MỞ ĐẦU
Nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc lấy, ghép mô; bộ phận cơ thể
và tạo nguồn cung cấp mô, tạng dồi dào phục vụ cho việc cứu chữa người
bệnh và nghiên cứu khoa học, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp
luật điều chỉnh về việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể người mà tiêu biểu là
Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006, trong đó
có quy định cụ thể về điều kiện hiến xác; bộ phận cơ thể khi còn sống cũng
như điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện việc hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể cho
thấy pháp luật về vấn đề này còn khá nhiều điểm bất cập, đặc biệt là trong
các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết. Chính vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định pháp luật về điều kiện
hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết có cân nhắc, tiếp thu kinh nghiệm nước
ngoài là một nhu cầu cấp thiết.Trong bài này , em xin trình bày đề tài :
“Quyền hiến xác , bộ phận cơ thể của cá nhân sau khi chết” .
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Quyền hiến bộ phận cơ thể trong hệ thống các quyền nhân thân
Cùng với sự phát triển của xã hội, các quyền con người, quyền của cá nhân
trong đó có quyền nhân thân ngày càng được tôn trọng và bảo vệ bằng
nhiều hình thức, biện pháp khác nhau. Một xu hướng đang diễn ra phổ biến
hiện nay là các giá trị nhân thân ngày càng được đề cao và được ghi nhận
ngày càng nhiều hơn trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế.
Sở dĩ như vậy vì xã hội càng phát triển, các quan hệ xã hội càng đa dạng,
phức tạp, nhu cầu của con người cũng ngày một tăng lên cả về vật chất và
tinh thần, đặc biệt là nhu cầu về tinh thần.
Giá trị nhân thân là những giá trị gắn liền với cá nhân mỗi con người,
chúng tồn tại không phụ thuộc vào mức độ và tính chất điều chỉnh của các
quy phạm pháp luật. Trong những năm gần đây, dưới ảnh hưởng của rất
nhiều yếu tố khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc tế…, hệ
thống các quyền nhân thân trong pháp luật các nước ngày càng được mở
rộng với sự ghi nhận nhiều quyền mới như quyền hiến bộ phận cơ thể,
quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết, quyền nhận bộ phận cơ thể,
quyền xác định lại giới tính… Pháp luật Việt Nam cũng không nằm ngoài
xu hướng đó.
Với tư cách là một quyền nhân thân, quyền hiến bộ phận cơ thể mang
những đặc điểm chung của quyền nhân thân, đó là:
Thứ nhất, tính chất cá nhân tuyệt đối. Quyền nhân thân luôn gắn với một cá
nhân xác định, không được phép chuyển giao cho người khác. Quyền nhân
thân thuộc về cá nhân cụ thể từ khi người đó được sinh ra hoặc theo những
căn cứ khác do pháp luật quy định. Là các yếu tố cấu thành không thể tách
rời khỏi cá nhân chủ thể, những giá trị nhân thân được cá thể hoá, làm cho
bản thân người mang các giá trị đó là hoàn toàn không thể lặp lại. Những
quyền nhân thân này ứng với mỗi cá nhân, sẽ cho phép cá nhân khẳng định
1
họ, là chính họ mà không phải ai khác, họ là một chủ thể độc lập trước
cộng đồng.
Thứ hai, tính không được xác định bằng tiền. Về cơ bản, chủ thể của quyền
nhân thân chỉ được hưởng lợi ích tinh thần mà không được hưởng lợi ích
vật chất. Bên cạnh đó, có những trường hợp đặc biệt, quyền nhân thân
mang lại lợi ích vật chất cho chủ thể quyền. Những lợi ích vật chất mà chủ
thể quyền được hưởng ở đây có được là do giá trị tinh thần mang lại (ví dụ:
trường hợp góp vốn bằng uy tín trong một doanh nghiệp). Như vậy, một
trong những tiêu chí phân loại quyền nhân thân là dựa vào yếu tố tài sản,
theo đó, có thể chia quyền nhân thân làm 2 loại: quyền nhân thân gắn với
tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Theo cách phân loại này,
quyền hiến bộ phận cơ thể thuộc nhóm quyền nhân thân không gắn với tài
sản.
Thứ ba, quyền nhân thân được xác lập không phải dựa trên các sự kiện
pháp lý mà chúng được xác lập trực tiếp trên cơ sở những quy định của
pháp luật
Thứ tư, quyền nhân thân là một loại quyền tuyệt đối. Người có quyền này
đối kháng với một phạm vi không xác định các chủ thể có nghĩa vụ tôn
trọng giá trị nhân thân được bảo vệ.
Bên cạnh các đặc điểm chung của quyền nhân thân, quyền hiến bộ phận cơ
thể còn có đặc điểm riêng biệt, đó là: mục đích chủ yếu của việc thực hiện
quyền này không phải đem lại lợi ích cho chủ thể quyền như đại đa số các
quyền nhân thân khác, mà nhằm đem lại lợi ích cho người khác, lợi ích cho
toàn xã hội. Lợi ích mà chủ thể quyền đạt được chủ yếu là lợi ích tinh thần,
là niềm vui khi cứu sống được người khác đang mắc bệnh hiểm nghèo, đặc
biệt khi người bệnh lại là người thân thích, ruột thịt của mình; hoặc niềm
vui khi thấy mình cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học. Lợi ích
vật chất có thể có nhưng không phải là chính yếu, chẳng hạn như: được
chăm sóc, phục hồi sức khoẻ miễn phí, được ưu tiên ghép mô, bộ phận cơ
thể người khi người đó có nhu cầu… Lợi ích của chủ thể quyền thực sự rất
khiêm tốn so với lợi ích to lớn mà xã hội nhận được từ việc người đó thực
hiện quyền của mình. Đặc trưng này chỉ có ở 2 quyền nhân thân đặc thù:
quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.
Vậy tại sao lại coi “hiến bộ phận cơ thể” là một “quyền”, trong khi lợi ích
mà nó mang lại cho chủ thể quyền hầu như không đáng kể? Có thể lý giải
như sau: Nói đến “quyền” là nói đến sự tự do ý chí lựa chọn hành động của
chủ thể trong khuôn khổ pháp luật. Rõ ràng, mỗi cá nhân có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ có quyền tự quyết định đối với thân thể của mình, không
ai có quyền can thiệp hay ngăn cản. Khi một cá nhân đã có nguyện vọng
hiến bộ phận cơ thể của mình để chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học, thì
những người khác, kể cả những người thân thích, ruột thịt cũng không
được cản trở. Thông thường, việc hiến bộ phận cơ thể không chỉ là một
quyết định khó khăn đối với người hiến mà còn có thể tác động lớn về mặt
tinh thần đối với gia đình, với những người thân thích của người đó, bởi
không ai muốn bản thân mình và những người thân yêu của mình có một
2
cơ thể không toàn vẹn. Vì vậy, việc ghi nhận “quyền” hiến bộ phận cơ thể
chính là một bảo đảm cho sự tự do ý chí lựa chọn hành động của các cá
nhân trong lĩnh vực đặc thù và hết sức nhạy cảm này. Tuy nhiên, dù cho
mỗi cá nhân có quyền tự quyết định, tự định đoạt đối với thân thể của
mình, nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật. Pháp luật đa số các nước
không cho phép mua bán bộ phận cơ thể người như là một loại tài sản, bởi
nếu cân nhắc giữa việc đảm bảo tự do ý chí của mỗi cá nhân với bảo vệ trật
tự công cộng và đạo đức xã hội thì rõ ràng phải ưu tiên cái thứ hai.
Trong các quyền nhân thân, có hai quyền liên quan chặt chẽ đến quyền
hiến bộ phận cơ thể là quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết và
quyền nhận bộ phận cơ thể người.
