Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.92 KB, 19 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (GDDS) là một trong những nội dung
cơ bản, quyết định sự ổn định, tính hợp lý, tính hiệu quả của các giao dịch trong
giao lưu dân sự nói chung và trong hoạt động thương mại nói riêng. Nếu pháp luật
không có những quy định cụ thể, rành mạch sẽ làm cho các chủ thể hoang mang và
không tự tin khi tham gia GDDS, thương mại, gây ra những hậu quả khó lường đối
với nền kinh tế – xã hội và có thể tạo ra sự tùy tiện không đáng có trong quá trình
áp dụng pháp luật của các chủ thể có liên quan. Chính lí do này, bài tập của em xin
được trình bày về vấn đề “Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự”.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I.

Khái niệm hợp đồng dân sự.

I.1.

Hợp đồng dân sự

Điều 338 BLDS 2005 qui định: “hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về
sự xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền hoặc nghĩa vụ dân sự”
I.2.

Đặc điểm của hợp đồng dân sự.

Từ định nghĩa trên ta thấy hợp đồng dân sự có các đặc điểm sau:
Hợp đồng dân sự trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải chứa
đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên. Việc
giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng,
thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng không
được trái với pháp luật và đạo đức xã hội.


Về chủ thể tham gia hợp đồng dân sự : Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng dân
sự phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng dân sự là một giao dịch pháp lý
đơn phương, song phương hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp
đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định
1


của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (ví dụ: nếu chủ thể là cá nhân
thì phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân
sự…).
Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập thay đổi hoặc
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
II.
1.

Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự

Là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng hợp đồng, có quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng, các hệ
thống pháp luật đều qui định chủ thể phải có năng lực chủ thể nhất định. Theo đó,
yêu cầu về chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi dân sự” là một trong
những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Pháp luật Việt Nam qui định
chủ thể tham gia giao dịch dân sự (hợp đồng) phải “có năng lực hành vi dân sự”.
Cũng theo các qui định của BLDS 2005, chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng bao
gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Mặt khác, nănglực hành vi
dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng của các chủ thể khác nhau là không
giống nhau.
Đố i với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia vào hợp đồng phụ

thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ. Theo qui định của BLDS 2005,
cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì được tự mình xác lập, thực hiện các
hợp đồng dân sự; người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là người có
một phần năng lực hành vi dân sự thì việc xác lập, thực hiện các hợp đồng của họ
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằmphục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật có quy định khác; cá
nhân từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác; người dưới 6 tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự và
mọi giao dịch liên quan tới người này đều phải được xác lập, thực hiện thông qua
người đại diện hợp pháp; người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì
phải có người giám hộ và mọi giao dịch liên quan đều phải được xác lập, thực hiện
thôngqua người giám hộ; người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự
thì các giao dịch liên quan tới tài sản của họ phải được sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật, trừ các giao dịch phục vụ nhu cầu hàng ngày.
Đố i với pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác: Pháp nhân là những tổ chức có đủ các
điều kiện được qui định tại Điều 84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ
của quan hệ pháp luật dân sự, có năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được
tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt
2


động của pháp nhân. Mục đích vàphạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện
trong điều lệ, hoặc quyết định thành lập pháp nhân.
Hộ gia đình và tổ hợp tác là chủ thể hạn chế của Luật Dân sự. Hai loại chủ thể này
tham gia các giao dịch phù hợp với phạm vi hoạt động của nó. Phạm vi hoạt động
của tổ hợp tác được thể hiện trong hợp đồng hợp tác. Phạm vi hoạt động của hộ gia
đình do pháp luật qui định. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác là những thực thể xã
hội chứ không phải là một con người tự nhiên, nên năng lực hành vi dân sự của các
chủ thể này không biểu hiện trực tiếp bằng hành vi và ý chí của một con người cụ

thể nào đó, mà được thể hiện bởi ý chung của các thành viên và được thực hiện
thông qua hành vi của người đại diện, nếu hành vi đó được thực hiện nhân danh
chủ thể, trong phạm vi đại diện, và tương ứng với phạm vi hoạt động của chủ thể
đó.
Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân phải có
năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng mà chủ thể
đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợpđồng thông
qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và phải phù hợp
với giới hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể.
2.

Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội

BLDS 2005 th ừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4). Nhưng để
bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn chế quyền tự do của
các bên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dungvà mục đích của hợp đồng
(giao dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo
đức xã hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122). Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục
đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”
(Điều 128). N ội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên
chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. Mục
đích của của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các bên
mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó” Đ iều cấm của pháp luật “là những
quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định”. Và, “đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng”. Khái niệm
nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất rộng. Thường thì nội dung của hợp
đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của hợp đồng là tài sản hay công việc; số

lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và phương thức thanh toán; thời hạn, địa
điểm thực hiện hợp đồng… Bất kỳđiều khoản nào trong số đó vi phạm điều cấm
của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì hợp đồng cũng bị coi là vô hiệu.
3


Để hợp đồng có hiệu lực thì mục đích của hợp đồng cũngphải không vi phạm điều
cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Hợp đồng có mục đích vi phạm
điều cấm của pháp luật thì vô hiệu.
3.

Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp
đồng

T ự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là có
tham gia hay không tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân mình,
mà không chịu sựchi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ những người
khác. Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải
hoàn toàn tự nguyện. Tự nguyện còn là nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật
dân sự và pháp luật thương mại. Ý chí t ự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu
thuộc yếu tố chủ quan, nếu không được biểu hiện ra bên ngoài, thì người khác
không thể biết được. Có tác giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt
của tự nguyện”. Tự nguyện nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và
phải có “sự thống nhất giữaý chí với sự bày tỏ ý chí”. Không có tự do ý chí và sự
bày tỏ ý chí hoặc phá vỡ tính thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ không có sự tự
nguyện. Theo quan điểm của TANDTC, thì “người tham gia giao dịch (hợp đồng)
hoàn toàn tự nguyện được hiểu là: các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự do bày
tỏ ý chí, nguyện vọng của mình, tự nguyện thoả thuận với nhau về các nội dung
của giao dịch mà không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép từ phía bên kia hoặc của
người khác; các bên tự nguyện thoả thuận các vấn đề nhằm làm phát sinh, thay đổi,

chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”. Quan điểm này cũng thể hiện đúng
tinh thần của BLDS 2005. H ợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện không tự
nguyện, thì có thể bị vô hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp không
có sự tự nguyện là những trường hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng không
đúng ý chí đích thực của chủ thể hoặc không có sự thống nhất giữa ý chí của chủ
thể với sự bày tỏ ý chí của chính chủ thể đó ra bên ngoài. Theo qui định của BLDS
2005, hợp đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu tố tự nguyện nếu thuộc một trong
năm trường hợp sau đây:


H ợp đồng giả tạo: là hợp đồng được lập ra nhưng không phản ánh đúng bản
chất của quan hệ đích thực giữa các bên, thể hiện ở việc các bên xác lập hợp
đồng để che đậy một giao dịch khác hay một hành vi trái pháp luật của một
hoặc các bên. Nói cách khác, hợp đồng giả tạo là hợp đồng “mà trong đó,
việc thể hiện ý chí ra bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện
của các bên tham gia”. Có hai dạng hợp đồng giả tạo là ‘hợp đồng giả cách’
và ‘hợp đồng tưởng tượng’. H ợp đồng giả cách là hợp đồng giả tạo do các
bên lập ra để che đậy một hợp đồng khác nhằm “lẩn tránh” pháp luật. Đặc
trưng cơ bản của hợp đồng giả cách thường là do có sự thông đồng giữa các
4








bên để lập cùng một lúc hai hợp đồng (giao dịch) khác nhau: một hợp đồng
(giao dịch) ‘thật’ và một hợp đồng (giao dịch) ‘giả’. Hợp đồng giả cách chỉ

là hình thức bên ngoài chứ không có giá trị đối với các bên. Hợp đồng thật
bị che giấu đi, nhưng đó mới là hợp đồng mà các bên muốn xác lập, thực
hiện. Hợp đồng giả cách thì đương nhiên vô hiệu. Hợp đồng thật có thể được
công nhận, nếu tuân thủ các điều kiện do pháp luật qui định.
H ợp đồng tưởng tượng là hợp đồng không có thật, do các bên thông đồng
lập ra nhằm để hợp thức hóa các thủ tục pháp lý còn thiếu sót, hoặc để che
đậy một sự thật khác trái pháp luật, hoặc trái đạo đức xã hội. Nói cách khác,
hợp đồng tưởng tượng là hợp đồng mang tính hình thức, chứ các bên hoàn
toàn không có ý định tạo lập nên sự ràng buộc pháp lý với nhau dựa trên nội
dung của hợp đồng đó.
Hợp đồng được xác lập do nhầm lẫn: Nhầm lẫn là “sự không trùng hợp ý chí
được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí”. Hay nói cụ
thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ thể, đối
tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý
nguyện đích thực của mình. Ví dụ: người mua bảo hiểm tưởng là khi mua
bảo hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro,
nhưng thực tế là điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một số loại
rủi ro sẽ không được bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợpđồng
vô hiệu do nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng. Hợp đồng bị nhầm lẫn về
nội dung có thể bị vô hiệu theo qui định tại Điều 131 BLDS 2005.
H ợp đồng xác lập do bị lừa dối: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của
một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ
thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác
lập giao dịch đó. Biểu hiện của sự lừa dối là hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật khiến cho bên kia tin vào các thông tin đó mà xác lập hợp đồng
bất lợi cho họ hoặc trái với nguyện vọng đích thực của họ. Pháp luật Việt
Nam qui định ba trường hợp lừa dối là lừa dối về chủ thể, lừa dối về đối
tượng và lừa dối về nội dung của hợpđồng. Khi xem xét hành vi lừa dối, tòa
án thường không chỉ dựa vào tính chất “cố ý” cung cấp thông sai sự thật của
một bên mà còn dựa vào hoàn cảnh cụ thể và khả năng nhận thức, hiểu biết

của bên kia so với một người có năng lực nhận thức bình thường. Vấn đề có
hay không có sự cố ý cung cấp thông tin sai sự thật cũng là vấn đề gây nhiều
tranh cãi. Một hành vi cung cấp thông tin sai sự thật được hiểu là một bên cố
ý nói cho bên kia biết những thông tin về chủ thể, đối tượng, nội dung của
hợp đồng mà những thông tin ấy là không đúng với thực tế khách quan,
nhưng mức độ sai biệt tới đâu là lừa dối, thì có nhiều cách hiểu.
H ợp đồng xác lập bởi sự đe dọa: Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của
một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch
5




4.

nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài
sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình. Sự đe dọa thường
được hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi bạo
lực vật chất hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm
mất khả năng kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích
thực của họ.
Xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được hành vi:
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời
điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu
cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Một người bình thường,
vào thời điểm giao kết hợp đồng, đã ở trong tình trạng bị bệnh tâm thần,
bệnh thần kinh tới mức không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình
hoặc đang sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến việc
mất khả năng nhận thức tạm thời… thì được xem là không tựnguyện xác lập,
giao kết hợp đồng.Vấn đề pháp lý đặt ra là người này phải chứng minh được

là vào lúc xác lập hợp đồng, họ đang ở trong tình trạng không có khả năng
nhận thức, điều khiển được hành vi của mình. Có th ể nói rằng, “tự nguyện
giao kết hợp đồng là yếu tố cơ bản để các bên xác lập quan hệ hợp đồng vì
bản chất của hợp đồng vốn là sự thống nhất ý chí của các bên thông qua sự
thỏa thuận tự do và tự nguyện. Do vậy, hợp đồng xác lập thiếu yếu tố tự
nguyện thì đương nhiên vô hiệu (nếu được xác lập do giả tạo) hoặc có thể bị
vô hiệu (trong cáctrường hợp còn lại). Tóm l ại, các yếu tố chủ thể, nội dung
và mục đích, sự tự nguyện của các bên là những yếu tố quan trọng góp phần
vào quá trình hình thành và tồn tại của hợp đồng. Năng lực hành vi của chủ
thể là yếu tố nhằm đảm bảo chủ thể có tư cách độc lập để tự mình xác lập,
thực hiện hợp đồng; nội dung và mục đích là những điều khoản, căn cứ để
thực hiện hợp đồng; tự nguyện là yếu tố đảm bảm cho hợp đồng được tạo ra
đúng ý chí đích thực của các bên. Bởi vậy, đây là ba yếu tố pháp lý quan
trọng được pháp luật qui định là điều kiện bắt buộc của mọi hợp đồng.

Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong
trường hợp pháp luật có qui định.

Hình thức là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng, có quan hệ biện chứng
với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, và là
phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên, cũng như để chứng minh sự tồn tại của
hợp đồng. Người ta sẽ không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu nó không được
thể hiện dưới một hình thức xác định.
6


4.1.

Khái niệm hình thức hợp đồng


Các yếu tố pháp lý cơ bản tạo nên hợp đồng chính là ý chí của chủ thể, sự biểu
hiện của ý chí đó ra bên ngoài và sự thống nhất giữa các yếu tố đó với nhau. Trong
đó, ý chí là cái bên trong, là nguyện vọng, là mong muốn chủ quan của chủ thể mà
không phải lúc nào người khác cũng có thể biết hay nhận thấy được. Bởi vậy, để có
thể đạt được sự thỏa thuận, tức là để các bên có thể biết được và chấp nhận ý chí
của nhau, chủ thể cần phải thể hiện ý chí đó ra bên ngoài dưới một hình thức khách
quan nhất định. Cũng như vậy, sự thống nhất ý chí của các bên và nội dung cụ thể
của các điều khoản thể hiện sự thống nhất ý chí đó cần phải được công bố ra bên
ngoài. Đó chính là hình thức thể hiện của hợp đồng.
Tóm lại, hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp đồng,
gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công bố ý chí của
các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng.
4.2.

Các hình thức hợp đồng theo qui định của pháp luật Việt Nam

Theo qui định của BLDS 2005, hợp đồng có thể được lập bằng một trong 3 hình
thức là “lời nói, văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể” (khoản 1 Điều 124 và
khoản 1 Điều 401) trừ những trường hợp pháp luật có qui định hình thức bắt buộc
thì phải tuân theo hình thức đó (khoản 2 Điều 124 và khoản 2 Điều 401).
4.2.1.

Hình thức bằng lời nói

Hợp đồng bằng lời nói là những hợp đồng được giao kết dưới hình thức ngôn ngữ
nói, bằng lời hay còn gọi là hợp đồng miệng. Theo đó, các bên giao kết hợp đồng
trao đổi với nhau bằng lời nói, trực tiếp hoặc thông qua điện thoại, điện đàm, gửi
thông điệp điện tử bằng âm thanh (tiếng nói)… để diễn đạt tư tưởng và ý muốn của
mình trong việc xác lập, giao kết hợp đồng. Trừ những loại hợp đồng pháp luật qui
định hình thức bắt buộc, các hợp đồng đều có thể được lập bằng lời nói. Tuy vậy,

để tránh trường hợp các bên liên quan phủ nhận sự tồn tại của hợp đồng, chỉ nên sử
dụng hình thức hợp đồng bằng lời nói để giao kết các hợp đồng có giá trị không
lớn, với những người thân quen có sự tin cậy lẫn nhau, hoặc những hợp đồng được
thực hiện và chấm dứt ngay lập tức, như hợp đồng mua bán tiêu dùng hàng ngày
(các hợp đồng bán lẻ), hợp đồng dịch vụ thông thường trong đời sống (vui chơi,
giải trí, sửa chữa nhỏ, vận chuyển nhanh như xe ôm, taxi…).

4.2.2.

Hình thức hợp đồng bằng văn bản V ăn bản

7


Đây là hình thức ngôn ngữ viết, được trình bày trên một chất liệu hữu hình nhằm
thể hiện một nội dung xác định mà người ta có thể đọc, lưu giữ và bảo đảm được
sự toàn vẹn nội dung đó. Khác với hợp đồng bằng lời nói vốn không để lại bằng
chứng (“khẩu thuyết vô bằng”), thì hợp đồng bằng văn bản đảm bảo sự thể hiện rõ
ràng ý chí các bên cũng như nội dung của từng điều khoản hợp đồng mà các bên
muốn cam kết. Ngoài ra, hợp đồng bằng văn bản cũng có thể trởthành bằng chứng
hữu hiệu khi các bên có sự tranh chấp, vì đây là hình thức có khả năng lưu giữ
được ở trạng thái gần như nguyên vẹn, trong một thời gian dài. Bởi vậy, các hợp
đồng quan trọng, hoặc có giá trị lớn, hoặc có nội dung phức tạp, hoặc có thời hạn
thực hiện lâu dài… thì thường được các bên chọn cách thể hiện bằng văn bản.
V ề nguyên tắc, việc chọn lựa hình thức nào để ký kết hợp đồng do các bên tham
gia hợp đồng quyết định trên cơ sở nguyên tắc tự do hợp đồng. Tuy vậy, để bảo vệ
trật tự công cộng hoặc vì lý do quản lý nhà nước, pháp luật thực định hiện hành
của Việt Nam có qui định về những hình thức bắt buộc mà hợp đồng phải tuân thủ.
Sau đây là những thể thức, thủ tục bắt buộc đối với một số loại hợp đồng chuyên
biệt:


