Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Luật Hiến Pháp Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.34 KB, 22 trang )

Luật Hiến Pháp Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU

Một trong những đặc trưng của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Bản thân chế định Hội thẩm là sự
thể hiện tư tưởng ” lấy dân làm gốc”, bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của
nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là cơ quan quyền lực của Nhà
nước, Nhà nước thông qua Tòa án để thực hiện quyền lực tư pháp của mình. Chính
bằng hoạt động xét xử, Tòa án giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực

tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác
quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng.

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 1


Luật Hiến Pháp Việt Nam
Tại Điều 129 Hiến pháp 1992 quy định: ” Việc xét xử của Tòa án nhân dân
có Hội thẩm nhân dân, của Tòa án Quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo
quy định của pháp luật. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Như
vậy, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm
ngang quyền với Thẩm phán là một nguyên tắc Hiến định, nhưng tham gia cụ thể
như thế nào lại do Luật tố tụng Hình sự, Dân sự… quy định. Vì là một nguyên tắc
Hiến định nên nếu việc xét xử của Tòa án nhân dân mà không có Hội thẩm nhân
dân tham gia thì sẽ không chỉ là vi phạm Luật tố tụng mà còn là vi phạm Hiến
pháp. Nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong xét xử, bởi việc tham gia


của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng Pháp luật mà còn phù hợp
với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm có đời sống chung trong cộng đồng,
trong tập thể lao động, nên Hội thẩm hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng của quần
chúng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội
thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ
quan, đơn vị, cơ sở của mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc
sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho
Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một
phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ. Tại Hội nghị học tập của
ngành cán bộ Tư pháp năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Trong công tác
xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ
giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp
dân, học dân…”. Muốn đưa ra phán quyết đúng, giải quyết các tranh chấp đúng
pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi
những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình
độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng. Ngoài ra, để Hội đồng xét xủ có phán
quyết đúng đắn,đòi hỏi họ cũng phải có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có
kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 2


Luật Hiến Pháp Việt Nam
nhân dân tham gia là sự bổ sung cần thiết cho những lĩnh vực đó. Hơn nữa, Hội
thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm
có thể phản ánh một cách khách quan cách nhìn nhận về sự kiện, vụ việc từ suy
nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia
thuần túy.
Chúng xin chân thành cảm ơn.


Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 3


Luật Hiến Pháp Việt Nam
CHƯƠNG I: QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH TOÀ
ÁN NHÂN DÂN
Từ năm 1930 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách
mạng lâu dài, đầy gian khổ hy sinh, làm cách mạng tháng Tám thành công. Ngày
2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập. Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu á ra đời. Cách
mạng tháng Tám thành công “đã xoá bỏ chính quyền nhà nước thực dân phong
kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (ngày nay là Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam) là nhà nước độc lập, dân chủ thực sự của nhân dân, mở ra
một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của nước ta. Thắng lợi của cách mạng
tháng Tám là thành công rực rỡ của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc vô cùng anh
dũng gần một trăm năm của nhân dân ta. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê
Nin ở Việt Nam, là thắng lợi của đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ đúng đắn
do Đảng ta vạch ra và lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện”. “Giành được chính
quyền đã khó, nhưng giữ chính quyền lại càng khó hơn”. Xuất phát từ luận điểm
nổi tiếng này của Lê Nin, Đảng và Nhà nước ta đã có những sách lược đúng đắn
nhằm giữ vững chính quyền non trẻ vừa mới được thành lập, đang đứng trước
những thử thách và khó khăn tưởng chừng khó vượt qua, đó là: nguy cơ ngoại xâm
tiếp tục đe doạ; bọn phản động trong nước lợi dụng lúc quân đồng minh sắp vào
Đông Dương, tìm cách ngóc đầu dậy chống phá cách mạng; nền tài chính của nước
nhà kiệt quệ; nhân dân có tới 95% mù chữ, lại vừa trải qua nạn đói khủng khiếp
năm 1945. Để giữ vững chính quyền, không có cách nào khác là phải có ngay các

biện pháp cần thiết để vừa xây dựng, vừa củng cố bộ máy nhà nước trong đó có
Toà án nhân dân. V.I Lê Nin cho rằng dưới chế độ thực dân phong kiến, xã hội tư
bản “nền tư pháp chủ yếu là một bộ máy đàn áp, một bộ máy bóc lột tư sản. Vì vậy,
nhiệm vụ tuyệt đối của cách mạng vô sản không phải là cải cách các chế định tư
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 4