Quyền hiến bộ phận cơ thể và quyền hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
thực ra không khác nhau về bản chất, đều là quyền thể hiện ý chí tự nguyện
hiến tặng bộ phận cơ thể mình vì mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu
khoa học. Do đó quyền hiến bộ phận cơ thể phải được hiểu là một quyền
thống nhất, chứ không nên hiểu đây là hai quyền độc lập, tách biệt nhau
(quyền hiến khi còn sống và quyền hiến khi chết). Để thực hiện quyền này,
trong cả hai trường hợp, cá nhân đều phải thể hiện ý chí tự nguyện hiến
tặng khi người đó còn sống và còn minh mẫn, sáng suốt. Còn việc lấy bộ
phận của người hiến được thực hiện khi người đó còn sống hay đã chết tuỳ
theo trước tiên là ý nguyện của người hiến, ngoài ra còn căn cứ vào đặc
điểm của bộ phận cơ thể được hiến. Khi lấy đi một bộ phận cơ thể, tuỳ
thuộc vào chức năng của từng bộ phận mà nó sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ
của người hiến ở các mức độ khác nhau: có thể là ảnh hưởng không lớn (ví
dụ: thận, gan), nhưng có thể ảnh hưởng quyết định đến sự sinh tồn của cá
nhân (ví dụ: tim). Vì vậy, quyền hiến bộ phận cơ thể không phải lúc nào
cũng thực hiện được khi người hiến còn sống.
Còn quyền hiến và quyền nhận bộ phận cơ thể người thực chất là hai mặt
của một quan hệ: một bên là chủ thể hiến có quyền hiến, một bên là chủ thể
nhận có quyền nhận. Quyền hiến là tiền đề cho quyền nhận. Tuy nhiên,
mặc dù hiến-nhận là hai mặt của một quá trình nhưng việc thực thi quyền
nhận sẽ phức tạp, nhạy cảm hơn quyền hiến, nếu không thực hiện tốt sẽ gây
phản ứng xã hội không tốt, ảnh hưởng trở lại đến chính quyền hiến của cá
nhân, làm mất ý nghĩa tốt đẹp của quyền hiến. Bởi vì ở bất cứ quốc gia nào
trên thế giới cũng xảy ra tình trạng mất cân bằng giữa nhu cầu lấy, ghép
mô, bộ phận cơ thể người với khả năng cung cấp các bộ phận này. Nhu cầu
luôn vượt xa so với khả năng đáp ứng. Nguyên nhân chính là do về mặt
tâm lý xã hội, mọi người đều muốn có một cơ thể toàn vẹn ngay cả khi đã
chết và họ thường rất e ngại khi quyết định hiến bộ phận cơ thể cho người
khác, trừ khi đó là người thân thích, ruột thịt của mình. Ngay cả khi bản
thân người đó đồng ý hiến bộ phận cơ thể thì những người thân trong gia
đình cũng phản đối và tìm cách ngăn cản. Vì vậy, mục đích chủ yếu của
pháp luật về hiến bộ phận cơ thể ở các quốc gia là thiết lập một cơ chế
phân bổ một cách công bằng, bình đẳng nguồn “tài nguyên” chữa bệnh quý
3
giá và khan hiếm này cho những bệnh nhân nguy kịch nhất, hiểm nghèo
nhất.
2.Sự cần thiết ghi nhận và bảo vệ quyền hiến bộ phận cơ thể bằng
pháp luật dân sự
Mục tiêu đến năm 2020, Việt nam có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca
ghép thận, 80 – 100 ca ghép gan, 20 – 30 ca ghép tim và 10-15 ca ghép
phổi, 2.000 ca ghép giác mạc, phải cần nhiều mô, bộ phận cơ thể người
hiến mang tính chất tự nguyện. Nếu chỉ chờ vào nguồn hiến bộ phận cơ thể
người của người thân là không thể đủ, vì vậy, việc lấy mô, bộ phận cơ thể ở
người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người hiến sau khi
chết là vô cùng cấp thiết.
Cách đây vài chục năm, việc hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người đã trở
nên phổ biến trên thế giới. Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động lấy, ghép
mô, bộ phận cơ thể người vì mục đích nhân đạo cứu người, chữa bệnh cho
nhân dân, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đa số các nước trên thế giới
đều có đạo luật riêng về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người như Pháp,
Mỹ, Canađa, Úc, Bỉ, Trung Quốc, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan …
Ở Pháp việc ghép thận lấy từ thận tử thi được thực hiện từ năm 1952, việc
ghép tim và ghép gan lấy từ tử thi cũng đã triển khai từ năm 1967, 1968.
Pháp luật của Pháp cho phép một số các bệnh viện do Bộ trưởng Bộ Y tế
quyết định được phép tiến hành mổ tử thi và lấy các bộ phận cơ thể người
nhằm mục đích điều trị, đồng thời quy định việc xác định chết não phải
được 2 thầy thuốc xác nhận .
Ở các nước châu Âu khác, các quy định pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ
phận cơ thể người đã được triển khai sớm, tạo điều kiện thuận lợi cho
ngành phẫu thuật ghép mô, bộ phận cơ thể người phát triển một cách mạnh
mẽ vào những thập kỷ gần đây như ở: Vương quốc Anh năm 1961, Đan
Mạch, Italia năm 1967, Na-uy năm 1973, Thuỵ Điển năm 1975; Hy Lạp
năm 1983. Tại các nước Châu Á, từ năm 1959 đến nay, nhiều nước như
Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan, Nhật Bản, Philippine, Singapore,
Malaysia, Indonesia đã có các quy định của pháp luật về chết não và cho
phép tiến hành lấy các mô, bộ phận cơ thể người ở tử thi để ghép. Số bệnh
nhân được ghép mô, bộ phận cơ thể người ngày một nhiều và số các bệnh
viện được tổ chức tiến hành ghép ở các nước này đã tăng lên nhanh
chóng.Một trong những nguyên nguyên nhân giúp cho việc tiến hành ghép
mô, bộ phận cơ thể người thành công ở một số nước trên thế giới là phải có
các quy định pháp luật cho phép tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể ở người
chết não nhằm góp phần thúc đẩy việc phát triển chương trình quốc gia về
ghép mô, bộ phận cơ thể người .
Các quy định pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người của các
quốc gia trên thế giới đều theo nguyên tắc nhân đạo, không mang tính
thương mại và nghiêm cấm việc mua, bán bộ phận cơ thể ngườiỞ Việt
4
nam, theo số liệu thống kê, nhu cầu được hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người ở nước ta là rất lớn và ngày càng gia tăng. Cụ thể là,cả nước có
khoảng 5.000 – 6.000 người suy thận mãn cần được ghép thận. Tại 5 bệnh
viện lớn ở Hà Nội đã có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng
không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng. Ước tính, do không có nguồn của người cho thận, cho gan,
ở Việt Nam đã có hơn 200 người phải sang Trung Quốc và một số nước
khác để ghép thận, ghép gan .
Không chỉlà ghép thận, ghép gan, số bệnh nhân cần phải ghép giác mạc
cũng ngày càng tăng. Đến nay có khoảng hơn 5.000 người bệnh đang chờ
được ghép giác mạc. Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu
ghép giác mạc từ 500 ca/năm trở lên. Từ năm 1985 đến nay, Viện mới chỉ
ghép được 1.500 ca, riêng năm 2004 ghép được 103 ca, năm 2005 ghép
được 150 ca. Số giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ
của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài (khoảng 50-100 giác mạc/năm),
số còn lại được lấy từ bệnh nhân bị bỏ nhãn cầu do chấn thương và các
nguyên nhân khác mà giác mạc có đủ tiêu chuẩn sử dụng.
