưu
điện, 12-Bộ Lao động, 13-Bộ Tài chính, 14- Bộ Nội thương, 15-Bộ Ngoại thương, 16-Bộ Văn hóa, 17-Bộ Giáo dục,
18-Bộ Y tế.
Các cơ quan ngang bộ:
1-UB Kế hoạch nhà nước. 2-UB Khoa học nhà nước. 3-UB Dân tộc. 4-UB Thanh tra
CP. 5-UB Thống nhất. 6-Ngân hàng nhà nước Việt Nam. 7-UB Thiết kế cơ bản nhà nước.


26/7/1960 CTN bãi bỏ Bộ Công thương và thành lập Bộ Thủy lợi và Điện lực, Bộ Công nghiệp nặng, Bộ Công
nghiệp nhẹ, Bộ Nội thương, Bộ Ngoại thương, Tổng cục địa chất , Tổng cục vật tư.
 Từ nhiệm kỳ này đến nhiệm kỳ 1975-1976, CP hoạt động theo luật tổ chức Hội đồng CP nước Việt Nam
dân chủ Cộng hòa (19/7/1960) và theo Hiến pháp 1959.
Về tổ chức:
-- Việc đặt thêm hoăc bãi bỏ Bộ và cơ quan ngang Bộ do HĐCP trình QH phê chuẩn, giữa hai kỳ họp QH thì trình
UBTVQH phê chuẩn.
-- Mỗi Bộ có một Bộ trưởng, một hoặc nhiều thứ trưởng.
-- Mỗi Ủy ban nhà nước có chủ nhiệm, một hoặc nhiều phó chủ nhiệm và một số ủy viên.
-- Ủy ban thanh tra có tổng thanh tra, một hoặc nhiều phó tổng thanh tra và có thể có một số ủy viên.
-- Ngân hàng nhà nước có tổng giám đốc và một hoặc nhiều phó tổng giám đốc.
Hoạt động:
-- Thủ tướng CP lãnh đạo công tác HĐCP và thay mặt HĐCP chỉ đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang Bộ.
-- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ lãnh đạo toàn bộ công tác thuộc phạm vi trách nhiệm của mình và chịu
trách nhiệm trước Hội đồng Chính phủ.
-- Thứ trưởng các Bộ, Phó thủ trưởng cơ quan ngang Bộ giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc
lãnh đạo chung và có thể được uỷ nhiệm thay Bộ trưởng hoặc Thủ trưởng cơ quan chỉ đạo từng phần công tác của

Bộ hoặc của cơ quan.
-- Hội đồng Chính phủ bổ nhiệm và bãi miễn các nhân viên sau đây:
+ Thứ trưởng Phủ Thủ tướng, Thứ trưởng các Bộ, Phó chủ nhiệm các văn phòng Phủ Thủ tướng, Phó chủ nhiệm
các Uỷ ban Nhà nước, Phó tổng thanh tra, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước;
+ Uỷ viên các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng và Phó thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc Phủ Thủ tướng,
các Bộ và cơ quan ngang Bộ, Chánh văn phòng và Phó văn phòng các Bộ và cơ quan ngang Bộ;
-- Thủ tướng thay mặt HĐCP chỉ đạo công tác của Bộ và Cơ quan ngang bộ.
-- Mỗi thành viên của CP chịu trách nhiệm chung trước QH về toàn bộ công tác của CP, đồng thời chịu trách nhiệm
riêng trước QH về phần công tác của mình.

2. Nhiệm kỳ (1964-1971).

Có 23 Bộ + 9 Cơ quan ngang bộ.

Thời kỳ này miền Bắc tiến lên XHCN, miền Nam đang tiến hành chiến tranh. CP nước ta đã tiến hành xúc tiến lập
thêm các Bộ mới để giám sát quản lý, tăng cường phát triển kinh tế, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục, từng
bước xóa nạn mù chữ để miền Bắc là hậu phương giúp đỡ miền Nam tiền tuyến.
Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiệm kỳ QH đã kéo dài 7 năm (1964-1971) và chỉ có 7 kỳ họp thông qua rất nhiều
nghị quyết trên các lĩnh vực. Với việc tăng thêm 5 Bộ so với CP nhiệm kỳ (1960-1964) đó là: Bộ Vật tư; Bộ Cơ khí và
Luyện kim; Bộ Điện và Than; Bộ Đại học và Trung cấp chuyên nghiệp; Bộ Lương thực thực phẩm và 2 Ủy ban: Ủy
ban Nông nghiệp trung ương; Ủy ban Vật giá nhà nước. Giai đoạn này đã tách Bộ Điện lực trong Bộ Thủy lợi và
Điện lực (1960-1969) để sát nhập với Bộ Than.
11/8/1969 Bộ Công nghiệp nặng được chia thành Bộ Điện và Than, Bộ Cơ khí và Luyện kim, Tổng cục hóa chất.
Thành lập Cục lương thực và thực phẩm trên cơ sở hợp nhất Tổng cục lương thực với ngành công nghiệp chế biến
thực phẩm tách từ Bộ Công nghiệp nhẹ ra. Thành lập Bộ Vật tư trên cơ sở Tổng cục vật tư.


3. Nhiệm kỳ 1971-1975.

Có 21 Bộ + 9 Cơ quan ngang bộ.


Giảm 3 Bộ: Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường, Bộ Công nghiệp nặng. Thêm Bộ Xây dựng. Nước ta tập trung
phát triển công nghiệp nhẹ để đẩy mạnh năng suất sản xuất, chi viện cho miền Nam. Thời kỳ này không có Bộ
Nông nghiệp, Bộ Nông trường để tăng thêm quyền hạn và trách nhiệm cho Ủy ban nhà nước TW vừa mới thành
lập và cũng là bước manh nha để xây dựng và khôi phục lại đất nước sau chiến tranh.