-

-



Những loại hợp đồng bắt buộc phải được lập bằng văn bản
Các h ợp đồng dân sự thông dụng: hợp đồng mua bán tàisản thông qua đấu
giá, hợp đồng ủy quyền trong trường hợp pháp luật có qui định, hợp đồng
mua bán, hợp đồng trao đổi, hợp đồng tặng cho tài sản có đăng ký quyền sở
hữu, tàu thuyền không gắn động cơ có tải trọng toàn phần từ 1 tấn trở lên
hoặc có gắn động cơ từ 5 mã lực trở lên hoặc có sức chở từ 5 người trở
lên…
Các hợp đồng bảo đảm: BLDS 2005 qui định các hợp đồng: dùng một tài
sản để bảo đảm nhiều nghĩa vụ (Khoản 2 Điều 324), cầm cố tài sản (Điều
327), thế chấp tài sản (Điều 343), hoặc hợp đồng thế chấp tàu bay [145, Điều
32 ], tàu biển [22, Điều 32], đặt cọc (khoản 1 Điều 358), bảo lãnh (Điều 362)
phải được lập bằng văn bản…
Các lo ại hợp đồng khác: hợp đồng hợp tác và đầu tư, hợp đồng chuyển giao
quyền tác giả, hợp đồng chuyển giao quyền liên quan…
Những hợp đồng bắt buộc phải được lập thành văn bản có công chứng,
chứng thực, đăng ký hoặc xin phép

Ngoài việc bắt buộc hình thức hợp đồng bằng văn bản, pháp luật còn qui định một
số loại hợp đồng bắt buộc phải được lảm theo thủ tục đặc biệt, như phải lập thành
văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký hoặc xin phép. Khoản 2
Điều 401 BLDS 2005 qui định: “Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng
phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký
8



hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó...”. Các hình thức, thủ tục bắt
buộc gồm:
-

-



H ợp đồng lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Theo qui định
của BLDS 2005, các hợp đồng phải lập thành văn bản có công chứng, chứng
thực, bao gồm: hợp đồng hợp tác (Điều 111), hợp đồng mua bán nhà ở (Điều
450), trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;3 hợp đồng tặng cho bất
động sản hoặc động sản có đăng ký quyền sở hữu (Điều 466, Điều 467); các
hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công
chứng, trừ các hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa hộ gia đình, cá nhân
thì có thể lựa chọn lập theo thủ tục chứng nhận tại phòng côngchứng hoặc
chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất (khoản 2
Điều 689). Trên cơ sở đó, Luật Đất đai 2003 qui định các hợp đồng phải
công chứng, chứng thực và phải đăng ký gồm: hợp đồng chuyển đổi quyền
sử dụng đất (điểm b khoản 1 Điều 126), hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ([điểm b khoản 1 Điều 127), hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất
(điểm b khoản 1 Điều 128), hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất (điểm a
khoản 1 Điều 130), hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất (điểm a
khoản 1 Điều 131).
Những hợp đồng phải đăng ký hoặc xin phép, gồm: các giao dịch bảo đảm
qui định tại khoản 2 Điều 323 BLDS 2005 phải được đăng ký theo qui định
của pháp luật;4 hợp đồng cho thuê nhà, hợp đồng cho thuê, góp vốn, thế
chấp và bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển giao quyền sở

hữu công nghiệp, hợp đồng chuyển giao công nghệ….
Thông điệp dữ liệu

Đây là một dạng đặc biệt của hình thức bằng văn bản Ngoài hình th ức văn bản
truyền thống, pháp luật hiện hành Việt Nam cũng thừa nhận một thể thức tương
đương văn bản, đó là thông điệp dữ liệu. Các hợp đồng, giao dịch bằng hình thức
thông điệp dữ liệu được ghi nhận trong BLDS 2005 (khoản 1 Điều 124), LTM
2005 (khoản 15 Điều 3 & Điều 15). Các nội dung cụ thể được qui định trong Luật
Giao dịch điện tử 2005. Theo khoản 1 Điều 124 BLDS 2005, thì “Giao dịch dân sự
thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thôngđiệp dữ liệu được coi là giao
dịch bằng văn bản”. Theo qui định tại khoản 15 Điều 3 LTM 2005, thì “Các hình
thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ
liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”. Điều 15 LTM 2005 cũng
qui định nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt
động thương mại: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng
các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận
có giá trị pháp lý tương đương văn bản”.
9


4.2.3.

Hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ thể.

V ới ý nghĩa là phương tiện thể hiện chí của các bên hợp đồng, hình thức của hợp
đồng còn bao gồm cả việc biểu hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài bằng một hành
vi cụ thể - đó là hành động, là xử sự có ý thức của các bên. Hành vi cụ thể là một
hình thức thể hiện của hợp đồng, hiểu theo nghĩa hẹp. Bởi lẽ, việc tuyên bố ý chí
bằng lời nói hay bằng chữ viết, suy cho cùng, cũng đều bằng hành vi của con
người. Tuy vậy, hình thức hợp đồng bằng hành vicụ thể được nói đến trong trường