Trước nhu cầu cấp bách trên, ngay từ năm 1992, Nhà nước đã đầu tư cơ sở
vật chất, phương tiện, cán bộ nên cho đến nay, Việt Nam đã có 10 bệnh
viện có đủ khả năng và điều kiện ghép thận và đã tiến hành thí điểm việc
ghép thận, gan. Tính đến 20/03/2006, các bệnh viện trên đã ghép thành
công được 161 ca, trong đó có 158 ca ghép thận và 04 ca ghép gan. Tất cả
các ca ghép này đều lấy thận, gan của người sống là cha, mẹ, anh, chị, em
trong gia đình, cùng huyết thống, có các chỉ số sinh học tương đương, chưa
có trường hợp nào lấy bộ phận cơ thể người hiến sau khi chết. Những thành
tựu trên đã tạo nên những thành tích nổi bật của hệ thống khám, chữa bệnh,
mang lại uy tín và niềm tự hào cho ngành y tế, phù hợp với xu thế hội
nhập, giải quyết nhu cầu điều trị tại chỗ của nhân dân và giảm tốn kém cho
người ghép phải ra nước ngoài điều trị.Mặt khác, nhu cầu về giảng dạy,
nghiên cứu khoa học trên xác chết rất lớn. Vào những thập kỷ 70 – 80 của
thế kỷ trước, cứ 6 – 7 sinh viên có 1 xác chết để học tập, nghiên cứu giải
phẫu, nhưng đến nay, cả khoá trên dưới 400 sinh viên mới chỉ có 1 xác
chết, thậm chí phải dùng lại nhiều lần do không có xác (theo báo cáo của
Trường Đại học y Hà Nội, cả Trường hiện có 22 xác chết; Trường Đại học
Y Dược Tp. Hồ Chí Minh có 173 xác chết).
Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 có thể thực hiện được khoảng 1.000 ca
ghép thận, 80 – 100 ca ghép gan, 20 – 30 ca ghép tim và 10-15 ca ghép
phổi, 2.000 ca ghép giác mạc, chúng ta phải cần nhiều mô, bộ phận cơ thể
người hiến mang tính chất tự nguyện, nếu chỉ chờ vào nguồn hiến bộ phận
cơ thể người của người thân là không thể đủ. Do đó, việc lấy mô, bộ phận
cơ thể ở người hiến tự nguyện ngoài huyết thống và đặc biệt là ở người
hiến sau khi chết là vô cùng cấp thiết.
Về mặt pháp lý, việc lấy và ghép mô, bộ phận của cơ thể người đã được
một số quy định của Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân năm 1989 và Điều lệ
Khám bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng năm 1991 đề cập đến. Tuy
5
nhiên, các quy định này chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, chưa đầy
đủ nên khó thực hiện trong thực tiễn . Nguồn cung cấp các bộ phận cơ thể
rất hạn chế trong khi nhu cầu ghép chữa bệnh, nghiên cứu khoa học lại rất
lớn gây khó khăn cho sự phát triển của chuyên ngành giải phẫu bệnh,
không đảm bảo yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Do đó,
cần phải ban hành những văn bản pháp lý có hiệu lực cao, điều chỉnh hoạt
động cho – nhận, ghép, sử dụng các bộ phận cơ thể người để ngành y tế
Việt Nam có cơ sở pháp lý vững chắc triển khai các hoạt động này. Trong
đó, trước hết pháp luật phải khẳng định, ghi nhận quyền hiến và nhận bộ
phận cơ thể người là quyền dân sự của cá nhân, từ đó tạo cơ sở pháp lý để
ban hành văn bản pháp luật chuyên ngành về vấn đề hiến và nhận bộ phận
cơ thể người.
3. Khái quát về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết trước khi có
Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác năm 2006
3.1 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 và văn bản hướng dẫn
Theo số liệu của Bộ Y tế cho thấy, từ những năm đầu của thập kỷ 50, nước
ta đã có những ca ghép mô, bộ phận cơ thể người đầu tiên như: ghép da,
ghép giác mạc từ tử thi vô thừa nhận và đặc biệt vào đầu những năm 70,
việc ghép gan và tim đã được thực hiện trên lợn do Giáo sư Tôn Thất Tùng
và một số bác sĩ khác tiến hành. Tuy nhiên, thời kỳ này chưa có một băn
bản pháp lý nào của Nhà nước quy định về điều kiện hiến, lấy ghép mô, bộ
phận cơ thể người. Đến cuối thập niên 80 và những năm đầu thập niên 90
những ca lấy, ghép thử nghiệm thận, gan đã cho những kết quả đáng mừng.
Và do nhu cầu của nhân dân về chăm sóc, bảo vệ sức khỏe ngày càng tăng,
đồng thời để tạo hành lang pháp lý cho việc lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
có hiệu quả, năm 1989 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân (Luật BVSKND)
được Quốc hội thông qua. Để chủ động bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho
nhân dân, trong Luật quy định rất nhiều vấn đề về phòng ngừa bệnh, khám
chữa bệnh, điều dưỡng và phục hồi chức năng… trong đó lần đầu tiên có
quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người: “1, Thầy thuốc chỉ
tiến hành lấy mô hoặc bộ phận của cơ thể người sống hay người chết dùng
vào mục đích y tế sau khi đã được sự đồng ý của người cho, của thân nhân
người chết hoặc người chết có di chúc để lại. 2, Việc ghép mô hoặc một bộ
phận cho cơ thể người bệnh phải được sự đồng ý của người bệnh hoặc thân
nhân hay người giám hộ của người bệnh chưa thành niên…”
Phân tích quy định trên ta thấy, Luật này không trực tiếp quy định về quyền
và điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể mà chỉ quy định trong
những trường hợp nào “thầy thuốc” (ở đây mà cụ thể là cơ sở y tế có thẩm
quyền) được tiến hành lấy mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống hoặc sau
khi chết. Và từ những quy định ở khoản 1 Điều 30, chúng ta có thể thấy
Luật quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết cần một
trong hai điều kiện sau: thứ nhất, phải có sự sự đồng ý của thân nhân người
chết, trong trường hợp người chết không có di chúc để lại; thứ hai, trường
hợp người chết có di chúc để lại (khoản 2 Điều 30 BVSKND. Bên cạnh đó,
6
Luật này cũng có quy định về điều kiện của việc ghép mô, bộ phận cơ thể
(tức là điều kiện với người nhận mô, bộ phận cơ thể để chữa bệnh) là phải
được sự đồng ý của người bệnh hoặc người giám hộ của người bệnh chưa
thành niên (khoản 2, Điều 30).
Tuy nhiên, ở đây, Luật mới chỉ quy định rất chung về điều kiện đối với
người hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như điều kiện hiến mô, bộ
phận cơ thể sau khi chết nói riêng. Khoản 2 Điều 30 chủ yếu nhấn mạnh
đến tính tự nguyện của người hiến hoặc gia đình họ trong việc hiến mô, bộ
phận cơ thể (tức là chỉ quy định điều kiện về ý chí) mà không có một quy
định nào điều kiện về độ tuổi, về sức khoẻ đối với người hiến, về năng lực
nhận thức của họ… khoản 2 Điều 30 của Luật BVSKND chỉ là một quy
định mang tính chất kỹ thuật để giúp các cơ sở y tế tiến hành việc lấy ghép
mô, bộ phận cơ thể được thuận lợi hơn trong một số trường hợp cần thiết
như đã nêu ở trên. Mặt khác, chúng ta cũng thấy quyền hiến mô, bộ phận
cơ thể người thời kỳ này chưa được thừa nhận nên chưa thể có được một
quy định đầy đủ về điều kiện mô, bộ phận cơ thể người khi còn sống cũng
như điều kiện đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết.
Để đảm bảo những quy định về lấy, ghép đối với người hiến mô, bộ phận
cơ thể trong Điều 30 Luật BVSKND đi vào thực tiễn cuộc sống thì vấn đề
này đã được cụ thể hóa trong Nghị định ban hành kèm theo Điều lệ Khám
chữa bệnh và phục hồi chức năng số 23-HĐBT ngày 24/1/1991 tại Điều
10: “Về lấy và ghép mô bộ phận cơ thể người
1- Việc lấy mô, bộ phận cơ thể người sống phải được người đó tự nguyện
và viết thành văn bản.
2- Việc lấy mô hoặc một bộ phận của cơ thể người chết được tiến hành
trong các trường hợp:
- Người chết có di chúc để lại đồng ý cho mô hoặc một bộ phận cơ thể của
họ.
- Người chết không có di chúc nhưng được thân nhân người chết đồng ý
cho bằng văn bản.
- Người chết vô thừa nhận.
…
4- Các thủ tục, tiến hành ghép mô hoặc một bộ phận cơ thể con người được
tiến hành như các trường hợp phẫu thuật ghi trong Điều 8 của Điều lệ này
…”.