4. Nhiệm kỳ 1975-1976.

Có 19 Bộ + 9 Cơ quan ngang bộ.

Diễn ra trong vòng một năm (4/1975-4/1976) nhiệm kỳ đươc rút ngắn lại để chuẩn bị tiến hành cuộc tổng
tuyển cử bầu QH chung cho đất nước thống nhất.
Viêc giảm 3 Bộ: Bộ Điện và Than; Bộ Cơ khí và Luyện kim; Bộ Lương thực Thực phẩm chứng tỏ CP đã tập trung
toàn sức để hướng đất nước phát triển theo hướng nông nghiệp và công nghiệp nhẹ - ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước lúc bấy giờ, nhằm tận dụng nội lực khôi phục nhanh kinh tế đất nước.
Việc thành lập thêm Bộ Thương binh xã hội để nhà nước ghi nhận và có những chính sách phù hợp để đền đáp
công ơn những anh hùng, chiến sỹ có công với đất nước.

5. Nhiệm kỳ 1976-1981.
Sáp nhập các Bộ: Bộ Cơ khí và Luyện kim, Bộ Điện và Than, Bộ Lương thực Thực phẩm thành Bộ Nông nghiệp.
Có thêm những bộ mới như: Bộ Phụ trách Khoa học và Kỹ thuật nhà nước; Bộ Lâm nghiệp; Bộ Mỏ và Than; Bộ
Công nghiệp thực phẩm; Bộ Lương thực; Bộ Hải sản; Bộ Văn hóa và Thông tin. Cùng với việc đẩy mạnh về cơ cấu và
tổ chức các Bộ cũ như: Bộ Giao thông vận tải; Bộ Tài chính; Bộ Ngoại thương; Bộ Xây dựng;… Nhằm mục đích hoàn
thành kế hoặch 5 năm (1976-1980) mà đại hội IV đề ra: Tập trung lực lượng phát triển sản xuất nông nghiệp một
cách toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc; đồng thời đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng. Xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng; phát triển giao thông vận tải; đẩy mạnh xây dựng
cơ bản; chuyển hướng công tác lưu thông, tài chính, ngân hàng theo nhu cầu cải tạo, xây dựng và phát triển nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa; mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, phát
huy vai trò then chốt của cách mạng khoa học-kỹ thuật; xây dựng, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, cải thiện một bước

đời sống nhân dân.
13/7/1977 CP quyết định hợp nhất Bộ Văn hóa và Tổng cục thông tin thành Bộ Văn hóa và Thông tin.
24/8/1978 CP quyết định thành lập Ủy ban xây dựng cơ bản nhà nước - một cơ quan ngang bộ làm nhiệm vụ
tập hợp, quản lý về xây dựng cơ bản của nhà nước.
22/1/1981 Hội đồng CP quyết định chia Bộ Điện và Than thành hai bộ: Bộ Điện lực và Bộ Mỏ và Than.
 Cùng với sự ra đời của bản Hiến pháp mới (1980) và Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng 1980. Các Bộ và Cơ
quan ngang bộ nhiệm kỳ này được tổ chức và hoạt động như sau:
Tổ chức:
-- Hội đồng bộ trưởng trình Quốc hội quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các Uỷ ban Nhà nước.
-- Hội đồng bộ trưởng quy định tổ chức và hoạt động của các Bộ, Uỷ ban Nhà nước.


-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước lãnh đạo Bộ, Uỷ ban theo chế độ thủ trưởng. Giúp việc Bộ trưởng có
các thứ trưởng, trong đó có một thứ trưởng thứ nhất; giúp việc Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có các phó chủ
nhiệm, trong đó có một phó chủ nhiệm thứ nhất, và các Uỷ viên.
Hoạt động:
-- Hội đồng bộ trưởng lãnh đạo công tác và kiểm tra hoạt động của các Bộ, Uỷ ban Nhà nước.
-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước đứng đầu Bộ, Uỷ ban Nhà nước, chịu trách nhiệm trước QH, HĐNN và
HĐBT về việc quản lý Nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được phân công, và cùng với các thành viên
khác của Hội đồng bộ trưởng chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của HĐBT trước QH và HĐNN.
-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Lập quy hoạch và dự báo phát triển, các kế hoạch dài hạn, kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm;
2- Xây dựng dự án pháp luật, chính sách, chế độ quản lý, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật;
3- Xây dựng dự báo về phát triển khoa học, kỹ thuật; tổ chức nghiên cứu khoa học và ứng dụng những tiến bộ
khoa học, kỹ thuật, những thành tựu của khoa học quản lý;
4- Tổ chức bộ máy quản lý; tổ chức việc đào tạo, bối dưỡng và xây dựng tiêu chuẩn, chính sách, chế độ đối với cán
bộ, công nhân, viên chức;
5- Tiến hành việc hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật theo chính sách và pháp luật của Nhà
nước.
-- Bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có quyền sử dụng và chịu trách nhiệm về hiệu quả sử dụng cán bộ,

lao động, tiền vốn, vật tư và thiết bị được giao; chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ công tác, kết quả
thực hiện kế hoạch và ngân sách của Bộ, Uỷ ban Nhà nước.
-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có quyền ra những quyết định, chỉ thị, thông tư về những vấn đề thuộc
chức năng quản lý của mình; hướng dẫn và kiểm tra các ngành, các cấp, các đơn vị trong cả nước thi hành các văn
bản đó.
-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có quyền yêu cầu Bộ trưởng hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước khác
sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định trái với nội dung quản lý thống nhất của ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách; nếu
yêu cầu đó không được chấp nhận, thì có quyền kiến nghị với Chủ Tịch HĐBT quyết định.
-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra UBND các cấp thực hiện các nhiệm vụ
công tác thuộc ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách.
-- Bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có trách nhiệm cung cấp nhân lực, kỹ thuật, cơ sở vật chất và tạo
điều kiện thuận lợi để UBND các cấp phát huy tiềm lực của địa phương.


-- Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có quyền yêu cầu UBND các cấp sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định trái
với nội dung quản lý của ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách.
So sánh tổ chức và hoạt động của Hội đồng chính phủ HP69 và Hội đồng bộ trưởng HP80.
1959
-- Hội đồng Chính Phủ nhiệm kỳ 4 năm.
-- HĐCP trong thời gian QH không họp chịu trách
nhiệm và báo cáo công tác trước UBTVQH
-- Các thành viên của HĐCP phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi trái HP
-- HĐCP có 15 quyền hạn (Đ74 HP 1959)
-- HĐCP sửa đổi hoặc bãi bỏ những ưuy định không
thích đáng của Bộ , các cơ quan thuộc HĐCP.
-- Trong phạm vi quyền hạn của mình, trên cơ sở
và và để thi hành PL và các nghị định, nghị quyết
chỉ thị của HĐCP thì các Bộ trưởng và các cơ quan
thuộc HĐCP ra các thông tư chỉ thị và kiểm tra việc

thi hành các thông tư và chỉ thị ấy.
-- Bộ trưởng và thủ trưởng các cơ quan thuộc
HĐCP lãnh đạo công tác của ngành mình dưới sự
lãnh đạo thống nhất của HĐCP.

1980
-- Hội đồng Bộ trưởng nhiệm kỳ 5 năm.
-- HĐBT trong thời gian QH không họp chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Hội đồng nhà nước.
-- Mỗi thành viên HĐBT chịu trách nhiệm cá nhân về phần
công tác của mình trước QH, HĐNN, HĐBT và cùng với các
thành viên khác chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của
HĐBT (cơ chế tập thể)
-- HĐBT có 26 quyền hạn (107 HP 1980).
-- HĐBT đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ
những quyết định chỉ thị, thông tư không thích đáng của
các Bộ và cơ quan khác của HĐCP
-- HĐBT căn cứ vào HP, các luật và pháp lệnh ra những nghị
định , nghị quyết, quyết định, chỉ thị và thông tư và kiểm
tra việc thi hành những văn bản đó.

-- Dưới sự lãnh đạo thống nhất của HĐBT, các bộ trưởng và
thủ trưởng các cơ quan khác của HĐBT, chịu trách nhiệm
tổ chức và chỉ đạo ngành mình trong phạm vi cả nước.

III. Giai đoạn 1980 – 1992.
Tổ chức.
-- Bộ và ủy ban nhà nước trong giai đoạn 80-92 được thay bằng tên là bộ và cơ quan ngang bộ kể từ sau hiến pháp
92.
 Một số điểm mới trong việc thành lập bộ và cơ quan ngang bộ.

Giai đoạn 80-92

Giai đoạn 92 trở đi


-- Hội đồng bộ trưởng do Quốc hội bầu. Chủ tịch ủy ban
nhà nước, hội đồng bộ trưởng là đại biểu Quốc hội; các
thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng gồm có Bộ
trưởng và Chủ tịch, chủ yếu chọn trong số các đại biểu
Quốc hội.
Vì trong giai đoạn 80-92 sự phân định về chức năng
và quyền hạn chưa rõ ràng, Hội đồng bộ trưởng là cơ
quan chấp hành cao nhất của QH, QH có thể làm thay
công việc của Hội đồng bộ trưởng, nên Bộ trưởng và
Chủ tịch Ủy ban nhà nước do QH bầu.

-- QH quyết định việc thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ, các
Uỷ ban Nhà nước và thay đổi các thành viên Hội đồng
bộ trưởng; giữa hai kỳ họp QH thì trình Hội đồng Nhà
nước quyết định; Hội đồng Nhà nước phê chuẩn việc
thành lập hoặc bãi bỏ các cơ quan khác thuộc Hội đồng
bộ trưởng.
 Quốc hội trong giai đoạn 80-92 là một quốc hội toàn
quyền, Hội đồng bộ trưởng lệ thuộc vào Quốc hội, từ
đó việc thay đổi cơ cấu hoàn toàn do Quốc hội quyết,
việc các thành viên thuộc Hội đồng bộ trưởng cũng là
thành viên Quốc hội là sự kiêm nhiệm không hợp lý,
nhà nước quá đề cao Quốc hội, cùng chức năng làm
việc tập thể, dẫn đến sự mờ nhạt của chủ tịch Hội đồng
bộ trưởng.


-- Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc
bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Sau đó căn cứ
vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Vì nhà nước ta đã thành lập một chính phủ độc lập
hơn, QH không có quyền làm thay CP, CP là cơ quan
hành chính cao nhất của đất nước, thành viên của CP là
Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không cần
thiết phải xuất phát từ QH, và được Thủ tướng đề nghị,
thể hiện tư tưởng “vì người đặt việc”.

-- QH quyết định thành lập hoặc bãi bỏ các Bộ và các Cơ
quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng CP. Bộ
trưởng đề nghị Thủ tướng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức Thứ trưởng và chức vụ tương đương; bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và
các chức vụ tương đương; tổ chức thực hiện công tác
đào tạo, tuyển dụng, sử dụng, chế độ tiền lương, khen
thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu và các chế độ khác đối với cán
bộ, công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý của
mình.
 Sự thay đổi lớn về tư duy lập hiến, lập pháp đã
thành lập một chính phủ mạnh mẽ, quyết đoán, trong
đó đề cao vai trò của người lãnh đạo, trách nhiệm
người lãnh đạo cụ thể ở đây là thủ tướng.