hợp này không phải được diễn đạt bằng lời nói hay chữ viết mà chỉ được thể hiện
bằng một hành động thuần túy. Thông thường, hình thức hợp đồng bằng hành vi cụ
thể được sử dụng khi bên thực hiện hành vi giao kết hợp đồng đã biết rõ nội dung
của hợp đồng và chấp nhận tất cả các điều kiện mà bên kia đưa ra, và bên kia
không loại trừ việc trả lời bằng hành vi, hoặc không đưa ra một yêu cầu rõ ràng về
hình thức của sự trả lời chấp nhận. Hình th ức hợp đồng bằng hành vi cụ thể được
thể hiện ra bên ngoài khá đa dạng. Hành vi cụ thể thường được sử dụng để xác lập
các hợp đồng thông dụng, được thực hiện ngay, và trở thành thói quen phổ biến
của lĩnh vực hoạt động liên quan, tại nơi giao dịch được xác lập. Ví dụ: hành vi
mua báo hay mua vé số của người bán “dạo” hay mua hàng của người bán hàng
“rong”, hành vi mua hàng trong các quán ăn tự phục vụ, với món ăn tự chọn được
làm sẵn… Trong những trường hợp này, bên có hành vi xác lập hợp đồng đã hiểu
rõ nội dung và các điều kiện của hợp đồng, còn bên kia cũng chấp nhận cách thức
giao dịch bằng hành vi cụ thể đó. Hình th ức hợp đồng bằng hành vi cụ thể cũng
được sử dụng phổ biến trong các hoạt động dịch vụ dành cho số đông đại chúng
mà bên cung cấp dịch vụ đã có qui chế hoạt động rõ ràng đã được công bố, hoặc
giữa các bên đã có sự thỏa thuận về việc một bên chấp nhận hành vi cụ thể của bên
kia như là một hình thức giao kết, thực hiện hợp đồng theo những qui ước, những
điều kiện về pháp lý và kỹ thuật mà các bên đã cam kết chấp nhận. Ví dụ: hành vi
lựa chọn hàng hóa và thanh toán tiền khi mua hàng tại siêu thị, hay mua hàng qua
máy bán hàng tự động, mua vé trên xe buýt bằng máy bán vé tự động, gọi điện
thoại công cộng thanh toán bằng thẻ...
III.

Mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp
đồng

Xét riêng mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng, thì hình
thức của hợp đồng có ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng trên ba phương diện
sau:

1.

Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, nếu
pháp luật có qui định
10


M ột trong những ảnh hưởng quan trọng của hình thức đối với hiệu lực hợp đồng là
việc xem hình thức hợp đồng là một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng,
nếu pháp luật có qui định. Theo đó, hình thức không phải là điều kiện có hiệu lực
đương nhiên của hợp đồng, mà chỉ là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi pháp
luật qui định. Trong trường hợp đó, để được coi là hợp đồng hợp pháp và phát sinh
hiệu lực, thì hợp đồng phải được lập tuân thủ các điều kiện luật định, trong đó phải
tuân thủ đúng qui định về hình thức hợp đồng. Khi pháp lu ật qui định hợp đồng
phải được lập theo một hình thức xác định thì các bên phải tuân thủ. Nếu hợp đồng
không được lập đúng hình thức luật định, thì hợp đồng đó bị coi là vi phạm “điều
kiện” về hình thức. Hậu quả pháp lý của hợp đồng bị vi phạm về hình thức là hợp
đồng đó chưa được coi là hợp pháp và có hiệu lực. Ví dụ: pháp luật qui định hợp
đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có công chứng hoặc
chứng thực. Do đó, về nguyên tắc, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất chưa được
lập đúng hình thức do pháp luật qui định thì chưa cóhiệu lực. Nhưng hợp đồng bị
vi phạm về hình thức thì cũng không đương nhiên vô hiệu. Khi đó, các bên có thể
yêu cầu tòa án, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định buộc các bên
thực hiện đúng hình thức trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện
thì tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng
vô hiệu theo qui định pháp luật: các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận, nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền..., bên nào có lỗi
làm cho hợp đồng vô hiệu thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia theo mức độ lỗi
của mình. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án, cơ quan có thẩm quyền khác xem
xét hiệu lực của hợp đồng bị vi phạm hình thức là hai năm, tính từ thời điểm xác

lập hợp đồng
2.

Hình thức hợp đồng là cơ sở để xác định thời điểm có hiệu lực
của hợp đồng

Cũng vì bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận tự nguyện và sự gặp gỡ ý chí của
các bên, nên khi các bên thỏa thuận xong nội dung của hợp đồng thì hợp đồng
được thiết lập. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc “thể hiện ý chí”, chỉ khi chủ thể
bày tỏ ý chí ra bên ngoài bằng một hình thức khách quan nhất định, thì đó mới
được coi là quyết định cuối cùng. Đối với các loại hợp đồng có liên quan đến các
tài sản quan trọng hoặc liên quan tới trật tự công cộng, pháp luật thường qui định
hợp đồng phải được lập dưới một hình thức trọng thể, như văn bản, văn bản công
chứng, chứng thực, đăng ký. Đồng thời với qui định bắt buộc về hình thức thể
hiện, pháp luật cũng qui định thời điểm giao kết hoặc thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng dựa trên sự thể hiện ý chí hoàn tất ở một mức độ nhất định, thể hiện qua
các hình thức công bố ý chí bằng những biểu hiện cụ thể của hình thức hợp đồng.

11


3.