Trong Điều lệ này đã có những quy định cụ thể hơn về cơ sở y tế khi tiến
hành lấy mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (khoản 1 Điều 10), ngoài hai
trường hợp Luật đã quy định là trường hợp người chết có di chúc để lại và
trường hợp không có di chúc, nhưng được thân nhân người chết đồng ý thì
Điều lệ này có quy định cụ thể hơn, trong trường hợp người chết không có
di chúc để lại thì thân nhân người chết có quyền đồng ý hiến mô, bộ phận
cơ thể sau khi chết, nhưng phải thể hiện bằng văn bản (khoản 2 Điều 10).
Mặt khác, Điều lệ cũng quy định cơ sở y tế có thẩm quyền cũng được sử
dụng xác, bộ phận cơ thể người chết vô thừa nhận để phục vụ cho mục đích
7
chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học mà thực tế trong những năm vừa qua
là việc sử dụng mô (giác mạc, kết mạc) để chữa trị cho người bệnh; sử
dụng bộ phận cơ thể, xác tử thi vô thừa nhận phục vụ cho việc giảng dạy
tại các Trường y. Tuy nhiên, cả Luật BVSKND cũng như Điều lệ Khám
chữa bệnh và phục hồi chức năng đều chưa có quy định cụ thể về điều kiện
đối với người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết như: chưa quy định về
vấn đề hiến xác, liệu có cần quy định về độ tuổi với người hiến để lại di
chúc hay không? Điều kiện về sức khoẻ, điều kiện về năng lực nhận thức
hay liệu có bắt buộc cần phải có sự đồng ý của gia đình trong trường hợp
người hiến để lại di chúc sau khi chết, nếu cần có sự đồng ý của gia đình
thì sự đồng ý này chỉ cần đồng ý bằng lời nói hay phải bằng văn bản, trong
trường hợp người hiến xác, bộ phận cơ thể cho giảng dạy hoặc nghiên cứu
khoa học thì trình tự thủ tục thế nào… Do đó, thực tế các cơ sở y tế vẫn
còn nhiều khó khăn trong việc nhận mô, bộ phận cơ thể người đối với
trường hợp người hiến sau khi chết. Mặt khác, các văn bản trên cũng mới
chỉ quy định về việc hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết nhằm mục đích
chữa bệnh, chứ chưa có một quy định nào về hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến
xác sau khi chết nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, nên vấn đề này thực
tế xảy ra các cơ sở y tế rất khó giải quyết. Ví dụ, một người làm đơn đăng
ký hiến mô, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết phục vụ cho mục đích
cứu chữa người bệnh, tuy nhiên lúc anh ta chết, cơ sở y tế có thẩm quyền
mới phát hiện ra anh ta bị HIV… thì cơ sở y tế có được nhận mô, bộ phận
cơ thể đó cho mục đích khoa học không?
3.2 Bộ luật Dân sự năm 2005
Phải nói rằng, việc thừa nhận và quy định quyền hiến mô, bộ phận cơ thể,
gắn liền với việc thừa nhận và quy định các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ
thể. Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể được thừa nhận là cơ sở cũng như căn
cứ để các nhà làm luật quy định một cách cụ thể và chặt chẽ về các điều
kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người, trong đó có các điều kiện hiến mô, bộ
phận cơ thể người sau khi chết. Mặt khác, việc quy định chặt chẽ, cụ thể
các điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể người sẽ giúp mọi người thực hiện
tốt hơn quyền được hiến của mình.
Điều 34 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quy định: “Cá nhân có
quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì mục đích
chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học…”. Tuy nhiên, quy định tại Điều 34
của BLDS 2005 về cá nhân được hiến trước khi có Luật Hiến, lấy ghép mô,
bộ phận cơ thể và hiến, lấy xác 2006, thì còn có nhiều cách hiểu khác nhau.
Có cách hiểu cho rằng, cá nhân ở đây có thể là bất kỳ ai không phân biệt họ
bao nhiêu tuổi, miễn là họ không bị nhược điểm về thể chất, tâm thần và tự
nguyện, quan điểm khác lại cho rằng cá nhân hiến bộ phận cơ thể ở đây
phải là người đã thành niên – mới có đầy đủ khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi. Sở dĩ có các cách hiểu khác nhau như vậy bởi vì trong Bộ
luật chưa quy định điều kiện cụ thể với cá nhân ở đây là gì về độ tuổi, về
năng nhận thức, về sức khoẻ… Như vậy, chúng ta thấy Bộ luật quy định
cũng rất chung chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể
8
khi còn sống hoặc sau khi chết mà không quy định cụ thể về độ tuổi, sức
khoẻ đối với người hiến.
4. Chủ thể và đối tượng của quyền hiến bộ phận cơ thể
4.1. Chủ thể quyền
Giống như chủ thể của các quyền nhân thân khác, chủ thể của quyền hiến
bộ phận cơ thể người chỉ có thể là cá nhân. Theo Điều 33 Bộ luật Dân sự
Việt Nam năm 2005, cá nhân có quyền được hiến bộ phận cơ thể của mình
vì mục đích chữa bệnh cho người khác hoặc nghiên cứu khoa học. Pháp
luật không có bất kỳ một sự phân biệt nào đối với các chủ thể quyền, có
nghĩa là xét về mặt năng lực pháp luật, mọi cá nhân có quyền hiến bộ phận
cơ thể và quyền này được pháp luật tôn trọng, bảo vệ. Thậm chí, dù một cá
nhân có bị pháp luật tước một số quyền công dân vì những lý do khác nhau
thì quyền hiến bộ phận cơ thể của người đó vẫn được pháp luật thừa nhận
bởi vì quyền này là quyền năng của cá nhân với tư cách là một con người,
là một cá thể trong cộng đồng xã hội chứ không phải với một tư cách nào
khác. Tuy nhiên, có quyền và có khả năng thực hiện quyền là hai việc hoàn
toàn khác nhau. Để có thể thực hiện được quyền này thì cá nhân phải đáp
ứng một số điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Điều 5 Luật hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác quy định rõ người từ
đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mới có quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, sau khi chết và hiến xác. Bởi vì
quyết định hiến bộ phận cơ thể là một quyết định quan trọng có ảnh hưởng
lớn đối với bản thân người hiến cũng như đối với xã hội, nên pháp luật đòi
hỏi người hiến phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, nhằm
đảm bảo tuyệt đối nguyên tắc tự nguyện của việc hiến bộ phận cơ thể.
Quan hệ hiến bộ phận cơ thể là quan hệ nhân thân, nên phải do cá nhân tự
mình tham gia xác lập và thực hiện, không thể thông qua người đại diện.
Do đó, người đại diện cho người chưa thành niên, người bị mất năng lực
hành vi dân sự cũng không được thay mặt người được đại diện quyết định
việc hiến bộ phận cơ thể. Thậm chí Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác còn nghiêm cấm việc lấy mô, bộ phận cơ thể ở
người sống dưới 18 tuổi.
Một vấn đề đặt ra là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có được thực
hiện quyền hiến bộ phận cơ thể hay không? Theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật
Dân sự 2005, “giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày”. Như vậy
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chỉ bị hạn chế tham gia các quan
hệ pháp luật về tài sản, nhằm bảo vệ lợi ích về tài sản của bản thân người
đó cũng như lợi ích của những người đã giao dịch với người đó. Còn các
quan hệ nhân thân của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn phải
do người đó tự mình thực hiện.
9
4.2. Đối tượng của quyền hiến bộ phận cơ thể
Đối tượng của quyền hiến bộ phận cơ thể là “bộ phận cơ thể” người. Trong
thực tế đời sống, khi nhắc đến bộ phận chúng ta thường hình dung đó là
phần cấu tạo nên một chỉnh thể nào đó. Có thể hiểu bộ phận cơ thể người là
phần cấu tạo nên chỉnh thể con người về mặt sinh học. Dưới góc độ sinh
học cơ bản, tất cả những gì thuộc về cơ thể con người, cấu tạo nên cơ thể
con người được gọi chung trong một khái niệm thống nhất “bộ phận cơ thể
người” (như: răng, tóc, máu, tay, chân, xương…).