-- Chính phủ đã tổ chức lại gọn, nhẹ, hợp lý từ 76 đầu mối (năm 1986) xuống còn 38 (năm 2002) và 30 (năm 2007)

trong đó có 22 bộ, cơ quan ngang bộ và 8 cơ quan thuộc Chính phủ.
-- Chính phủ khoá VII (1981-1987) có tới 76 đầu mối bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, đã từng
bước được sắp xếp, thu gọn đầu mối, thông qua tổ chức lại theo hướng tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực và có cơ
cấu hợp lý hơn phù hợp với quá trình cải cách, chuyển đổi qua từng khoá, từ quản lý vi mô của cơ chế cũ, sang
quản lý vĩ mô bằng chính sách, pháp luật của cơ chế mới.
-- Tháng 2/1987, Chính phủ đã có một cuộc sáp nhập quan trọng: thành lập Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm trên cơ sở 3 bộ: Nông nghiệp, Công nghiệp thực phẩm và Lương thực;
-- Thành lập Bộ Năng lượng từ sáp nhập 2 bộ: Điện, Mỏ và than;
-- Thành lập Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội từ sáp nhập 2 bộ: Lao động và Thương binh, xã hội.
-- Chính phủ khoá VIII (1987-1992) tiếp tục cơ cấu lại cho hợp lý hơn, từ 32 bộ, cơ quan ngang bộ, xuống còn 28.
Thành lập Bộ Thương nghiệp, tháng 3/1990, từ 3 bộ: Uỷ ban kinh tế đối ngoại, Nội thương và Vật tư;
-- Thành lập Bộ Thương mại - Du lịch, tháng 8/1991, từ sáp nhập Tổng cục Du lịch.


-- Thành lập Bộ Văn hoá - Thông tin - Thể thao, tháng 3/1990, từ 2 bộ: Văn hoá, Thông tin và 2 Tổng cục: Thể dục
thể thao và Du lịch.
-- Thành lập Bộ Giáo dục - Đào tạo, tháng 3/1990, từ 2 bộ: Giáo dục, Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
-- Chính phủ khoá XI (2002-2007) đã nâng cấp 2 lĩnh vực, thành lập 26 bộ, cơ quan ngang bộ.
Hoạt Động:
Hoạt động của Bộ và cơ quan ngang bộ có những điểm mới nổi bật như sau:
1. Bộ và cơ quan ngang bộ thêm nhiệm vụ mới thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh
nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp luật.
Việc thêm một quy định này là để cho phù hợp với hoàn cảnh, hiện thực. Trước đây,trong Hiến pháp năm 1946,
Nhà nước ta chưa xác định các hình thức sở hữu trong nền kinh tế quốc dân. Đến Hiến pháp năm 1959, lần đầu
tiên các hình thức sở hữu chủ yếu của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội bao gồm: hình thức sở hữu
toàn dân, hình thức sở hữu tập thể, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư
sản dân tộc. Hiến pháp năm 1980 chỉ ghi nhận hai hình thức sở hữu chủ yếu là: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Còn các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân chưa được ghi nhận trong
Hiến pháp này. Thực tiễn phát triển kinh tế ở nước ta cũng chứng minh trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu, lực
lượng sản xuất còn yếu kém mà chủ trương phát triển của sở hữu toàn dân thuần khiết thì không những kìm hãm

sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sở hữu toàn dân cũng bị kìm hãm trong vị trí độc quyền của nó.
Vì vậy, thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất chẳng những giải phóng được
năng lực sản xuất to lớn mà còn hỗ trợ, bổ sung và tạo môi trường cho các hình thức sở hữu cạnh tranh lành
mạnh. Thể chế hoá đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta, Hiến pháp năm 1992 đã thừa nhận nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần dựa trên nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân trong
đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng, được quy định cụ thể tại Điều 15 hiến pháp 1992.
2. Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ trình Chính phủ việc ký kết, gia nhập, phê duyệt các điều ước quốc
tế thuộc ngành, lĩnh vực; tổ chức và chỉ đạo thực hiện kế hoạch hợp tác quốc tế, điều ước quốc tế theo quy định
của Chính phủ. Khác với giai đoạn 80 ,tiến hành việc hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật theo
chính sách và pháp luật của Nhà nước. Trước đây, đất nước ta hầu như chỉ đặt quan hệ với các nước xã hội chủ
nghĩa, chịu sự cấm vận của Mĩ và một số nước phương Tây khác, bây giờ trong bối cảnh thời đại mới, toàn cầu hóa
là xu hướng chung tất yếu, ta cũng không thể cô lập mình đi ngoài xu hướng chung và sự phát triển của dòng chảy
lịch sử, bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ được quyền đề nghị và yêu cầu nếu nó thuộc ngành mà mình
phụ trách. Nếu xem kĩ hơn nữa, ta có thể thấy là bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ còn được trình lên
chính phủ các công trình quan trọng, đó là do ta đã thay đổi chế độ làm việc trong chính phủ, đòi hỏi sự phân công
rõ ràng hơn, phải “vì người đặt việc”, và cách làm đề cao vai trò cá nhân, lãnh đạo, quản lí của người đứng đầu.
3. Không còn chịu trách nhiệm tập thể nữa.Trước đây, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước đứng đầu Bộ, Uỷ
ban Nhà nước, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Hội đồng Nhà nước và Hội đồng bộ trưởng về việc quản lý Nhà
nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác được phân công, và cùng với các thành viên khác của Hội đồng bộ
trưởng chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Hội đồng bộ trưởng trước Quốc hội và Hội đồng Nhà
nước,nghĩa là đề cao tập thể, hạn chế vai trò cá nhân.
Cơ chế làm việc tập thể tạo điều kiện thảo luận một cách đầy đủ, toàn diện, sâu sắc mọi khía cạnh của vấn đề,
cân nhắc một cách dân chủ trước khi quyết định, tránh được sự chủ quan, duy ý chí, lạm dụng quyền lực.Nhưng
vai trò của từng thành viên trong tập thể dễ bị "lu mờ", trách nhiệm cá nhân có thể tìm chỗ "ẩn nấp" sau trách
nhiệm tập thể. Hơn nữa, thời gian để cho ra một quyết định thường dài và chi phí tốn kém;các bộ trưởng, chủ tịch
ủy ban nhà nước đều chịu những trách nhiệm cả những việc mà họ không phụ trách của chính phủ, tạo ra những
sai sót không đáng có, sự chậm trễ trong yêu cầu phải chính xác, kịp thời của công việc hành.