Luật Hiến Pháp Việt Nam
pháp... mà là huỷ bỏ hoàn toàn, phá huỷ đến tận gốc rễ nền tư pháp cũ và bộ máy
của nó...”. Về Toà án đó chỉ là “... một công cụ mù quáng và tinh vi dùng để áp bức
một cách không thương xót những người bị bóc lột, một công cụ bảo vệ quyền lợi
của cái túi bạc...”. Chính vì vậy sau khi cách mạng tháng Tám thành công chúng ta
khẩn trương phá huỷ đến tận gốc rễ bộ máy hành chính quan liêu, bộ máy tư pháp,
quân đội nhà nghề, nhà tù và trại tập trung của chế độ thực dân phong kiến, thải hồi
bọn tổng lý, quan lại, mật thám. Trong mấy ngày đầu tháng 9 năm 1945 Chủ tịch
Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra nhiều sắc lệnh về vấn đề
này. Đó là, Sắc lệnh số 8 ngày 5-9-1945 giải tán “Đại Việt Quốc gia xã hội đảng”
và “Đại Việt Quốc dân đảng”; Sắc lệnh số 18 ngày 8-9-1945 bãi bỏ ngạch học
quan; Sắc lệnh số 32 ngày 13-9-1945 bãi bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư
pháp v.v.. Song song với việc phá huỷ đến tận gốc rễ bộ máy nhà nước của chế độ
thực dân phong kiến, chúng ta cũng phải khẩn trương bắt tay xây dựng bộ máy nhà
nước cách mạng, nhằm đè bẹp sức phản kháng của bọn thực dân phong kiến đã bị
lật đổ, củng cố thành quả của cách mạng, xây dựng một nhà nước của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Toà án nhân dân là một trong những bộ phận của bộ máy
nhà nước, là một trong những công cụ đắc lực của chuyên chính vô sản, được giao
nhiệm vụ thực hiện quyền xét xử, vì vậy việc sớm thành lập Toà án nhân dân để
thực hiện nhiệm vụ này, đặc biệt là trong những ngày đầu trứng nước của Nhà
nước cách mạng non trẻ là rất cần thiết. Do nhận định và đánh giá đúng, ngày 139-1945 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra Sắc lệnh

thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời của Toà án nhân dân ở nước ta.
Từ đó đến nay, ngành Toà án nhân dân nước ta đã trải qua những bước phát
triển khác nhau, phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng
các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử.

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 5


Luật Hiến Pháp Việt Nam
CHƯƠNG II: NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA

ÁN NHÂN DÂN

4.1. Thực hiện chế độ bầu nhiệm thẩm phán , chế độ bầu cử Hội thẩm
nhân dân và cử Hội thẩm nhân dân.
4.1.1 Thực hiện chế độ bổ nhiệm thẩm phán
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miểm
nhiệm, cách chức theo đề nghị của hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao.
Thẩm phán tòa án nhân dân cấp tỉnh , Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp
huyện do chánh án hân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp huyện.
Thẩm phán Tòa án quân sự cấp Quân khu, Tòa án quân sự cấp khu vực do
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm,miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán Tòa
án quân sự khu vực.
Với quy định này của Hiến pháp, Luật tổ chức Tòa án nhân dân đã quy định

tại khoản 3, điều 40 là: “Thẩm phán các Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án quân
sự quân khu và tương đương, Tòa án quân sự khu vực do Chánh án Tòa án nhân
dân Tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Hội đồng tuyển
chọn Thẩm phán”. Như vậy theo quy định trên thì Chánh án Tòa án nhân dân Tối
cao chỉ có thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương.
Điều 31
1. Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án Toà án
quân sự trung ương do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề
nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 6