Dưới góc độ y học, khái niệm “bộ phận cơ thể người” có thể được hiểu ở
hai cấp độ. Hiểu theo cấp độ rộng thì nó hẹp hơn so với cách hiểu dưới góc
độ sinh học – không bao gồm răng, tóc. Còn hiểu theo cấp độ hẹp, chỉ đặt
trong giới hạn của kỹ thuật cấy, ghép điều trị cứu người thì “bộ phận cơ thể
người”còn không bao hàm cả noãn/trứng, tinh trùng, phôi (nó được xếp
nằm trong kỹ thuật hỗ trợ sinh sản). Đặt khái niệm “bộ phận cơ thể người”
ở Điều 33 trong tương quan với Điều 35 – “Nghiêm cấm việc nhận, sử
dụng bộ phận cơ thể của người khác vì mục đích thương mại” – chúng ta sẽ
thấy “bộ phận cơ thể người” loại trừ cả máu (máu thực tế vẫn được bán
như một thứ hàng hoá từ người cho máu chuyên nghiệp). Trên thực tế,
người ta thường hiểu về “bộ phận cơ thể người” theo chính cấp độ hẹp này,
có nghĩa là bộ phận cơ thể người chỉ bao gồm chủ yếu các loại mô (nhóm
tế bào thường) và tạng người. Trong Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ
thể người và hiến, lấy xác, thuật ngữ “bộ phận cơ thể người” được giải
thích như sau: “Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình
thành từ nhiều loại mô khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất
định”, trong đó “Mô là tập hợp các tế bào cùng một loại hay nhiều loại
khác nhau để thực hiện các chức năng nhất định của cơ thể người”. Mặt
khác, tại Khoản 2 Điều 1 Luật này ghi nhận: “Việc truyền máu, ghép tủy
không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này”.
Một vấn đề đặt ra nữa là bộ phận cơ thể người có bao gồm những bộ phận
bị loại bỏ khỏi cơ thể của một người thông qua giải phẫu để điều trị bệnh
cho chính người có bộ phận bị loại bỏ hay không? Có ý kiến cho rằng
“những bộ phận cơ thể người do bị nhiễm bệnh mà không còn thực hiện
được chức năng trao đổi chất thông thường và đã bị loại bỏ cũng được coi
là bộ phận cơ thể người. Những bộ phận này bị cắt bỏ khỏi cơ thể một
người chỉ có giá trị là đối tượng của công việc nghiên cứu khoa học, mà
không thể là đối tượng cấy ghép sang cơ thể của một người khác nhằm mục
đích chữa bệnh cho người đó. Những bộ phận bị loại bỏ khỏi cơ thể sống
của cá nhân, khi hiến cho người khác phải được sự đồng ý của chính người
có bộ phận tuy đã bị loại bỏ đó”. Những bộ phận cơ thể người đã bị cắt bỏ
do nhiễm bệnh (các chi bị hoại tử của một người bị cắt bỏ, quả thận của
một người bị nhiễm bệnh không còn khả năng bài tiết) thì không còn được
coi là bộ phận cơ thể người, mà lúc ấy đã trở thành “bệnh phẩm”, trở thành
“chất thải y tế”, cơ sở y tế có quyền xử lý mà không cần sự đồng ý của
người có bộ phận đã bị cắt bỏ. Bởi vì theo đúng định nghĩa trong Luật, “bộ
phận cơ thể người là một phần của cơ thể được hình thành từ nhiều loại mô
10
khác nhau để thực hiện các chức năng sinh lý nhất định”. Chỉ có thể được
coi là bộ phận cơ thể người và là đối tượng của quyền hiến bộ phận cơ thể
nếu bộ phận đó có khả năng thực hiện được chức năng sinh lý bình thường
vốn có của nó.
5. Điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết
5.1 Điều kiện về năng lực chủ thể
Quyền hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết là một quyền nhân thân quan
trọng, mặc dù là quyền nhưng không phải cá nhân nào muốn thực hiện
cũng được mà cá nhân đó phải đạt được những điều kiện nhất định, trong
đó một điều kiện không thể không nói đến đó là điều kiện về độ tuổi và
điều kiện về khả năng nhận thức cũng như điều khiển hành vi.
Như chúng ta đã biết, điều kiện về độ tuổi là một dấu hiệu định lượng quan
trọng để xem xét cá nhân đó có đủ khả năng thực hiện quyền hiến mô, bộ
phận cơ thể hay không. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở các nước
trên thế giới có sự quy định khác nhau về độ tuổi đối với người hiến bộ
phận cơ thể khi còn sống, đặc biệt là hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết.
Ở Pháp, đủ 13 tuổi trở lên mới có quyền đăng ký từ chối hiến xác, bộ phận
cơ thể sau khi chết (tức là sau khi một người bị chết đi, cơ sở y tế có thẩm
quyền sẽ kiểm tra xem người đó có thẻ từ đăng ký từ chối hiến xác không,
nếu không có thì cơ sở y tế có thẩm quyền gián tiếp suy luận là người đó đã
đồng ý hiến).Ở nước ta, Điều 5 của Luật Hiến, lấy ghép mô bộ phận cơ thể
người và hiến, lấy xác năm 2006 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mô, bộ phận cơ thể của mình
khi còn sống, sau khi chết và hiến xác”.
Phân tích quy định trên ta thấy, cá nhân phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới có
quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi chết. Sở dĩ có quy định như
vậy bởi các nhà làm luật nước ta quan niệm rằng ở tuổi đó, người hiến mới
phát triển đầy đủ về tâm, sinh lý cũng như về mặt pháp lý họ là người có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự có thể bằng hành vi của mình tham gia xác
lập các quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Nếu độ
tuổi là một dấu hiệu định lượng, là điều kiện cần để hiến mô, bộ phận cơ
thể thì khả năng nhận thức và điều khiển hành vi là dấu hiệu định tính để
xác định xem cá nhân đã hoàn thiện về mặt tâm lý, về khả năng nhận thức
hay chưa.
Tuy nhiên, đối với trường hợp hiến, nhận tế bào mà cụ thể là hiến nhận tinh
trùng thì Luật lại quy định khác, tuỳ thuộc vào người hiến là nam hay nữ
mà Luật có quy định khác nhau, nếu chủ thể hiến là nam giới phải đạt độ
tuổi từ đủ 20 tuổi trở lên và phải không bị nhược điểm về thể chất tinh thần
có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên,
nữ từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến,
nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp
luật” .
11
Qua khoản 1 Điều 6 của Luật, một câu hỏi đặt ra là: tại sao người hiến mô,
bộ phận cơ thể chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên là được quyền hiến còn đối với
hiến tinh trùng nếu người hiến là nam giới bắt buộc phải từ đủ 20 tuổi trở
lên, trong khi đó nữ chỉ cần đủ 18 tuổi trở lên đã có quyền nhận tinh trùng,
hiến, nhận noãn, phôi, mà như chúng ta đã biết, người từ đủ 18 tuổi trở lên
là người đã có đầy đủ năng lực pháp luật. Mặt khác, việc Luật quy định có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ đã bao hàm trong đó cả yếu tố độ tuổi, một
người được coi là có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cũng đồng nghĩa với
việc người đó đã đủ 18 tuổi trở nên. Sở dĩ, Luật quy định như trên có nhiều
lý do, nhưng theo chúng tôi thì có một số lý do sau:
- Về mặt sinh học cũng như tâm lý học: ở nữ giới thường phát triển sớm
hơn nam giới, theo nghiên cứu của các nhà y học cho thấy ở nữ giới thường
phát triển nhanh hơn nam giới từ 2-4 tuổi và cùng với sự phát triển nhanh
chóng về mặt sinh học thì về tâm lý ở nữ giới cũng hoàn thiện sớm hơn.