Hợp đồng được công chứng, chứng thực, hoặc đăng ký thì có
giá trị pháp lý ‘đối kháng’ với người thứ ba

V ề nguyên tắc, hợp đồng được lập bằng văn bản không có công chứng, chứng
thực thì không có giá trị đối kháng với người thứ ba, vì các bên có thể thông đồng
để lập hợp đồng giả tạo nhằm “lẩn tránh” pháp luật, hoặc để “qua mặt” người thứ
ba. Trên cơ sở bảo vệ người thứ ba ngay tình và lợi ích của xã hội, phòng ngừa các

trường hợp lừa đảo, tẩu tán tài sản, để hợp đồng có giá trị đối kháng với người thứ
ba, nhà làm luật qui định một số hợp đồng phải tuân theo những hình thức, thủ tục
nhất định: công chứng, chứng thực hoặc đăng ký. Các hợp đồng được lập theo thủ
tục chứng thực, công chứng, đăng ký thường có giá trị tin cậy cao và an toàn pháp
lý.
Như vậy, để được người thứ ba thừa nhận và tôn trọng giá trị pháp lý, các giao dịch
bảo đảm phải được lập thành văn bản và phải được đăng ký, nếu pháp luật có qui
định. Thông qua việc đăng ký, các bên trong hợp đồng đã thông tin cho người thứ
ba biết về tài sản dùng làm đối tượng bảo đảm đã được sử dụng vào việc bảo đảm.
Mọi giao dịch về tài sản đó sau thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm đều không có
giá trị pháp lý, hoặc có thứ tự ưu tiên kém hơn so với bên đã đăng ký giao dịch bảo
đảm trước đó.
IV.

Một số hạn chế trong các qui định về điều kiện có hiệu
của hợp đồng dân sự và giải pháp hoàn thiện

Theo qui định tại điều 122 BLDS:
“Đ iều 122.Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi cóđủ cácđiều kiện sauđây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mụcđích và nội dung của giao dịch không vi phạmđiều cấm của pháp luật,
không tráiđạođức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự làđiều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quyđịnh.”

12



Một là, cần quy định cụ thể về khái niệm “người tham gia GDDS”
Theo quy định tại Khoản 1 (a), Điều 122 BLDS 2005, điều kiện đầu tiên để xác
định một GDDS có hiệu lực đó là “Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi
dân sự”. Để xác định rõ nội hàm của quy định này, khái niệm “người tham gia giao
dịch” cần phải được làm rõ. Tuy nhiên, trong nội dung các quy phạm pháp luật
hiện nay chưa có bất cứ một định nghĩa nào về “người tham gia giao dịch”. Vì vậy,
khi mà chưa có một định nghĩa chính thống, khái niệm này có thể được hiểu theo
nhiều cách khác nhau. Theo cách hiểu phổ biến hiện nay, “người tham gia giao
dịch” bao gồm hai chủ thể: chủ thể hợp đồng và người ký kết hợp đồng. Điều đó
có nghĩa là, để một GDDS có hiệu lực, trước hết người tham gia giao dịch (chủ thể
hợp đồng và người đại diện ký kết hợp đồng (nếu có) phải có năng lực hành vi
(NLHV) tham gia từng GDDS cụ thể. Tuy nhiên, khi giao dịch của người không có
NLHV hoặc bị mất NLHV được xác lập thông qua người đại diện, thì cách hiểu về
người tham gia giao dịch như trên lại gặp một số trở ngại.
Để giải quyết vấn đề này, BLDS 2005 nên bổ sung nội dung để giải thích rõ khái
niệm “người tham gia giao dịch” có tính đến đặc thù trong các GDDS của người
không có NLHV và người bị mất NLHV như đã phân tích ở trên. Có như vậy, mới
tạo ra cách hiểu thống nhất và điều kiện thuận lợi cho các chủ thể bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng của mình, hạn chế tối đa sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp
luật.
Hai là, cần phải xác định rõ ranh giới của sự “tự nguyện” và “mất tự nguyện”
trong quy định về điều kiện “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”
Khái niệm “tự nguyện” được đưa ra ở đây rất mơ hồ, chung chung, gây khó khăn
và tùy tiện trong quá trình áp dụng luật. Chẳng hạn, việc tham gia giao dịch của
một bên không có lợi thế về sức mạnh thị trường do sức ép của một bên có vị thế
mạnh trên thị trường, hay giao dịch giữa một bên là cấp dưới trực tiếp buộc phải
tham gia giao dịch vì sợ “uy thế” của cấp trên có bị coi là không đáp ứng điều kiện
“hoàn toàn tự nguyện” theo quy định của Điều 122 vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ.
Việc một bên chủ thể dùng lợi thế thị trường, quyền lực thương mại để ép buộc
một hoặc các bên chủ thể khác tham gia và thực hiện GDDS rất có thể được ngụy

biện là sự thỏa thuận, thương lượng, đánh đổi lợi ích giữa các bên. Ở cấp độ mất tự
nguyện nghiêm trọng, có thể nhận biết dễ dàng như việc một bên chủ thể dùng vũ
lực, đe dọa dùng vũ lực với bên kia nhằm đạt mục đích trong GDDS thì đương
nhiên giao dịch này sẽ vô hiệu và chủ thể thực hiện hành vi ép buộc có thể sẽ phải
chịu trách nhiệm hành chính hoặc hình sự. Ở cấp độ dân sự và thương mại, do có
13


sự giao thoa, khó phân biệt giữa ép buộc và thỏa thuận cho nên rất cần phải có một
khái niệm để chỉ ra những dấu hiệu của sự ép buộc, mất tự nguyện khi các bên chủ
thể thực hiện một GDDS.
Vì vậy, để giải quyết vấn đề này, BLDS 2005 cần phải quy định một tiêu chí để xác
định giới hạn cụ thể của sự tự nguyện và mất tự nguyện khi các chủ thể tham gia
vào một GDDS.
Ba là, sửa đổi điều kiện về hình thức GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao
dịch
Quy định này hiện nay đang gây nhiều tranh cãi và thực tế không bảo vệ được lợi
ích hợp pháp của những người ngay tình, đôi khi tạo ra kẽ hở cho một số đối tượng
lợi dụng để yêu cầu tuyên bố GDDS vô hiệu nhằm phục vụ các lợi ích, mục đích cá
nhân một bên chủ thể.
Theo quy định tại Điều 134 BLDS 2005 “Trong trường hợp pháp luật quy định
hình thức GDDS là điều kiện có hiệu lực của giao dịch mà các bên không tuân theo
thì theo yêu cầu của một hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong
một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu”. Theo
chúng tôi, quy định này trên thực tế chỉ có ý nghĩa trong trường hợp cả hai bên chủ
thể của giao dịch đều có thiện chí mong muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng. Tuy
nhiên, trường hợp này hầu như khó có thể xảy ra, bởi việc tuyên bố vô hiệu là do
yêu cầu của một trong các bên, do đó, khi họ đã nộp đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu
có nghĩa là họ mong muốn hợp đồng đó không được tiếp tục thực hiện nữa. Chẳng