Luật Hiến Pháp Việt Nam
2. Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương do Chánh án Toà án
nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Thường
trực Hội đồng nhân dân địa phương cùng cấp.
3. Chánh án, Phó Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu, Toà án quân sự
khu vực do Chánh án Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
4. Trước khi đề nghị Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao cách
chức các chức vụ Chánh án, Phó Chánh án theo quy định tại khoản 1, khoản 2 hoặc
khoản 3 của Điều này, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp có thể bị cách
chức chức danh Thẩm phán thì phải có ý kiến của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
có thẩm quyền tuyển chọn Thẩm phán đó.
5. Nhiệm kỳ của Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Chánh án,
Phó Chánh án Toà án nhân dân địa phương, Toà án quân sự là năm năm, kể từ ngày
được bổ nhiệm.
Nhiệm kì của Thẩm phán là 5 năm, kể từ ngày được bổ nhiệm

4.1.2 Thực hiện, chế độ bầu Hội thẩm nhân dân và cử Hội thẩm quân nhân
Điều 38 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân
Điều 38
1. Hội thẩm nhân dân Toà án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân
cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp
và do Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh
án Toà án nhân dân cùng cấp sau khi thống nhất với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam cùng cấp.
2. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự cấp quân khu do Chủ nhiệm Tổng
cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam cử theo sự giới thiệu của cơ quan chính
trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương và do Chủ
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 7


Luật Hiến Pháp Việt Nam
nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam miễn nhiệm, bãi nhiệm
theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu sau khi thống nhất với cơ
quan chính trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương.
3. Hội thẩm quân nhân Toà án quân sự khu vực do Chủ nhiệm chính trị
quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương cử theo sự giới
thiệu của cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương và do Chủ nhiệm chính
trị quân khu, quân đoàn, quân chủng, tổng cục hoặc cấp tương đương miễn nhiệm,
bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Toà án quân sự khu vực sau khi thống nhất
với cơ quan chính trị sư đoàn hoặc cấp tương đương.

Nhiệm kì của hội thẩm quân nhân là 5 năm,kể từ ngày được cử
4.2. Nguyên tắc việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội Thẩm nhân dân
tham gia

Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm
nhân dân tham gia mà còn quy định khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm
phán, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề
của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng. Mặc dù Hội thẩm không phải
là cán bộ trong biên chế Tòa án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt
động xét xử của Tòa án, nhưng khi tham gia xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với
Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết
định giải quyết vụ án. Đây là điều quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự pháp
huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân của mình.

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 8


Luật Hiến Pháp Việt Nam
4.3. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật

Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa, nhằm đảm bảo tính khách quan trong quá trình xét xử để áp dụng
thống nhất pháp luật ở tất cả các Tòa án. Nguyên tắc này đòi hỏi:
-

Khi xét xử, các Thẩm phán và Hội thẩm trên cở sở nghiên cứu hồ sơ
vụ án để xác định chứng cứ, quy phạm pháp luật cần áp dụng để có
quyết định cụ thể cho phù hợp, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan
của bất cứ cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào.


-

Khi xét xử các thành viên trong Hội đồng xét xử cũng độc lập với
nhau trong việc xác định chứng cứ, phân tích, lựa chọn quy phạm pháp
luật phù hợp để áp dụng.

-

Giữa các Tòa án cũng độc lập với nhau khi xét xử theo các thủ tục
sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Các Hội đồng xét xử
phải tự mình xác định lại chứng cứ, quy phạm pháp luật phù hợp để áp
dụng chứ không phải chịu ảnh hưởng của các quyết định, bản án của Tòa
án đã xét xử trước đó.