Hiện nay, Chính phủ làm việc theo chế độ kết hợp trách nhiệm của tập thể với việc đề cao quyền hạn và trách

nhiệm cá nhân của Thủ tướng và của mỗi thành viên Chính phủ, Bộ trưởng chỉ chịu trách nhiệm đối với ngành
hoặc lĩnh vực công tác được phân công.Chế độ thủ trưởng có thể tạo điều kiện ra những quyết định nhanh, trách
nhiệm cá nhân được xác định rõ ràng. Với cơ chế mới sẽ đảm bảo cho sự “an toàn” cho bộ trưởng và thủ trưởng
cơ quan ngang bộ yên tâm làm việc, tạo sự phân công rạch ròi, đúng người đúng việc trong chính phủ.
4. Tổ chức và chỉ đạo việc chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong
ngành, lĩnh vực mình phụ trách. Việc đặt ra nhiệm vụ này trong luật tổ chức chính phủ năm 2001 là do một thời
gian dài trong thời kì bao cấp, ta đã không quy hoạch đảng viên cho thật chuẩn, ta đề cao vai trò người đảng viên
trong xã hội chủ nghĩa, ta đặt viên chức nhà nước lên trên hết, dẫn đến những tệ nạn quan liêu, tham nhũng, đó là
yêu cầu cần thiết của nhà nước với bộ trưởng, thủ trưởng để đảm bảo bộ máy hành chính trong sạch, hiệu quả.
5. Căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ ra quyết định, chỉ thị, thông tư và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối
với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. So với trước đây, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có quyền
ra những quyết định, chỉ thị, thông tư về những vấn đề thuộc chức năng quản lý của mình; hướng dẫn và kiểm tra
các ngành, các cấp, các đơn vị trong cả nước thi hành các văn bản đó. Do sự thay đổi chế độ làm việc tập thể,
không lệ thuộc quốc hội nữa, quốc hội không làm thay, có sự xuất hiện chế định chủ tich nước. Nên việc quy định
cụ thể phải căn cứ vào Hiến pháp, luật và nghị quyết là để đảm bảo ta không đi ngoài nhiệm vụ nhà nước giao phó,
hiến pháp.
6. Trước đây Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước có quyền yêu cầu Uỷ ban nhân dân các cấp sửa đổi hoặc
bãi bỏ các quy định trái với nội dung quản lý của ngành hoặc lĩnh vực mình phụ trách; nếu Uỷ ban nhân dân không
nhất trí với yêu cầu đó, thì kiến nghị với Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng quyết định. Còn bây giờ, nếu Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không nhất trí với quyết định đình chỉ việc thi hành thì vẫn phải chấp
hành, nhưng có quyền kiến nghị với Thủ tướng. Công việc quản lí hành chính cần nhanh gọn, kịp thời và chính xác,
hơn nữa tránh sự trên bảo dưới không nghe, tạo ra sự ách tắc trong công việc.

III. Giai đoạn 1992 – Nay.
Năm 2007 là năm mà chính phủ ta thực hiện nhiều cải cách trong bối cảnh ta hội nhập WTO, đi kèm hàng loạt
thách thức trong và ngoài nước.
Để phù hợp với tình hình bấy giờ,Chính phủ ban hành Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 3/12/2007 (thay thế
Nghị định số 86/2002/NĐ-CP ngày 5/11/2002)quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ,

cơ quan ngang bộ, nhằm điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ của bộ, cơ quan ngang bộ; nhất là về
nhân sự được phân cấp rất nhiều thẩm quyền quyết định cho bộ trưởng về cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
nhưng về tổ chức bộ máy hành chính được điều chỉnh lại theo yêu cầu có sự quản lý chặt chẽ, thống nhất của
Chính phủ đối với toàn bộ hệ thống tổ chức hành chính.
Nghị quyết số 01/2007/QH12 ngày 31/7/2007 của Quốc hội đã phê chuẩn cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm
kỳ khoá XII.
Chính phủ khoá XII (2007-2011) đã thu gọn còn 22 bộ, cơ quan ngang bộ
+ Sáp nhập 2 Bộ Công nghiệp và Thương mại để lập Bộ Công thương; nhằm thực hiện đồng bộ chức năng quản lý
Nhà nước từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, phù hợp với điều kiện thị trường và hội nhập. Sau khi hợp nhất, về
cơ bản chức năng quản lý Nhà nước vẫn như hiện nay do Bộ Thủy sản phạm vi quản lý hẹp, đơn ngành, chức năng
quản lý còn bị chồng chéo quản lý, cơ chế chính sách tác dụng cần tương đồng nhau việc điều hành như vi phạm