- Về mặt kỹ thuật lập pháp: việc quy định nam giới từ đủ 20 tuổi trở nên
mới được hiến tinh trùng là một động tác kỹ thuật nhằm tạo nên sự thống
nhất về vấn đề này trong Luật Hiến, lấy ghép mô; bộ phận cơ thể và hiến,
lấy xác năm 2006 với các Luật trước đó như những quy định về điều kiện
kết hôn, điều kiện nhận nuôi con nuôi trong pháp luật hôn nhân gia đình.
- Mặt khác, căn cứ vào thể trạng của người Việt Nam, đặc biệt là nam giới
thì từ đủ 20 tuổi trở lên mới phát triển đầy đủ về mặt sinh lý. Khi đó tinh
trùng hiến mới đảm bảo cho việc thụ tinh có hiệu quả và quy định như vậy
cũng phù hợp với những quy định pháp luật trước đó.
5.2 Điều kiện về trình tự
Những người có đủ điều kiện quy định tại Điều 5 của Luật có quyền bày tỏ
nguyện vọng hiến mô, bộ phận cơ thể của mình với cơ sở y tế, khi nhận
được thông tin của người hiến mô, bộ phận cơ thể, cơ sở y tế có trách
nhiệm thông báo cho Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể
người. Sau khi nhận được thông báo về trường hợp hiến xác, bộ phận cơ
thể người, Trung tâm điều phối quốc gia về bộ phận cơ thể có trách nhiệm
thông báo cho cơ sở y tế có đủ điều kiện về trang thiết bị, về đội ngũ cán
bộ y tế để tiến hành các thủ tục đăng ký cho người hiến. Khi nhận được
thông báo của Trung tâm điều phối quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người,
cơ sở y tế quy định tại Điều 16 của Luật này có trách nhiệm trực tiếp gặp
người hiến để tư vấn thông tin có liên quan đến hiến, lấy mô, bộ phận cơ
thể và hướng dẫn việc đăng ký hiến theo mẫu đơn; thực hiện việc kiểm tra
sức khoẻ cho người hiến .Đến đây, người hiến mô, bộ phận cơ thể người để
được hiến phải đảm bảo được điều kiện về sức khoẻ. Còn trường hợp hiến
xác sau khi chết thực hiện theo quy định điều 19 của Luật.
Một vấn đề đặt ra là liệu điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi
chết vào mục đích nghiên cứu khoa học có khác gì với điều kiện hiến xác,
bộ phận cơ thể sau khi chết vì mục đích chữa bệnh không? ở đây, chúng ta
có thể dễ dàng trả lời được là giữa chúng có sự khác nhau bởi mục đích của
chúng là khác nhau. Vì vậy, có thể thấy có nhiều trường hợp không đủ điều
12
kiện để hiến mô, bộ phận cơ thể vì mục đích chữa bệnh, nhưng vẫn có thể
hiến và được sử dụng và mục đích nghiên cứu khoa học.
5.3 Điều kiện về sức khỏe
Việc hiến mô, bộ phận cơ thể nói chung cũng như việc hiến xác, bộ phận
cơ thể sau khi chết nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc
mang lại hay kéo dài sự sống cho người bệnh. Thực tế trên thế giới và ở
Việt Nam cũng đã xảy ra những trường hợp việc lấy, ghép nhầm mô, bộ
phận cơ thể của người hiến bị bệnh (nan y) cho người bệnh đã gây ra
những cái chết rất thương tâm hoặc trường hợp bác sĩ lấy nhầm bộ phận cơ
thể của người hiến dẫn tới tính mạng của người hiến bị đe dọa nghiêm
trọng. Do đó, để bảo đảm tính mạng, sức khoẻ cũng như tinh thần cho
người hiến, Luật đã đưa ra những quy định về hiến xác, bộ phận cơ thể sau
khi chết phải được kiểm tra sức khoẻ, tuy nhiên lại chưa quy định cụ thể
người hiến cần phải đáp ứng được điều kiện gì về sức khoẻ. Nhưng theo
quy định tại Quyết định số 43/2007/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc thực hiện
kỹ thuật cấy ghép thận, gan… cho người bệnh thì trong Quyết định này có
chỉ rõ là người hiến về sức khoẻ không bị mắc các bệnh nan y như: viêm
gan B, nhiễm HIV,…
Bên cạnh các quy định về điều kiện hiến mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau
khi chết, cơ sở y tế có thẩm quyền để có thể lấy được xác, bộ phận cơ thể
người hiến sau khi chết, Luật cũng xác định thêm một số điều kiện khác
như: điều kiện xác định chết não, liệu có cần sự đồng ý của gia đình người
hiến không trong trường hợp người thân của họ muốn hiến xác, bộ phân cơ
thể? Trong Luật quy định người từ đủ 18 tuổi trở lên mà tự nguyện làm đơn
hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết thì không cần sự đồng ý của gia
đình. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra trường hợp người hiến xác, bộ phận cơ
thể sau khi chết nhưng khi họ chết rồi cơ sở y tế có thẩm quyền đến lấy thì
gia đình người hiến không đồng ý, trường hợp này cơ sở y tế có được
quyền cưỡng chế lấy không? Vấn đề này ,ở Pháp đã áp dụng cơ chế suy
đoán sự đồng ý, tức là khi phát hiện một người bị chết, cơ sở y tế có thẩm
quyền kiểm tra trên hệ thống thông tin điện tử xem người đó có đăng ký từ
chối hiến không, nếu người đó không đăng ký thì suy đoán rằng người đó
đã đồng ý hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết. Tuy nhiên, trong trường
hợp này nếu gia đình người hiến không đồng ý hiến thì cơ sở y tế cũng
không lấy xác, bộ phận cơ thể của người đó.
Điều 5 của Luật quy định người hiến mô, bộ phận cơ thể khi còn sống cũng
như sau khi chết đều là người phải từ đủ 18 tuổi trở lên tự nguyện làm đơn
đăng ký hiến. Tuy nhiên, Luật cũng quy định trong trường hợp người chết
không có đơn đăng ký hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết nhưng nếu gia
đình người hiến đồng ý thì cơ sở y tế có thẩm quyền vẫn được nhận .
Một vấn đề đặt ra là, những người sau khi chết không có thẻ đăng ký hiến
xác, sau khi chết mà gia đình người đó đồng ý hiến bằng văn bản thì có bắt
buộc người chết đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên không? Trong trường hợp
người chết 17 tuổi không có thẻ đăng ký hiến mà gia đình họ đồng ý hiến
13
cho y học bằng văn bản thì giải quyết vấn đề này thế nào, Luật cũng chưa
có quy định.
6. Một số kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa luật hiến , lấy ghép mô ,bộ phận
cơ thể người và hiến , lấy xác
6.1 Về trình tự, thủ tục đối với người hiến xác, bộ phận cơ thế sau khi
chết
- Cần phải sớm có quy định pháp luật về trình tự thủ tục đối với việc hiến
mô, bộ phận cơ thể người cho mục đích nghiên cứu khoa học cũng như quy
định về điều kiện đối với các tổ chức nhận xác, bộ phận cơ thể người để
nghiên cứu khoa học. Quy định này rất quan trọng bởi, hiến xác, bộ phận
cơ thể người vì mục đích chữa bệnh là biện pháp ngăn chặn hậu quả, thì
nghiên cứu khoa học lại giúp phát hiện và phòng ngừa bệnh tật.
- Về thủ tục đăng ký hiến mô, bộ phận cơ thể người sống; thủ tục đăng ký
hiến bộ phận cơ thể người hiến xác sau khi chết, ở khoản 4 Điều 12 cũng
như khoản 4, Điều 18 của Luật về trách nhiệm của cơ sở y tế là trực tiếp
gặp người hiến để tư vấn về các thông tin có liên quan là không khả thi, vì
người dân sẽ hiểu theo nghĩa các cơ sở y tế phải có trách nhiệm cử cán bộ
tới nhà gặp trực tiếp người hiến để tư vấn, mà cơ sở y tế thì không đủ
người để có thể làm được điều đó. Vì vậy, cần phải sửa đổi khoản 4, Điều
12, Điều 18 theo hướng sau: “Cơ sở y tế có trách nhiệm mời người hiến
đến cơ sở y tế để trực tiếp cung cấp đầy đủ các thông tin có liên quan cho
người hiến biết”.