hạn, khi giao dịch có đối tượng là bất động sản, theo quy định của pháp luật Việt
Nam thì cần phải bằng văn bản có chứng nhận, chứng thực của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, nếu các bên thiết lập hợp đồng mua bán bằng giấy viết tay chưa có
công chứng, chứng thực, rõ ràng đã vi phạm về mặt hình thức. Thông thường đối
với bất động sản khi thấy giá trị tài sản tăng cao, bên bán thường là bên mong
muốn hợp đồng đó bị vô hiệu để được lấy lại tài sản thực tế mình đã bán, do vậy,
họ thường lợi dụng việc vi phạm về mặt hình thức để yêu cầu Tòa án tuyên bố vô
hiệu và họ sẽ không hợp tác với bên mua để cùng ra công chứng chứng thực bản
hợp đồng theo yêu cầu của Tòa án. Hậu quả là việc yêu cầu hoàn thiện về mặt hình
thức của Tòa án sẽ không có giá trị và sẽ tạo cơ hội cho bên có hành vi làm lợi bất
chính do muốn lấy lại tài sản thực tế đã bán khi giá trị của tài sản tăng cao. Chính
vì vậy, theo chúng tôi, để ngăn chặn hiện tượng này, cần phải yêu cầu các bên hoàn
thiện về mặt hình thức, nếu họ vẫn cố tình không tuân thủ thì cần phải coi là giao
dịch đó có hiệu lực. Bên cạnh đó, để đảm bảo các bên có thái độ nghiêm túc tuân
thủ hình thức khi ký kết hợp đồng, pháp luật cũng nên có chế tài về mặt hành chính
14


đối với các bên (chẳng hạn phạt tiền) đối với trường hợp không tuân thủ về mặt
hình thức.
Bốn là, cần sửa đổi nội dung khái niệm “đe dọa” trong GDDS bị coi là vô hiệu
do bị đe dọa.
Theo quy định tại Điều 132 “Khi một bên tham gia GDDS do bị lừa dối hoặc bị đe
dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố GDDS đó là vô hiệu”. Theo đó, khái
niệm “đe dọa” được hiểu là “hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình”.
Với quy định này, BLDS 2005 đã giới hạn chủ thể bị tác động do hành vi đe dọa
của bên kia làngười tham gia giao dịch hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của

người tham gia giao dịch. Theo chúng tôi, quy định như trên chưa bao quát, bởi lẽ
trên thực tế, không phải chỉ có những đối tượng như cha, mẹ, vợ, chồng, con hoặc
bản thân bị đe dọa xâm hại về tính mạng, sức khỏe… mới làm ảnh hưởng đến
quyết định giao kết hợp đồng của một bên, có những trường hợp mặc dù không có
quan hệ như trên, nhưng có mối quan hệ đủ để họ phải hy sinh quyền lợi riêng để
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của người khác
vẫn có khả năng tác động một cách trực tiếp, thông qua đó ép buộc họ phải tham
gia giao dịch. Việc giới hạn về đối tượng có khả năng bị xâm hại như trên là chưa
bao quát, chưa phản ánh được đúng thực tế các mối quan hệ đa dạng trong đời
sống xã hội. Do vậy, theo chúng tôi, cần phải quy định theo hướng xem xét khả
năng tác động của sự đe dọa đó đến chủ thể tham gia giao dịch mà không nên liệt
kê các đối tượng bị đe dọa phải gánh chịu thiệt hại như quy định trong Điều 132,
BLDS 2005 hiện nay.

Năm là, nên sửa đổi điều kiện mục đích và nội dung của giao dịch “không trái
đạo đức xã hội” thành “không xâm phạm trật tự công cộng”.
Theo quy định tại Khoản 1 (b) Điều 122, GDDS phải đáp ứng điều kiện “mục đích
và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội”. Tuy nhiên, khái niệm đạo đức xã hội mặc dù đã được định nghĩa ở
Điều 128 “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng” nhưng vẫn
15


còn rất mơ hồ và thiếu tính cụ thể. Vấn đề xác định thế nào là chuẩn mực đạo đức
trong thực tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố và quan điểm của mỗi cá nhân, mỗi cộng
đồng và thậm chí ở mỗi giai đoạn có thể có cách hiểu khác nhau. Có thể thấy, mục
đích của quy định này là để bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch,
quyền và lợi ích hợp pháp của những người liên quan cũng như lợi ích chung của
xã hội. Theo chúng tôi, nên sửa đổi nội dung này theo hướng thay cụm từ “không