kế hoạch phát triển, bảo vệ môi trường, chính sách khoa học công nghệ, khuyến lâm, khuyến nông, khuyến ngư
cũng như chính sách, điều kiện để hợp nhất 2 Bộ cũng rất thuận lợi.
+ Sáp nhập Bộ Thuỷ sản vào Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
+ Sáp nhập 2 Bộ Văn hoá, Uỷ ban Thể dục Thể thao và Tổng cục Du lịch thành Bộ Văn hoá - Thể thao và Du lịch;
UB TDTT hiện nay có quản lý hẹp, đơn ngành, chưa phù hợp yêu cầu quản lý tổng hợp liên ngành, mặt khác lĩnh
vực này cũng đang được đẩy mạnh phân cấp, phân ngành, xã hội hóa nên thực tế quản lý Nhà nước của UBTDTT
không nhiều, không cần thiết duy trì UB này trong cơ cấu quản lý của Chính phủ. Thay vào đó, sẽ thành lập Cục
(hoặc Tổng cục) Thể dục Thể thao và giữ nguyên Tổng cục Du lịch để giúp Bộ quản lý Nhà nước chuyên sâu các lĩnh
vực này.
+ Tổ chức lại 2 Bộ thành Bộ Thông tin và Truyền thông. trên cơ sở chuyển giao chức năng quản lý báo chí, xuất
bản, thông tin của Bộ Văn hóa Thông tin hiện nay thực hiện. Bổ sung chức năng quản lý Nhà nước về kết cấu hạ
tầng kỹ thuật và phát thanh, truyền hình, lĩnh vực này hiện chưa giao cho cơ quan nào quản lý. Bộ Thông tin và
Truyền thông sẽ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của Bộ Bưu chính Viễn thông hiện nay và chức năng quản
lý thông tin, báo chí, xuất bản do Bộ Văn hóa Thông tin chuyển sang Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện. Sự
điều chuyển này là phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra, khắc phục sự chia cắt như hiện nay. Chuyển Cục Báo chí
và Xuất bản sang Bộ Thông tin và Truyền thông theo phương án tổ chức lại Bộ Bưu chính Viễn thông thành Bộ
Thông tin và Truyền thông.

Tổ chức:
Nghị định này quy định khung cơ cấu tổ chức của Bộ, gồm 2 loại:
+ Các tổ chức giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước (vụ, văn phòng, thanh tra,cục, tổng cục và tổ chức tương đương,
cơ quan đại diện của bộ ở địa phương và ở nước ngoài);
+ Các tổ chức sự nghiệp nhà nước trực thuộc bộ
Điểm mới ở đây là các tổ chức sự nghiệp nhà nước được thành lập và quy định tại Nghị định quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ chỉ bao gồm các tổ chức sự nghiệp phục vụ quản lý nhà nước và
báo, tạp chí, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của bộ.
 Những quy định mới về cơ cấu tổ chức của bộ như sau:
1. Có sự phân định rõ giữa chức năng, nhiệm vụ của vụ với chức năng, nhiệm vụ của cục thuộc bộ,trong đó:
+ Vụ tham mưu giúp bộ trưởng thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của bộ.
+ Cục vừa tham mưu giúp bộ trưởng thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên sâu, ổn định; vừa
thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Như vậy, có phân biệt tiêu chí thành lập vụ với tiêu chí thành lập cục thuộc bộ trên cơ sở những luận cứ nhất định;
theo đó có sự lựa chọn khi nào cần thành lập vụ hoặc cục để vừa bảo đảm thực hiện được chức năng tham mưu
với việc trực tiếp tổ chức thực thi chính sách pháp luật về ngành, lĩnh vực.
Vụ có ưu điểm bảo đảm sự quản lý tập trung cao của bộ nhưng cũng có hạn chế là thường dồn nhiều việc cho bộ
trưởng phải xử lý về mặt thủ tục hành chính. Còn đối với cục có ưu điểm cơ bản là thực hiện được sự phân cấp
quản lý của bộ trưởng để qua đó chuyển nhiều nhiệm vụ cụ thể cho cục xử lý; mặt khác, việc thành lập cục sẽ giảm
thiểu được thủ tục hành chính và còn tạo “chỗ lùi” cần thiết cho bộ khi cục xử lý vấn đề nào đó có thể có sõ xuất
hoặc thiếu sót thì Bộ đứng ra bổ sung, điều chỉnh được chặt chẽ, thuyết phục hơn.
2. Có sự phân định giữa cục với tổng cục theo chức năng và đối tượng quản lý ngành, lĩnh vực có tính tiêu chí như
sau:
+ Cục được thành lập để tham mưu giúp bộ trưởng thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên sâu,
ổn định và thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Vấn đề cần làm rõ ở đây là đối tượng quản lý của cục là đối với chuyên ngành, lĩnh vực có phân cấp hoặc không
phân cấp quản lý cho địa phương và phạm vi quản lý của cục thường không nhất thiết trên phạm vi cả nước mà chỉ
quản lý theo khu vực lănh thổ địa phương.