6.2 Về năng lực chủ thể của người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
- Về độ tuổi của người hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết theo Điều 22
của Luật, trường hợp người chết mà không có thẻ đăng ký hiến xác, hiến
bộ phận cơ thể người sau khi chết, Luật không nên giới hạn độ tuổi là đủ
18 tuổi trở lên mà người dưới 18 tuổi cũng có thể được chấp nhận nếu
được gia đình hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó đồng ý. Bởi vì:
Thứ nhất, Luật hiện hành cho phép cơ sở y tế có quyền nhận mô, bộ phận
cơ thể từ người chết trong trường hợp người đó không có thẻ đăng ký hiến
sau khi chết, nhưng gia đình, cụ thể là người thân thích theo quy định của
pháp luật của họ có đơn muốn hiến.
Thứ hai, trường hợp người đó hiến khi còn sống thì điều kiện về năng lực
chủ thể tức khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn đặt ra, còn
trường hợp người đó đã chết thì nếu trên cơ sở quy định pháp luật đã được
gia đình đồng ý thì người hiến đó không cần thiết phải là đủ 18 tuổi trở lên
theo quy định của Luật mà có thể thấp hơn 18 tuổi.
Có ý kiến cho rằng, nên giới hạn độ tuổi người hiến bộ phận cơ thể từ 18
tuổi đến 60 tuổi. Điều này là không cần thiết bởi nhiều người tuy tuổi cao,
song về mặt sinh học, bộ phận cơ thể của họ vẫn tốt mà họ tự nguyện hiến
thì vẫn có thể lấy được. Mặt khác, việc hiến bộ phận cơ thể ở người sống
ngoài việc phục vụ chữa bệnh còn nhằm mục đích nghiên cứu khoa học và
giảng dạy. Do đó, không nên giới hạn độ tuổi hiến mô, bộ phận cơ thể
người khi còn sống.
14
- Về năng lực chủ thể của người hiến là cần thiết trong trường hợp người
đó hiến mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống hoặc đăng ký hiến sau
khi chết. Tuy nhiên, trường hợp mà người chết không để lại di chúc mà gia
đình họ làm đơn hiến mô, bộ phận cơ thể của con mình nhằm mục đích cứu
chữa người bệnh thì vấn đề năng lực nhận thức của người đó lại không nên
đặt ra, bởi cho dù người đó có thể bị rơi vào trường hợp bị tâm thần hoặc
mất năng lực hành vi đi chăng nữa thì cũng không có nghĩa là bộ phận cơ
thể nào của họ cũng bị ảnh hưởng hoặc không sử dụng được để cứu chữa
người bệnh. Do đó, chúng ta không nên đặt ra vấn đề khả năng nhận thức
cũng như năng lực hành vi của người hiến trong những trường hợp như
trên.
6.3 Về sức khỏe đối với người hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với người hiến trong quá
trình hiến mô, bộ phận cơ thể người nhằm cứu chữa người bệnh. Do vậy có
thể dễ dàng nhận thấy sức khỏe là điều kiện tiên quyết và quan trọng đối
với mục đích cứu chữa bệnh, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe của
người hiến mà nó còn ảnh hưởng đến sức khỏe của người nhận ghép. Tuy
vậy, nếu sử dụng xác, bộ phận cơ thể vào mục đích nghiên cứu khoa học
thì không nhất thiết phải bắt buộc điều kiện về sức khỏe của người hiến,
bởi vì đích cuối cùng của nghiên cứu khoa học là nhằm tìm nguyên nhân
và cách thức phòng ngừa bệnh tật để cứu chữa người bệnh. Vì vậy, dù là
người có bệnh hay không có bệnh mà hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết
nhằm mục đích giảng dạy và nghiên cứu khoa học thì đều có thể nhận
được.
6.4 Một số kiến nghị liên quan khác
Bên cạnh những kiến nghị trên để hoàn thiện pháp luật về điều kiện hiến
xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết, chúng ta cần phải quan tâm đến
những vấn đề sau:
Nhu cầu về cấy, ghép mô, tạng ở nước ta ngày càng lớn nên pháp luật đã
điều chỉnh nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc cấy, ghép mô, tạng và tăng
nguồn hiến mô, tạng trong nhân dân. Tuy nhiên, Luật vẫn chưa đề cập đến
vấn đề hiến bộ phận cơ thể, hiến xác của tử tù nhằm phục vụ cho chữa
bệnh và nghiên cứu khoa học nên rất khó khăn cho các cơ sở y tế có thể
nhận xác trong trường hợp người có án tử hình muốn hiến xác của họ cho y
học. Vào ngày 25/10/2007, tử tù Nguyễn Phước Đỉnh, ngụ tại xã Tân
Phước, huyện Gò Công Đông (Tiền Giang) đã gửi đơn lên Toà án nhân dân
tối cao xin được hiến xác cho y học sau khi thi hành án tử hình. Điều này
thực sự đã làm Toà án nhân dân tối cao bối rối trong việc đưa ra quyết định
là có đồng ý hay không đồng ý cho tử tù được hiến xác. Trong khi đó, theo
Chỉ thị số 138/KC1 năm 1974 của Bộ Nội vụ thì xác tử tội phải chôn ở
pháp trường, thân nhân không được đem về an táng. Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2003 không có quy định nào về việc cho phép thân nhân nhận lại
xác; đến nay, Chỉ thị trên vẫn còn hiệu lực và cản trở quyền được hiến xác
của tử tù. Vì vậy, việc Toà án nhân dân tối cao bối rối là đương nhiên.Nên
nghiên cứu quy định về điều kiện và trình tự, thủ tục cho phép người bị
15
tuyên tử hình có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của mình sau khi chết, đây
là một việc làm rất nhân văn và mang tính nhân đạo sâu sắc. Vì thế nên có
quy định về điều kiện hiến xác, bộ phận cơ thể đối với tử tù trong trường
hợp họ muốn hiến, ngoài những điều kiện chung về độ tuổi, năng lực nhận
thức, sức khỏe… thì cần phải có những quy định đầy đủ hơn nữa về vấn đề
này. Ví dụ, cần phải bãi bỏ quy định là không cho mang xác tù nhân ra khỏi
pháp trường (tức là xác phải chôn trong pháp trường) … đây là một vấn đề
nhạy cảm nên cần phải có sự cân nhắc thận trọng giữa việc đảm bảo an
ninh, an toàn và vấn đề nhân đạo, sức khỏe nhân dân.
- Luật cũng nên quy định về điều kiện hiến, nhận, sử dụng mô, bộ phận cơ
thể sau khi chết để nghiên cứu khoa học một cách chặt chẽ bởi: thứ nhất,
hiến xác, bộ phận cơ thể là một trong hai mục đích quan trọng được ghi
nhận trong BLDS 2005 (đó là mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa
học); thứ hai, quy định đầy đủ về vấn đề này nhằm tránh việc các tổ chức,
cá nhân lợi dụng để bí mật bán mô, tạng vì mục đích thương mại. Đồng
thời cũng nên quy định những trường hợp mà người hiến xác, bộ phận cơ
thể người vì mục đích chữa bệnh, nghiên cứu khoa học nhưng mục đích đó
không được thực hiện, thì gia đình người hiến có thể được lấy lại xác để
mai táng theo nghi lễ truyền thống hoặc hoả thiêu.
- Điều 11 của Luật đề cập đến các hành vi bị pháp luật cấm trong lĩnh vực
này như: cấm mua, bán, lấy trộm mô, tạng; cấm sử dụng mô, tạng vì mục
đích thương mại… Tuy nhiên, Luật lại chưa đưa ra chế tài áp dụng khi vi
phạm một trong những hành vi trên. Trong khi đó, Bộ luật Hình sự cũng
chưa có điều khoản nào điều chỉnh về loại tội phạm này. Đây là một khó
khăn cho quá trình áp dụng và ngăn chặn những loại tội phạm đó trên thực
tế.
