Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.66 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Bộ luật dân sự 2005 được Quốc hội thông qua là kêt quả là kết quả cuả quá
trình phát triển điểm háo pháp luật về dân sự, đáp ứng nhu cấu bức xúc cuả
xã hội của quản lý Nhà nước trong tình hình phát triển mạnh mẽ của đất
nước.
Là bộ luật lớn của nước ta, có phạm vi rông lớn và điều chỉnh nhiều mối
quan hện xã hội. Bộ luật dân sự là đối tượng nghiên cứu quan trọng của
nghành luật học, đòi hỏi nhiều công sứ của các nhà nghiên cứu khoa học
luật.
Việc nghiên cứu các chế định pháp lý trong Bộ luật dân sự là một viêc làm
cần thiết trong quá trình nâng cao dân trí pháp luật của nhân dân, củ thể là
nâng cao sự hiểu biết, nhận thức đúng đắn những vấn đề
NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CỦA QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ
THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.
1, Khái Niệm chung
Thế nào là bộ phận cơ thể người theo TS Phùng Trung Tập xét về mặt
sinh học: “ Bộ phận cơ thể người là những thành tố cấu thành sự thống nhất
của một cơ thể sống hoàn chỉnh và nó thực hiện được chức năng trao đổi
chất giúp cho cơ thể tồn tại và phát triển bình thường theo quy luật của tự
nhiên”.
2
Có quan niệm khác lại định nghĩa theo cách liệt kê đối tượng, hộ cho
rằng: “ Bộ phận cơ thể người là một phần của cơ thể như mắt, tay, chân, gan,
thận, tim hoặc phần khác của cơ thể” đây là hai cách hiểu khác nhau.
Hai loại định nghĩa này đều làm nổi bật lên thế nào là bộ phận cơ thể
người, nhưng việc đưa định nghĩa nào vào trong luật thì các nhà làm luật
phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng.
2, Cơ sở lý luận
Con người sinh ra đã có quyền sống, quyền tự do…đó là quyền con


người khi họ sống trong một Nhà nước nhất định thì quyền con người của họ
luôn được đảm bảo thừa nhận và quyền hiến bộ phận cơ thể người , hiến xác
sau khi chết cũng là một bộ phận quyền con người. Do đó, lẽ tất nhiên nó
cũng được Nhà nước thùa nhận và bảo vệ.
Con người có quyền quyết định những gì thuộc về mình như quyền nhân
thân, con người có quyền bảo vệ tên tuổi, danh dự, nhân phẩm, giữ gìn sức
khỏe…bộ phận cơ thể người, đối với xác sau khi chết, nó cũng là một bộ
phận của quyền nhân thâ. Do đó, con người cũng có quyền được hiến, nhận
bộ phận cơ thể người sau khi chết.
Về mặt sinh học con người là một thể thống nhất gồm nhiều bộ phận hợp
lại để hoạt động các bộ phận đấy, các cơ quan đấy phải thực hiện quá trình
trao đổi chất. Tuy nhiên không phải ai sinh ra các bộ phận cơ thể cũng hoàn
thiện mà có những người họ bị khuyết thiếu một bộ phận nào đó hoặc có
người sinh ra họ phat triển binh thường nhưng vì một lý do nào đó họ phải
cắt bỏ một phần cơ thể của mình và bộ phận cơ thể đó có thể cần cho mục
đích nghiên cứu khoa học. Mặt khác trên thực tế có những người do tai nạn
hoặc vì tình thương vì sự nhân đạo họ tự nguyện hiến bộ phận cơ thể mình
3
cho nhười khác hoặc họ cũng có thể tự nguyện hiến xác, hiến bộ phận cơ thể
mình sau khi chết để cứu chữa bệnh cho người khác hoặc nhằm mục đích
phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu khoa học.
Về mặt pháp lý Quyền bảo vệ sức khỏe, tính mạng con người đã được quy
đinh trong Hiến Pháp 1992 và Bộ luậ Dân sự 1995 và lần đầu tiên Quyền
hiến bộ phận cơ thể người; hiến xác sau khi chết được thừa nhận và quy định
ở Điều 33 Quyền hiến bộ phận cơ thể; Điều 34 Quyền hiến xác, bộ phận cơ
thể sau khi chết; Điều 35 Quyền nhận bộ phận cơ thể người.
3, Cơn sở thực tiễn .
Thực tế cuộc sống cho thấy nhiều trường hợp con người do tai nạn, do sự
kiện bất ngờ dấn đến nhiều trường hợp chết lâm sàn hoặc chết thực sự. Tuy
nhiên một số bộ phận cơ thể của họ vẫn còn sống và vẫn có thể dùng để cứu