+ Tổng cục được thành lập để tham mưu giúp bộ trưởng quản lý nhà nước chuyên sâu, ổn định và thực thi
nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp không phân cấp hoặc phân cấp hạn chế cho địa
phương thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Như vậy, cục và tổng cục đều có 2 chức năng, nhiệm vụ là tham mưu quản lý nhà nước chuyên sâu, ổn định và
tổ chức thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Song, điểm khác nhau cơ bản giữa cục với
tổng cục chính là Tổng cục có đối tượng quản lý ngành, lĩnh vực lớn, phức tạp và ngành, lĩnh vực đó không phân
cấp hoặc phân cấp hạn chế cho địa phương; phạm vi quản lý của Tổng cục đối với toàn ngành, lĩnh vực trên cả
nước. Đó cũng là một trong những tiêu chí cơ bản để thành lập cục hoặc tổng cục thuộc bộ.
3.Trong cơ cấu tổ chức của tổng cục và tổ chức tương đương thuộc bộ được quy định gồm:
+ Vụ;
+ Văn phòng tổng cục;
+ Thanh tra tổng cục;
+ Tổ chức sự nghiệp nhà nước trực thuộc.
-- Đối với tổng cục được tổ chức và quản lý theo hệ thống ngành dọc, cần có các cục trực thuộc đặt ở địa phương
hoặc đối với những tổng cục cần có cục quản lý chuyên ngành trực thuộc được quy định tại quyết định thành lập
và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của tổng cục.
-- Điểm quy định mới đối với tổng cục ở đây là:
+ Trong cơ cấu tổ chức của tổng cục có vụ là tổ chức tham mưu giúp tổng cục trưởng thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc quy định trong cơ cấu tổ chức của tổng cục có vụ để phân biệt với tên gọi của các
tổ chức sự nghiệp không có chức năng quản lý nhà nước và khắc phục tình trạng thiếu thống nhất hiện nay vừa có
tổ chức tham mưu giúp tổng cục trưởng là ban, vừa có tổ chức tham mưu giúp tổng cục trưởng là vụ. Mặt khác,
việc quy định mới đối với tổ chức tham mưu giúp tổng cục trưởng quản lý nhà nước là vụ còn tạo điều kiện thuận
lợi để sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ máy trước yêu cầu cải cách hành chính nhà nước nhất là tâm lý chung của
cán bộ, công chức giữ các chức vụ lănh đạo quản lý các tổng cục và tổ chức tương đương thuộc bộ.
+ Việc thành lập tổng cục thuộc bộ với tiêu chí cơ bản là có đối tượng quản lý chuyên ngành, lĩnh vực lớn, phức
tạp và ngành, lĩnh vực đó không phân cấp quản lý hoặc phân cấp hạn chế cho địa phương.
Như vậy không phải ngành, lĩnh vực nào cũng được thành lập tổng cục và việc thành lập tổng cục thuộc bộ khi
đảm bảo những tiêu chí cần thiết theo quy định.
Hoạt động:

 Về chức năng:
Nghị định mới quy định tại Điều 2: bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là bộ) là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về các ngành, lĩnh vực được giao trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ
công trong các ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ. So với trước đây, có sự điều chỉnh thôi quy
định cho bộ thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước
thuộc phạm vi quản lý của bộ. Theo đó, trong Nghị định mới này không có điều nào quy định cho bộ về thực hiện
chức năng, nhiệm vụ đại diện chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn nhà nước, để sau
đó quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ này tại Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của từng bộ (không phải bộ nào cũng có loại nhiệm vụ này và nhiệm vụ này cũng sẽ không còn khi các doanh
nghiệp nhà nước đã thực hiện xong cổ phần hoá).
 Về nhiệm vụ, quyền hạn của bộ và bộ trưởng:
Điểm mới nhất về nhiệm vụ, quyền hạn của bộ và bộ trưởng như sau:
1. Tách rõ được những loại việc trình thuộc thẩm quyền xử lý của Chính phủ với loại việc trình thuộc thẩm quyền
quyết định của Thủ tướng Chính phủ, bảo đảm phù hợp với thực tế và quy định mới trong Quy chế làm việc của
Chính phủ;
2. Quy định rõ thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, quy trình, quy
phạm, định mức kinh tế - kỹ thuật về quản lý ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ;
3. Phân cấp rất nhiều thẩm quyền cho bộ trưởng quyết định về nhân sự, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước
thuộc phạm vi quản lý của bộ. Tại khoản 2 Điều 12 Nghị định này quy định cho bộ trưởng có thẩm quyền quyết


định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức ngýời đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu tất cả các tổ chức thuộc bộ,
bao gồm từ chức danh Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống (trước đây Tổng cục trưởng và tương đương
do Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức) và trưởng phòng, phó trưởng phòng thuộc
vụ, văn phòng bộ, thanh tra bộ (do các tổ chức này không có tư cách pháp nhân độc lập nên không thể phân cấp
cho người đứng đầu các tổ chức này bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức trưởng phòng, phó trưởng phòng thuộc
cấp mình quản lý).
Theo đó, quy định phân cấp cho người đứng đầu các tổ chức thuộc bộ có tư cách pháp nhân độc lập được bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh còn lại của các đơn vị thuộc cấp mình quản lý, như: Tổng cục trưởng
và tương đương được bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức cấp trưởng, cấp phó của các tổ chức thuộc tổng cục và

tương đương; trong đó có chức danh cấp vụ, cấp cục, thanh tra, văn phòng thuộc cơ cấu tổ chức của tổng cục; cục
trưởng được bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức cấp trưởng, cấp phó của các tổ chức thuộc Cục; người đứng đầu
các tổ chức sự nghiệp được bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức cấp trưởng, cấp phó của các tổ chức thuộc cấp mình
quản lý.
Việc phân cấp thẩm quyền quyết định về nhân sự nêu trên là bước tiến mới để gắn với trách nhiệm của người
đứng đầu các cấp trong quản lý cán bộ được tốt hơn, bảo đảm nguyên tắc trách nhiệm đi đôi với quyền hạn tương
xứng.
4. Có sự điều chỉnh về thẩm quyền quyết định việc thành lập tổ chức theo yêu cầu chặt chẽ, thống nhất được
quy định cụ thể trong Nghị định này. Đó là:
+ Những vụ cần thành lập phòng được quy định tại Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của bộ, do bộ trưởng quyết định thành lập.
+ Những Cục cần thành lập Chi cục được quy định trong Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của bộ; khi cần thành lập mới chi cục thì bộ quản lý ngành trình Thủ tướng Chính phủ cho phép và
giao cho bộ trưởng quyết định thành lập (trước đây việc thành lập chi cục thuộc cục do bộ trưởng quyết định
thành lập, không quy định trong quyết định thành lập cục và không phải xin phép Thủ tướng CP).
Việc điều chỉnh thẩm quyền quyết định thành lập tổ chức nêu trên là cần thiết để không chỉ quản lý tập trung
thống nhất về tổ chức bộ máy, biên chế mà còn kiểm soát được chặt chẽ những quy định về thủ tục hành chính
không cần thiết do thành lập tổ chức không hợp lý sinh ra.
 Về chế độ làm việc và trách nhiệm của bộ trưởng:
Điểm mới của Nghị định này quy định trách nhiệm của bộ trưởng đối với bộ trưởng khác là: các vấn đề trong
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do bộ trưởng trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ có liên quan đến bộ
khác, thì phải có ý kiến của bộ trưởng đó bằng văn bản. Các bộ trưởng được hỏi ý kiến có trách nhiệm nghiên cứu,
trả lời bằng văn bản trong thời gian quy định (bỏ quy định trước đây trong thời gian quy định không trả lời coi như
đồng ý để thực hiện nghiêm túc quy định này).
• Đề xuất thay đổi trong của cơ quan Nhà nước trong tương lai.
Cụ thể là:
-- Bộ Y tế điều chỉnh chức năng quản lý nhà nước cho phù hợp: chuyển “chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân
dân” thành “y tế”
-- Bộ Tư pháp bổ sung chức năng, nhiệm vụ về: bồi thường nhà nước; lý lịch tư pháp; thi hành án hành chính.
-- Bộ Quốc phòng bổ sung chức năng nhiệm vụ và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về cơ yếu theo Nghị định số