- Thực tế những năm vừa qua cho thấy, việc dùng tử thi vô thừa nhận đã
góp phần cứu chữa được nhiều người bệnh, đặc biệt là những người mắc
bệnh về mắt (ghép giác mạc, kết mạc).. Tuy nhiên, Luật cũng chưa định
nghĩa thế nào là tử thi vô thừa nhận; tử thi vô thừa nhận khác gì với tử thi
không hoặc chưa xác định được người thân thích là ai. Nếu một người đến
nơi khác làm ăn nhưng lại chết ở đó mà Uỷ ban nhân dân xã không xác
định được người thân thích của họ là ai hoặc không xác định được nơi
thường trú của họ, liệu Uỷ ban nhân dân xã có quyền hiến cho cơ sở y tế
không? Luật không có câu trả lời cụ thể. Về điều kiện đối với việc lấy xác
người không có địa chỉ cư trú cuối cùng (Điểm 6, khoản 1, Điều 22), đây là
vấn đề rất nhạy cảm và không hề đơn giản. Chúng ta cần có sự phân biệt
giữa tử thi vô thừa nhận và tử thi chưa xác định được người thân thích. Nếu
trường hợp là tử thi vô thừa nhận không có người thân thích thì cần thời
gian lưu xác để xác định chính xác điều đó trước khi lấy mô, bộ phận cơ
thể hoặc lấy xác của họ. Còn nếu trường hợp tử thi mà chưa xác định được
người thân thích là ai thì theo quan điểm của TS. Phùng Trung Tập, Uỷ ban
nhân dân xã nơi người đó chết không có quyền được hiến cho cơ sở y tế, vì
nó có thể dẫn đến nhiều sự phức tạp như sự lạm dụng, che giấu tội phạm,
16
thậm chí là mua bán mô tạng bất hợp pháp…, do đó, cơ quan có thẩm
quyền rất khó kiểm soát tình hình.
- Điều17, Điều 25 của Luật nêu rất cụ thể về quyền lợi cũng như tôn vinh
những người hiến mô, bộ phận cơ thể người hoặc hiến xác sau khi chết.
Tuy nhiên, Luật lại không có điều nào tôn vinh về mặt tinh thần cho gia
đình người hiến xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết. Đây là một thiếu sót
của Luật. Vì thực tế, để lấy được xác, bộ phận cơ thể của người chết cũng
phải có sự ủng hộ rất lớn của gia đình họ. Hơn nữa, trong trường hợp người
chết không có đơn tự nguyện hiến nhưng gia đình họ đồng ý hiến bằng văn
bản thì vẫn đựợc lấy, trường hợp đó lại càng cần phải tôn vinh. Ngoài ra,
khi một người bị mất đi, nỗi đau sẽ thuộc về những người còn sống.Về
quyền lợi của người hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ thể sau khi chết (Điều
25): như đã nói, một người chết đi thì nỗi đau tinh thần thường thuộc về
những người còn sống mà trực tiếp là gia đình người hiến xác, hiến mô, bộ
phận cơ thể sau khi chết. Những người thân thích đó đóng vai trò rất quan
trọng trong việc người thân của mình có thể hiến xác, hiến mô, bộ phận cơ
thể người. Gia đình người hiến cũng đáng được tôn vinh về mặt tinh thần
để động viên họ. Do vậy, Điều 25 của Luật nên sửa đổi như sau: “Bản thân
người hiến và gia đình người đã hiến xác, bộ phận cơ thể sau khi chết được
Bộ y tế truy tặng đối với bản thân và tặng đối với gia đình Kỷ niệm chương
Vì sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ nhân dân”.
Điểm b, khoản 1, Điều 24 của Luật quy định cơ sở y tế phối hợp với gia
đình người hiến để tổ chức lễ truy điệu. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp
gia đình có người hiến ở xa, phương tiện đi lại rất khó khăn khi cơ sở y tế
đến tiếp nhận thì gia đình đã tổ chức Lễ truy điệu hoặc đã thực hiện các
nghi thức theo phong tục tập quán địa phương. Do đó, nên chăng chỉ cần
quy định cơ sở y tế, cơ sở nghiên cứu, đào tạo y học có trách nhiệm đến
viếng, đọc thư tri ân trước khi tiếp nhận di hài sẽ hợp lý hơn.
- Về thẩm quyền xác định chết não, Luật không cần thiết phải bắt buộc phải
có sự tham gia của giám định pháp y trong việc xác định chết não vì thực tế
cho thấy ở nước ta, số lượng chuyên gia pháp y là không nhiều, đặc biệt là
ở một số bệnh viện, cơ sở y tế trung bình. Nếu quy định như điểm c, khoản
2, Điều 27 của Luật sẽ có nhiều trường hợp phải chờ sự có mặt của các
chuyên gia pháp y. Do đó, sẽ kéo dài thời gian vàng cho phép lấy những bộ
phận tạng được hiến ở điều kiện tốt nhất, chỉ bảo quản được trong thời gian
ngắn. Ví dụ như tim chỉ được ghép tối ưu nhất trong vòng 24h kể từ khi lấy
ra khỏi lồng ngực của người hiến, còn thận thì tuy bảo quản để ghép được
có dài thời gian hơn, nhưng cũng không quá 72h. Việc xác định chết não
nên giao cho một hội đồng độc lập gồm các chuyên gia thuộc chuyên khoa
hồi sức, hồi sức tích cực nội – ngoại thần kinh đánh giá dựa trên dấu hiệu
lâm sàng và cận lâm sàng của khoa học kỹ thuật y học hiện đại. Sau khi hội
đồng có kết luận thống nhất thì thủ trưởng sẽ ra quyết định cuối cùng.
- Về điều kiện đối với người được ghép mô, bộ phận cơ thể người, khoản 1,
Điều 30 của Luật không nên quy định chung chung về người có quyền chỉ
17
định ghép mà nên xác định cụ thể người có quyền chỉ định ghép là người
đứng đầu cơ sở y tế có thẩm quyền, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác. Như vậy sẽ đảm bảo được sự nhanh nhạy trong việc quyết định cấy,
ghép, mặt khác nó còn đảm bảo tính trách nhiệm với từng người cụ thể.
- Về chế độ bảo hiểm y tế và viện phí đối với người ghép: Vì quan hệ cấy,
ghép mô là quan hệ dân sự nên chi phí cho cấy, ghép mô, bộ phận cơ thể
người là do người được cấy, ghép phải trả. Chi phí cho việc cấy, ghép rất
lớn nên nó cần được sự hỗ trợ từ cơ quan bảo hiểm. Tuy nhiên, nếu quy
định như trong Luật thì vấn đề này sẽ rất khó được giải quyết triệt để vì
thực tế, Quỹ bảo hiểm y tế hiện không đủ nguồn để đáp ứng cho nhu cầu
khám chữa bệnh của nhân dân và có nguy cơ vỡ quỹ bảo hiểm. Do đó, để
giảm gánh nặng cho Nhà nước, chúng ta nên ban hành văn bản pháp luật
cho phép các loại hình bảo hiểm mới chuyên về lĩnh vực này hoạt động,
dựa trên cơ sở liên doanh với nước ngoài hoặc 100% vốn nước ngoài để
phục vụ chăm sóc, phục hồi sức khoẻ cho người ghép.
KẾT LUẬN
Quốc hội đã thông qua luật hiến , lấy, ghép mô,bộ phận cơ thể người và
hiến lấy xác để góp phần bảo vệ , chăm sóc sức khỏe của nhân dân ngày
càng tốt hơn .Vì đây là văn bản đầu tiên điều chỉnh điều chỉnh chuyên biệt
một lĩnh vực rất mới mẻ và phức tạp nên nó không tránh khỏi những bất
cập nhất định cần được hoàn thiện nhưng nó cũng đã góp phần thể hiện giá
trị nhân đạo của pháp luật tôn vinh và đề cao những hành động cao thượng
của con người với tinh thần tương thân tương ái để giúp đỡ những người
gặp hoàn cảnh khó khăn và thúc đẩy sự phát triển của y học .
18