chữa người bệnh hoặc dùng để nghiên cứu khoa học.
Thực tế cũng cho thấy rất nhiều người còn sống họ cũng tình nguyện hiến
các bộ phận cơ thể của mình để cứu người bệnh trong cơn nguy kịch. Ở
nước ta thì việc cha, mẹ hiến để chữa trị cho con cái hoặc những người thân
thích với nhau là không hiếm…Nhưng nếu có quy định pháp lụt về vẫn đề
này thì số người hiến sẽ không dùng lại ở phạm vi hẹp như trên mà có nhiều
người hiến hơn nữa và đương nhiên là có nhiều người bệnh được cứu sống
Bên cạnh có một số người muốn sau khi mình chết đi thi thể cuả họ sẽ
không bị chôn vùi một cách vô ích lãng quyên cùng với cát bụi mà họ muốn
hiến cho các trung tâm nghiên cứu y học hoặc cho người bệnh nhằm mục
đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học.
Cùng với sụ phát triển kinh tế là mặt trái của nó, môi trường ôi nhiễm,
tài nguyên cạn kiệt, bệnh tật ngày càng phát sinh nhiều và ngày càng nguy
4
hiểm như bệnh viêm gan A, viêm gan B, teo thận, tim mạch…do đó nhu cầu
về ghép nộ tạng ngày càng tăng cao trong khi đó người hiến tạng lại không
nhiều.
Hơn nữa ở nước ta, những người chết vì rủi ro, bão lũ, tai nạn giao
thông hàng năm là rất lớn trung bình mỗi tháng là 1000 người chết. Đó là
một điều không may nhưng một người có thể cứu được ít nhất 7 người.
Tại Hà Nội cũng có gần 1.500 người được chỉ định ghép gan nhưng do
không có nguồn cho nên số bệnh nhân này đang trong tình trạng nguy hiểm
tới tính mạng. Còn về nhu cầu mô, chúng ta có khoảng hơn 5.000 người
bệnh đang chờ được ghép giác mạc.
Riêng tại Viện Mắt Trung ương, mỗi năm nhu cầu ghép giác mạc từ 500
ca/năm trở lên nhưng từ năm 1985 đến nay mới chỉ ghép được 1.500 ca. Số
giác mạc được dùng để ghép chủ yếu lấy từ nguồn viện trợ của các Tổ chức
phi chính phủ (khoảng 50 - 100 giác mạc/năm) mà không có nguồn của
người cho giác mạc.
Trên thế giới một số nước như Pháp, Mỹ… đã cho phép hiến bộ phận

cơ thể người, hiến xác sau khi chết và đã đem lại hiểu quả rất ấn tượng, mỗi
người bệnh sau khi được ghép thận, gan, có khả năng sống cao hơn, lâu dài
hơn và chi phí ít tốn kém hơn so với chạy thận nhân tạo…
Từ những lý luận cũng như thực tiễn cho thấy việc quy định Quyền hiến
bộ phận cơ thể người, hiến xác sau khi chết là haonf toàn đúng đắn và hợp lý
trong bối cảnh đất nước ta hiện nay.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN HIẾN BỘ PHẬN CƠ THỂ
NGƯỜI; HIẾN XÁC SAU KHI CHẾT.
Bộ luật Dân sự 2005 đã đề cập đến một vấn đề hoàn toàn mối mà từ
khi lập pháp đế nay ổ nước ta vấn chưa dề cập tới. Đố là lần đầu tiên trong
5
Bộ luật Dân sự 2005 quy định Quyền hiến bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi
chết, trong đó đã đề cập đến hai vấn đề đó là Quyền hiến bộ phận cơ thể
ngươi khi còn sống được quy định ở Điều 33 va hiến xác, bộ phận cơ thể
người sau khi chết được quy đinh tại Điều 34 ngoài ra để đảm bảo việc thực
hiện quyền nàu có hiểu quả trong Bộ luật này cũng quy định quyền nhân bộ
phận cơ thể người được quy định ở Điều 35.
Tại Điều 33 Bộ luật Dân sự 2005: “ cá nhân được quyền hiến bộ phận
cơ thể của mình cho người khác vì mục đích chữa bệnh và nghiên cứu khoa
học. Việc hiến bộ phận cơ thể người được thực hiện theo quy định của pháp
luật”.
Đặc biệt việc thừa nhận Quyền hiến xác, hiến bộ phận cơ thể của cá nhân
khi cá nhân đó chết đi được quy định tại Điều 34 của Bộ luật dân sự 2005: “
Cá nhân có quyền hiến bộ phận cơ thể của mình hoặc hiến xác sau khi chết vì
mục đích chữa bệnh hoặc nghiên cứu khoa học.
Việc sử dụng xác, bộ phận cơ thể của người chết được thực hiện theo quy
định của pháp luật”.
Qua đó ta thấy ở đây pháp luật cũng chỉ quy định rấ khái quát, chung
chung về việc cá nhân có quyền hiến xác, hiến bộ phân cơ thể sau khi chết
chứ không quy đinh củ thể về vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe đối với