-

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm phải tuân thủ pháp luật, phải
dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án chứ không
được tùy tiện, chủ quan trong việc áp dụng pháp luật.

-

Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không bị ràng buộc bởi kết luận
của Viện kiểm sát, không bị chi phối bởi ý kiến của nhau. Thẩm phán,
Hội thẩm phải chịu trách nhiệm đối với ý kiến của mình về từng vấn đề
của vụ án.
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 9



Luật Hiến Pháp Việt Nam
Thẩm phán và Hội thẩm độc lập cũng có nghĩa là không một cơ
quan, tổ chức hoặc cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào hoạt
động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
4.4. Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số:
Hội đồng xét xử các vụ án phải có ít nhất là 3 người do Chánh án Tòa án
quyết định. Trong hội đồng xét xử có một thẩm phán được Chánh án cử làm chủ
tọa phiên tòa. Các bản án, quyết định của Tòa án phải được đa số các thành viên
của Hội đồng xét xử biểu quyết tán thành.
Tòa án xét xử tập thể có nghĩa là việc xét xử bất cứ một vu án nào, trình tự
nào cũng do một Hội đồng thực hiện. Thành phần hội đồng xét xử ở mỗi cấp xét
xử đối với từng loại vụ án được qui định tại các điều tương ứng của Luật Tố tụng,
cụ thể như sau:
Đối với vụ án Hình sự:
+Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm;
+ Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm;
+ Thành phần Hội đồng Giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đối với vụ án Dân sự (các vụ tranh chấp về Dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động):
+ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm
+ Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm
+ Thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.
Đối với vụ án hành chính:
+ Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm;
+ Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm;
+ Thành phần Hội đồng Giám đốc thẩm, tái thẩm

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D


Trang 10


Luật Hiến Pháp Việt Nam
Hội đồng xét xử chia thành 2 cấp xét xử: xét xử sơ thấm là 1 trong những
giai đoạn tố tụng của vụ án. Xét xử sơ thẩm là xét xử các vụ án lần thứ nhất. Bản
án quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thời hạn pháp luật qui
định thì có hiệu lực pháp luậ. Nếu bị cáo không chấp nhận với bản án đã tuyên thì
có thể kháng án lên tòa án cấp trên cao hơn. Tòa án cấp trên cao hơn tiếp tục xem
xét giải quyết vụ án ( xét xử phúc thẩm).Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực
pháp luật. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật mà phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì được xem xét lại theo trình tự
Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm do pháp luật tố tụng quy định.
Theo qui định của pháp luật tố tụng, Hội đồng xét xử sơ thẩm các vụ án có 3
người, gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm. trừ một số trường hợp đặc biệt Hội đồng
xét xử sơ thẩm gồm có 5 người gồm 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm.
Hội đồng xét xử phúc thẩm các vụ án có 3 người, chỉ bao gồm các Thẩm
phán trừ một số trường hợp đặc biệt Hội đồng xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự
có 5 người, gồm 3 Thẩm phán và 2 Hội Thẩm. Thực tiễn xét xử phúc thẩm trong
những năm qua cho thấy trong các trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ gồm
3 Thẩm phán. Tuy nhiên, trong quá trinh nghiên cứa hồ sơ vụ án, xét xử thấy vụ án
phức tạp hoặc đối với vụ án đối với người chưa thành niên phạm tội cần có them ý
kiến của Hội thẩm thì báo cáo Chánh án hoăch người được Chánh án ủy quyền
quyết định thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm 3 Thẩm phán và 2 Hội thẩm.
Cần chú ý là trường hợp này không thực hiện đối với các tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao và Tòa án quân sự trung ương vì TANDTC và TAQSTW không
có Hội thẩm.
4.5. Tòa án xét xử công khai trừ trường hợp do luật định
Công khai là một trong những thuộc tính quan trọng của xã hội dân chủ.
Trong xã hội dân chủ công khai được xem như một tư tưởng xuyên suốt quá trình