trái đạo đức xã hội” thành “không xâm phạm trật tự công cộng”. Cách quy định
này phù hợp với thông lệ quốc tế (pháp luật của Pháp, Nhật Bản đã quy định rất cụ
thể về điều kiện này), vừa dễ dàng chứng minh hơn so với việc quy về chuẩn mực
đạo đức để xác định một giao dịch có vô hiệu do vi phạm về mặt đạo đức hay
không mà vẫn đạt được mục đích của pháp luật trong việc bảo vệ lợi ích chung của
xã hội.
Sáu là, nên loại bỏ quy định tại Điều 127 BLDS 2005
Theo quy định tại Điều 127 BLDS 2005 “GDDS không có một trong các điều kiện
được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”. Theo chúng tôi, quy định
này là không hợp lý bởi lẽ ngoài trường hợp vô hiệu do vi phạm Điều 122 như
trên, BLDS 2005 còn có các điều khoản cụ thể nêu các trường hợp GDDS vô hiệu
như Điều 128 (GDDS vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội), Điều 129 (GDDS vô hiệu do giả tạo), Điều 130 (GDDS vô hiệu do người
chưa thành niên, người mất NLHV dân sự, người bị hạn chế NLHV dân sự xác lập,
thực hiện), Điều 131 (GDDS vô hiệu do bị nhầm lẫn), Điều 132 (GDDS vô hiệu do
bị lừa dối, đe dọa), Điều 133 (GDDS vô hiệu do người xác lập không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình), Điều 134 (GDDS vô hiệu do không tuân thủ quy
định về hình thức). Bên cạnh đó, BLDS 2005 cũng quy định một số trường hợp vô
hiệu vì những lý do khác không thuộc các trường hợp nêu tại Điều 122 và Điều
128-134. Cụ thể, Điều 411 BLDS 2005 quy định, đối với GDDS là hợp đồng “nếu
ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách
quan thì hợp đồng này bị vô hiệu”. Chẳng hạn, A và B ký kết hợp đồng xây dựng,
theo đó, B phải xây cho A hoàn chỉnh khu chung cư 50 tầng, với 500 căn hộ trong
thời gian là 12 tiếng thì đối tượng của hợp đồng là công việc không thể thực hiện
được, do vậy sẽ vô hiệu theo quy định tại Điều 411. Hoặc theo quy định tại Khoản
3, Điều 69 BLDS 2005 quy định “Các GDDS giữa người giám hộ với người được
giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường
hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý
của người giám sát việc giám hộ”. Chẳng hạn, hợp đồng giữa A (là người bị mất
NLHV dân sự) và B (người giám hộ của A) về việc bán ngôi nhà do A được thừa

kế cho B sẽ bị coi là vô hiệu nếu B không chứng minh được giao dịch đó được
16


thực hiện vì lợi ích của A (chẳng hạn để có tiền chữa bệnh cho A) và giao dịch đó
có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Thực chất, những trường hợp vô hiệu quy định tại các điều từ 128-134 là sự cụ thể
hóa một số trường hợp vô hiệu do không tuân thủ các điều kiện như quy định tại
Điều 122 BLDS 2005. Tuy nhiên, sự tồn tại của Điều 127 với nội dung như đã
trình bày ở trên đã rơi vào tình trạng vừa thừa (không cần thiết phải có quy định
“thiếu một trong các điều kiện ở Điều 122 là vô hiệu” vì chính nội dung Khoản 1,
Điều 122 khi quy định “GDDS có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: …” đã
chứa đựng nội hàm đó rồi), vừa thiếu (vì ngoài các trường hợp vô hiệu do vi phạm
các điều kiện có hiệu lực mang tính nguyên tắc chung ở Điều 122, còn có các
trường hợp được liệt kê cụ thể ở Điều 128 -134 và một số trường hợp ngoại lệ quy
định tại Điều 69 và Điều 411 BLDS 2005. Do vậy, theo chúng tôi nên loại bỏ quy
định tại Điều 127 nhằm tránh sự bất hợp lý và thiếu sự thống nhất trong nội dung
các quy định luật.

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng vào các thể chế kinh
tế quốc tế đòi hỏi cần phải có sự cải cách thích ứng hệ thống pháp luật, đặc biệt là
pháp luật về hợp đồng, theo hướng tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong
pháp luật hợp đồng của các nước và của các Bộ nguyên tắc hợp đồng quốc tế, làm
cho pháp luật hợp đồng Việt Nam ngày càng hoàn thiện và có sự tương đồng hơn
so với pháp luật của các quốc gia trên thế giới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Bộ luật dân sự nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 2005
17


2.

Giáo trình Luật Dân Sự Việt Nam tập 2, trường đại học Luật Hà Nội, nxb
Công an nhân dân 01/2006

3.

Ths. Bùi Thị Thanh Hằng– Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Chế định
Hợp đồng dân sự vô hiệu trước yêu cầu sửa đổi, bổ sung BLDS 2005

4. Ths. Nguyễn Thị Tình – Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học
Thương mại, điều kiện có hiệu lực của giao dich dân sựĐIỀU KIỆN theo
qui định của bộ luật dân sự 2005

5. Các trang web:










PHỤ LỤC

A.
B.

Đặt vấn đề……………………………………………………………………1
Giải quyết vấn đề…………………………………………………………….1
18


I.
1.
2.
II.
1.
2.
3.
4.
III.
1.
2.
3.
IV.
C.

Khái niệm hợp đồng dân sự……………………………………………...1
Hợp đồng dân sự…………………………………………………………….1
Đặc điểm hợp đồng dân sự…………………………………………………..1
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự…………………………..…2
Chủ thể tham gia phải có năng lực hành vi dân sự………………………..…2
Nội dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm diều cấm của xã hội và
không vi phạm đạo đức xã hội………………………………………………3

Các bên hoàn toàn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng……….4
Hình thức hợp đồng – điều kiện có hiệu lực của hợp đồng trong trường hợp
pháp luật có qui định………………………………………………………..7
Mối quan hệ giữa hình thức hợp đồng với hiệu lực hợp đồng………….11
Hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng nếu pháp luật có
qui định……………………………………………………………………..11
Hình thức hợp đồng là cơ sở để xác định
thời điểm có hiệu lực của hợp đồng……………………………………….11
Hợp đồng được công chứng, chứng thực, hoặc đăng ký thì có giá trị pháp lý
‘đối kháng’ với người thứ ba………………………………………………12
Một số hạn chế trong các qui định về điều kiện có hiệu của hợp đồng dân
sự và giải pháp hoàn thiện………………………………………………12
Kết luận……………………………………………………………………17

19



×