76/2011/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển Ban Cơ yếu Chính phủ từ
Bộ Nội vụ sang Bộ Quốc phòng.
-- Bộ Thông tin và Truyền thông bổ sung chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thông tin cơ sở.
-- Bộ Tài nguyên và Môi trường bổ sung nhiệm vụ giám sát tài nguyên nước xuyên biên giới, an ninh nguồn
nước.
-- Bộ Công thương bổ sung chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thương hiệu quốc gia và sở giao dịch hàng
hoá.
-- Bộ Giao thông vận tải kiện toàn tổ chức quản lý về hàng hải, hàng không.
-- Bộ Xây dựng kiện toàn tổ chức quản lý nhà nước về nhà ở và kinh doanh bất động sản.


-- Uỷ ban Dân tộc bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác định canh, định cư vùng dân tộc thiểu số.
Điều chỉnh bỏ quy định về thành viên Uỷ ban Dân tộc.
 Quy định về số cấp phó
-- Đề xuất những nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong Nghị định 178 như: phân cấp thẩm quyền cho bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của tổng cục, cục loại I
và tương đương sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
-- Điều chỉnh tên gọi của các tổ chức thuộc cơ cấu tổ chức của tổng cục và tương đương từ “vụ” thành “ban” để
phù hợp với vị trí pháp lý theo thứ bậc hành chính và tránh sự nhầm lẫn tên gọi giữa các tổ chức thuộc bộ với các
tổ chức thuộc tổng cục và tương đương; không quy định thứ trưởng kiêm tổng cục trưởng và tương đương ở một
số bộ để phân biệt rõ trách nhiệm người đứng đầu và thẩm quyền bổ nhiệm chức danh tổng cục trưởng và tương
đương đã được Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
-- Quy định số lượng cấp phó của người đứng đầu các tổ chức thuộc bộ theo hướng có quy định khung, nhưng
có quy định mở cho phù hợp với yêu cầu thực tế trong quá trình sắp xếp tổ chức và bố trí, sử dụng cán bộ của các
bộ, cơ quan ngang bộ…
Những vấn đề đặt ra
1. Cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu cơ sở lý luận, khoa học về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trong điều kiện
duy nhất một Đảng cầm quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập đầy đủ
vào thế giới. Khắc phục sự thiếu kiên định, nhất quán trong sắp xếp, điều chỉnh tổ chức Chính phủ trong các nhiệm
kỳ dẫn tới lúc giảm lúc lại tăng thêm các đầu mối.

2. Khắc phục tình trạng thiếu tầm nhìn trong quá trình chuyển đổi và phương thức quản trị của nền hành chính
trong kinh tế thị trường, cùng với sự phân tán, thiếu tập trung, thống nhất trong tham mưu cho Đảng và Nhà nước
về mô hình tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trong thời kỳ mới
3. Tình trạng chồng chéo, trùng lặp trên một số ngành, lĩnh vực còn kéo dài, thiếu các quy định pháp lý cần thiết
để phân công trách nhiệm giữa các bộ, ngành, cùng với cơ chế phối hợp liên ngành kém hiệu quả.Do đó, cần có sự
chỉ đạo thống nhất từ các cơ quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước về vấn đề này.
4. Hiện nay, các quy trình, quy chế thành lập tổ chức hoặc điều chỉnh, sắp xếp tổ chức chưa được thực hiện một
cách thống nhất
5. Cần đầu tư cho công tác tổng kết, đánh giá tiến trình cơ cấu lại Chính phủ từ năm 1986 đến nay, tiếp tục hoàn
thiện các quy trình tổ chức, cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực trong việc
cơ cấu lại Chính phủ các khoá tiếp theo phù hợp với yêu cầu quản trị tốt trong điều kiện mới.

C. KẾT LUẬN.
Chính phủ đã thực hiện nhất quán chủ trương tổ chức bộ đa ngành, đa lĩnh vực, gọn nhẹ, hợp lý hơn qua các
thời kì,không còn sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng giữa các cơ quan hành chính; phân cấp thẩm quyền giữa
Trung ương và địa phương về cơ bản được thực hiện; thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân tổ chức được cải
cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản, phấn đấu mỗi năm giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức bỏ ra khi giải
quyết thủ tục hành chính với các cơ quan hànhchính nhà nước.
Điều quan trọng là Chính phủ đã thực sự tổ chức lại các cơ quan thuộc Chính phủ, là các cơ quan sự nghiệp
công, không làm chức năng quản lý nhà nước; chức năng quản lý nhà nước đã được chuyển vào các bộ, cơ quan
ngang bộ đúng với yêu cầu Chính phủ thực hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong thời kỳ mới.




×