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 11


Luật Hiến Pháp Việt Nam
tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước. Trong hoạt động tư pháp tư tưởng này cũng
được ghi nhận một cách rất cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng.
Hiến pháp 1946, Điều 67: “Các phiên tòa phải công khai, trừ trường hợp
đặc biệt”.
Hiến pháp 1959, Điều 101: “Việc xét xử tại các tòa án nhân dân đều công
khai, trừ trường hợp Luật định”.
Hiến pháp 1980, Điều 133: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường
hợp Luật định”.
Hiến pháp 1992, Điều 131: “Tòa án nhân dân xét xử công khai, trừ trường
hợp Luật định”.
Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự (năm 2003) đã cụ thể hóa tư tưởng này tại Điều
18: Xét xử công khai “Việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi
người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này qui định.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của
dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Tòa
án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.”
Như vậy, có thể thấy việc xét xử công khai nhằm bảo đảm cơ chế kiểm tra
và giám sát của dân đối với hoạt động xét xử. Sự kiểm tra giám sát của dân đối với
hoạt động nhà nước nói chung và hoạt động xét xử nói riêng là đòi hỏi cấp bách
của một xã hội dân chủ. Mọi hoạt động của Nhà nước không được công khai, triệt
tiêu sự giám sát của dân đều có khả năng dẫn đến chuyên quyền, quan liêu và tệ
hơn nữa là ở nơi đó “Quốc nạn tham nhũng” được hoành hành.
Mặt khác, xét xử công khai là một trong bảo đảm cho hoạt động xét xử được
tiến hành đúng đắn, nâng cao trách nhiệm và lương tâm của thẩm phán.

Hoạt động xét xử được tiến hành đúng đắn thì bản án phán quyết của Tòa
mới được chính xác và được mọi người tôn trọng.
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 12


Luật Hiến Pháp Việt Nam
Một bản án “đúng người, đúng tội” làm cho những người tham dự phiên Tòa
và công luận “Tâm phục, khẩu phục” thì có nghĩa rằng “Công lý đã được thực thi”,
“Công lý được thực thi” thì tinh thần thượng tôn pháp luật được nâng cao.
Để nguyên tắc công khai được thực thi, điều Luật đã qui định “Xét xử công
khai và mọi người (người trên 16 tuổi) có quyền tham dự”. Theo chúng tôi là để
nhằm thu hút đông đảo nhân dân tham gia phiên tòa, bảo đảm sự giám sát của dân
đối với hoạt động xét xử, cũng như bảo đảm tác dụng giáo dục và phòng ngừa của
hoạt động xét xử. Để đảm bảo nội dung này, Tòa án phải niêm yết kế hoạch xét xử
tại trụ sở của Tòa án để nhân dân biết và tham gia. Đối với những vụ án thu hút sự
chú ý của nhân dân, Tòa phải thông báo công khai trên phương tiện thông tin đại
chúng để nhân dân biết và tham gia.
Thời gian gần đây, có nhiều phiên Tòa mà số lượng người tham dự rất đông.
Thay vì khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia thì lực lượng cảnh sát bảo
vệ phiên tòa và Tòa án cố tình ngăn cản không cho người dân tham gia với lý do:
- Phòng xử án hẹp, không đủ chổ.
- Tham gia đông không đảm bảo trật tự phiên tòa.
- Cá biệt, có Tòa còn yêu cầu người tham gia phải có đơn xin tham dự.
Theo chúng tôi, dù với bất cứ lý do nào cũng đều không thể hạn chế số
lượng người tham gia vì điều đó là vi phạm Bộ luật tố tụng hình sự và cao hơn nữa
là những hành động “vi hiến”. Để khắc phục tình trạng nêu trên và tránh tình trạng
vi phạm “Nguyên tắc xét xử công khai” theo chúng tôi Tòa án có thể tiến hành một
số giải pháp sau:

1/ Tạo điều kiện thuận lợi cho giới truyền thông tham gia, để những người
dân không tham dự trực tiếp có thể xem qua các kênh này.
2/ Phòng xử án hẹp, thiếu chổ, Tòa có thể bố trí loa phát thanh ngoài phòng
xử án để người dân không vào phòng xử án có thể nghe những diễn biến của phiên
tòa.
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 13


Luật Hiến Pháp Việt Nam
3/ Nếu có điều kiện (chúng tôi cho rằng rất khả thi) tòa có thể dùng camera
và các màn hình đặt ngoài phòng xử án để người dân trực tiếp theo dõi diễn biến
phiên toàn.
4/ Trong trường hợp cần thiết Tòa có thể xử ở nơi khác (ngoài trụ sở Tòa
án). Như vậy, Tòa có thể thuê, mượn những nơi có điều kiện hơn như sân vận
động, nhà hát hay hội trường lớn ..v.v..
Tòa án và lực lượng bảo vệ phiên Tòa phải có nghĩa vụ tạo mọi điếu kiện
thuận lợi cho mọi người tham dự phiên Tòa. Cản trở hoặc hạn chế người dân tham
dự các phiên Tòa, theo chúng tôi là hành động vi phạm pháp luật cần phải nghiêm
trị.
4.6. Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Cần nắm vững nguyên tắc chung là tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên
tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt
dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã
hội. Bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật (Điều 5
BLTTHS).Cần nắm vững nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 BLHS.
Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân
biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã
hội.

4.7. Tòa án bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, quyền bảo vệ và lợi ích
hợp pháp của đương sự
Điều 132 hiến phấp 1992
Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc
nhờ người khác bào chữa cho mình.Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo
và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và góp phần bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quyền có NBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể được bảo đảm
nếu cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), người THTT không nhận thức đúng nội
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 14


Luật Hiến Pháp Việt Nam
dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Cơ quan THTT, người THTT là những
chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ các yếu tố của đối tượng chứng
minh và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết,
họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo chính là giúp họ giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đầy
đủ. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Trong thực tế,
không phải tất cả những người THTT đều nhận thức đúng vấn đề này. Là người
trực tiếp giải quyết vụ án hình sự, hơn ai hết, người THTT phải am hiểu thấu đáo
những quy định của pháp luật về quyền có NBC. Họ có nghĩa vụ phải giải thích
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hiểu rõ quyền bào chữa, đồng thời tạo điều
kiện thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài việc
nâng cao năng lực chuyên môn, những người THTT phải có ý thức tuân thủ và
nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương III Khoá VIII của Ban Chấp hành trung

ương Đảng nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có
phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển
chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ
thể”. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan
THTT đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ THTT vừa đủ về
số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn và nhận
thức của đội ngũ THTT, phải tập trung một số vấn đề sau:
Một là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người
THTT. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức mới về pháp luật, nghiệp
vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá
trình độ, từ đó có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 15


Luật Hiến Pháp Việt Nam
phong trào thi đua có ý nghĩa trau dồi về đạo đức, tác phong sống, làm việc nghiêm
túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Hai là, thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người THTT về vai trò,
vị trí của NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự tham gia của NBC là yếu tố
khách quan để vụ án được giải quyết đúng đắn. Sự có mặt của NBC trong vụ án
không gây khó khăn cho các cơ quan THTT, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn
cứ chứ không phải là “đối thủ” của các cơ quan THTT. Vì vậy, người THTT cần
phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa.
Ba là, trang bị đầy đủ phương tiện, kinh phí phục vụ công tác cho những
người THTT.
4.8. Nguyên tắc tòa án bảo đảm cho những người tham gia tố tụng quyền
dùng tiếng nói , chữ viết của dân tộc mình trước tòa án
Theo quy định tại điều 5 Hiến pháp 1992 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ

Nghĩa Việt Nam : Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói , chữ viết , giữ gìn bản sắc
dân tộc và phát huy những phong tục , tập quán , truyền thống và văn hóa tốt đẹp
của dân tộc mình .
Điều 24 Bộ luật TTHS quy định như sau : người tham gia tố tụng có quyền
dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình , trong trường hợp này cần phải có
người phiên dịch .
Cũng theo quy định tại điều 20 Bộ luật TTDS : Tiếng nói và chữ viết trong
tố tụng dân sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng dân sự có quyền dung tiếng
nói và chữ viết của dân tộc mình , trong trường hợp này cần phải có người phiên
dịch.
Vậy theo những cơ sở pháp lí trên thì những người tham gia tố tụng được
quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình trong trường hợp họ không
biết tiếng Viêt . Với việc quy định như thế , các nhà làm luật muốn bảo đảm hai
nguyên tắc :
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 16


Luật Hiến Pháp Việt Nam
Một là,đảm bảo cho những người tham gia tố tụng dễ dàng trình bày quan
điêm của mình trong quá trình tham gia tố tụng , bởi vì một khi họ không biết và
không hiểu tiếng Việt thì việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong quá
trình tham gia tố tụng .
Hai là ,đảm bảo nguyên tắc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các
dân tộc.
Việc xét xử tại tòa án là một quá trình , trong đó việc thẩm vấn tại phiên
tòa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để xác định lại chứng cứ , làm sang to nguyên
nhân vi phạm phap luật ,các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ … làm cơ sở cho
việc đưa ra một quyết định đúng đắng . Chính vì vậy những câu hỏi , câu trả lời

của những người tham gia tố tụng phải rõ ràng . Để thực hiện được điều đó thì
những người này cần phải sử dụng tiếng nói , chữ viết của dân tộc mình .Do đó ,
trong những trường hợp cần thiết Tòa án phải cử người phiên dịch . Mọi chi phí
liên quan đến việc cử người phiên dịch được trích từ ngân sách .
4.9. Nguyên tắc tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử
Ngay từ khi nước ta vừa giành được độc lập, ngày 24/1/1946, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán,
trong đó đã ghi nhận nguyên tắc “Tòa án thực hiện hai cấp xét xử”. Đến nay,
nguyên tắc này vẫn được ghi nhận tại Điều 11 của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
năm 2002. Và Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII đã chỉ rõ nhiệm vụ trọng tâm trong hoạt động xét xử của Tòa án: “Thực
hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét
xử vừa đúng đắn, vừa nhanh chóng.”
Hiện nay, trong pháp luật quốc tế cũng như các quốc gia đều thực hiện
nguyên tắc hai cấp xét xử. Tức vụ án mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn định luật
được Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Còn các bản án,
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 17


Luật Hiến Pháp Việt Nam
quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
Nguyên tắc hai cấp xét xử được thực hiện bằng cách tổ chức hệ thống
Toà án và các thủ tục tố tụng cụ thể. Các nước thuộc hệ thống pháp luật lục địa
(legal law) hay các nước thuộc hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa hệ thống Toà
án được tổ chức theo một trong các nguyên tắc nhất định là:
+ Theo đơn vị hành chính lãnh thổ gồm Toà án tối cao và Toà án địa phương.