người hiến…Tuy nhiên trong bộ luật cũng quy định việc sử dụng xác, bộ
phận cơ thể người thực hiện theo quy định của pháp luật do đó ta dán tiếp
hiểu rằng vấn đề điều kiện về đổ tuổi, sức khỏe … sẽ được quy định trong
một văn bản khác. Tuy vậy chúng ta cũng biết được rằng thực tế nếu không
có những quy định về những vấn đề củ thể này thì việc thừa nhận quyền hiến
xác, hiến bộ phận cơ thể sau khi chết có lẽ chỉ mang tính danh nghĩa mà khó
có thể sử dụng được.
6
Tuy vậy khi thừa nhận quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người thì nó sẽ đáp
ứng được nhu cầu phục vụ cho quá trình giảng dạy có hiệu quả trong các
trươngg Đại Học, các trung tâm nghiên cứu y học. Bên cạnh quy định về
quyền được hiến bộ phận cơ thể người , nhiến xác sau khi chết. Bộ luật Dân
sự 2005 còn quy định về quyền được nhận bộ phận cơ thể người Điều 35
quy định: “ Cá nhân có quyền nhận bộ phận cơ thể của người khác để chữa
bệnh cho mình. Nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể người khác vì
mục đích thương mại”.
Đây là quy định phù hợp vì đương nhiên đã có quy định cá nhân có
quyền hiến bộ phận cơ thể thì luật cũng phải quy định cá nhân có quyền
nhận bộ phận cơ thể người. Nhưng ta thấy vấn đề này Bộ luật Dân sự cũng
quy định chung chung nên rất khó thực hiện trên thực tế bởi vì sễ dẫn đến
hiểu không thống nhất cá nhân có quyền nhận ở đây, phải chăng là bất cứ ai,
ở bất kỳ đổ tuổi nào cũng được hay cá nhân phải ở đổ tuổi nhất định , không
bị mất năng lực hành vi dân sự những vấn đề này luật chưa quy định.
Trong Điều 35 luật cũng nghiêm cấm việc nhận, sử dụng bộ phận cơ thể
người vì mực đích thương mại. Nhà lập pháp nước ta cũng như một số nước
như: Pháp, Đức..họ không coi bộ phận cơ thể người là hàng hóa do đó không
được trao dổi mua bán trên thị trường. Bện cạnh đó có một số quan điểm
khác cho rằng nên thừa nhận việc hiến mô tạng vì mục đích thương mại vì
họ cho rằng đó là quyền của mỗi cá nhân khi họ cho đi một bộ phận cơ thể,
họ có quyền nhận lại một lợi ích vật chất nhất định đó là quền hoàn toàn

chính đáng và bảo đảm người mua, kẻ bán, người trung gian đều có lợi trong
vấn đề này. Mặt khác nhu cầu ghép bộ phận cơ thể trên thực sự là rất lớn,
nhiều người sẵn sàng bổ tiền ra để có được thứ mình cần.
Bên cạnh hai quan niệm đó thì có quan niệm dung hòa hơn là họ cho
rằng nên thừa nhận việc hiến xác, bộ phận cơ thể người sau khi chết vì mục
7
đích thương mại nhưng trong một giới hạn nhất định, trong trường hợp nhất
định.
Quyền hiến xác: do cá nhân quyết định
Trong báo cáo giải trình, tiếp thu của Ủy ban thường vụ (UBTV) QH,
ông Vũ Đức Khiển (chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật) cho biết xung quanh nội
dung quyền hiến xác, có ý kiến ĐB QH đề nghị bổ sung qui định hộ gia đình
có quyền hiến xác, bộ phận cơ thể của người thân sau khi chết.
Một số ý kiến khác lại muốn việc hiến xác, hiến bộ phận cơ thể phải có sự
đồng ý hoặc không có sự phản đối của cha, mẹ, vợ, chồng, con đã thành niên
của người đã chết. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc, UBTVQH cho rằng đây là
một quyền nhân thân của cá nhân, do cá nhân tự quyết định. Mặt khác, vấn
đề này còn tương đối mới, thực tiễn phát sinh chưa nhiều, do vậy Bộ luật
dân sự chỉ nên dừng ở những qui định mang tính nguyên tắc.
Ngay sau khi Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến,
lấy xác được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006.
Bộ Y tế đã ban hành Kế hoạch số 21 ngày 12/1/2007 về việc Triển khai thi
hành Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác với
mục đích xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn
chi tiết và phổ biến kịp thời, đầy đủ nội dung của Luật đến tất cả các tầng
lớp nhân dân cũng như đối với đội ngũ cán bộ ngành y tế. Đồng thời, tiến
hành xây dựng Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của
luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác nhằm hướng
dẫn thi hành đến mọi đối tượng. Theo đó, Nghị định quy định về tổ chức,
điều kiện thành lập và hoạt động của ngân hàng mô và Trung tâm điều phối

quốc gia về ghép bộ phận cơ thể người. Các đối tượng áp dụng sẽ là các tổ
chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá
nhân nước ngoài có liên quan đến tổ chức, thành lập và hoạt động của ngân
8

×