Về phần mình, tuỳ theo đặc điểm lãnh thổ và dân cư mà các Toà án địa phương lại
được tổ chức thành hai cấp (Toà án cấp tỉnh, Toà án cấp huyện) hoặc ba cấp (Toà
án cấp tỉnh, Toà án cấp liên huyện và Toà án cấp huyện). Theo cách tổ chức này,
một Toà án có thể thực hiện các chức năng xét xử khác nhau; Toà án tối cao, Toà
án cấp tỉnh vừa xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm; còn Toà án cấp
huyện chỉ xét xử sơ thẩm. Cách tổ chức này đặc trưng cho các nước theo hệ thống
pháp luật xã hội chủ nghĩa;
+ Theo cấp xét xử gồm Toà án tối cao (Toà án phá án), các Toà án phúc thẩm
và các toà sơ thẩm (Toà án vi cảnh, Toà án tiểu hình, Toà án đại hình). Các Toà án
tổ chức theo cấp này thực hiện chức năng được xác định: Toà án tối cao thực hiện
chức năng phá án, các Toà án phúc thẩm xét xử phúc thẩm, các Toà án sơ thẩm xét
xử sơ thẩm các vụ án. Cách tổ chức này đặc trưng cho hệ thống pháp luật án lệ
(commol law);
+ Theo cấp xét xử kết hợp với nguyên tắc hành chính lãnh thổ gồm Toà án
tối cao (có chức năng phá án và xét xử phúc thẩm), Toà án cấp thứ hai (xét xử phúc
thẩm và sơ thẩm một số vụ án quan trọng) và Toà án cấp thứ ba (gồm các loại Toà
án có chức năng xét xử sơ thẩm). Hệ thống Toà án này được tổ chức trên cơ sở
nhận thức khoa học về nguyên tắc hai cấp xét xử và coi cấp xét xử như là cách tổ
chức tố tụng chứ không máy móc coi đó là tổ chức hành chính pháp lý. Cách tổ
chức này đặc trưng cho hệ thống pháp luật lục địa (legal law).
Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 18


Luật Hiến Pháp Việt Nam
Như vậy, có thể nói rằng việc tổ chức hệ thống Toà án ở các nước khác nhau
phụ thuộc vào truyền thống tổ chức tư pháp nước đó, vào hệ thống pháp luật và
quan niệm về nguyên tắc hai cấp xét xử.
Đây là một nguyên tắc mới được quy định trong bộ luật tổ chức tòa án

nhân dân.nguyên tắc này bảo đảm quan trọng cho quyền bào chữa của bị cáo,bảo
vẹ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,thể hiện một bước tiến mới trong quyền
con người.căn cú vào nội dung của nguyên tắc này ,việc xét xử các vị án theo sơ
thẩm đồng thời chung thẩm bi bãi bỏ.

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 19


Luật Hiến Pháp Việt Nam

KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển của tòa án nhân dân luôn gắn liền với quá trình
hình thành và phát triển của bộ máy nhà nước. Cùng với các cơ quan nhà nước
khác, tòa án nhân dân đã và đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay, để tạo điều
kiện cho tòa án nhân dân thực hiện có hiệu quả, Nhà nước cần hoàn thiện các văn
bản pháp luật cs liên quan đến tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, chú ý đến
việc quy định để nâng cao chất lượng của đội ngủ thẩm phán và hội thẩm nhân
dân, tăng cường xây dựng cơ sở vật chất, xây dựng ngành tòa án nhân dân vững
mạnh về mọi mặt. Mang vai trò là một bộ phận hợp thành của công cụ quản lí xã
hội, vũ khí bảo vệ trật tự pháp luật ,hoạt động của toà án nhân dân hướng tới mục
tiêu "bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền
làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính
mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân".

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 20



Luật Hiến Pháp Việt Nam

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Bùi Xuân Đức, Đổi mới hoàn thiện bộ máy Nhà nước trong giai
đoạn hiện nay.
2. PGS.TS Bùi Xuân Đức, Giáo trình Luật hiến pháp - Viện Đại học Mở
Hà Nội.
3. Dương Quang Tung, Một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ
cấu tổ chức bộ máy Nhà nước.
4. Nguyễn Văn Thảo,

Bộ máy nhà nước ta 54 năm xây dựng - trưởng

thành -đổi mới.
5. Nguyễn Văn Mạnh, Nguyên tắc thống nhất quyền lực có phân công,
phân cấp
trong tổ chức và hoạt động trong bộ máy Nhà nước ta, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 5, 1991.

Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 21


Luật Hiến Pháp Việt Nam

MỤC LỤC


Sinh viên thực hiện Nhóm 5 – Luật K35D

Trang 22



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×