Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Khái quát về công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.74 KB, 15 trang )

MỤC LỤC

Lời mở đầu
Trước khi bắt đầu kinh doanh, các doanh nhân phải lựa chọn một hình
thức kinh doanh cụ thể khi khởi nghiệp. Việc lựa chọn hình thức doanh
nghiệp trước khi bắt đầu công việc kinh doanh là rất quan trọng, nó có ảnh
hưởng khơng nhỏ tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mỗi loại
hình doanh nghiệp đều có những ưu và nhược điểm riêng. Hơn nữa, các


quốc gia và lãnh thổ khác nhau có luật pháp và quy định khác nhau đối với
chủ doanh nghiệp. Các doanh nhân cần trao đổi ý kiến với luật sư hoặc
chuyên gia để đảm bảo họ có đủ các giấy phép cần thiết, đồng thời hiểu rõ
tất cả các nghĩa vụ pháp lý của mình.
Xét trên khía cạnh rủi ro thì doanh nghiệp tư nhân và cơng ty hợp danh
được xem là hai mơ hình đem đến cho nhà đầu tư rủi ro nhiều nhất bởi tính
chịu trách nhiệm tài sản vô hạn đối với các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Tuy nhiên, khơng phải vì thế mà hai mơ hình này kém sức
hấp dẫn, nhất là trong bối cảnh kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt thì
trách nhiệm vô hạn dường như lại là một ưu thế lớn trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Bài viết đưa ra một số một số bình luận, đánh giá ưu điểm, hạn chế của
công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân (với tư cách là những doanh
nghiệp có chủ đầu tư chịu trách nhiệm tài sản vô hạn đối với các hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp).
I. Khái quát về công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
1. Công ty hợp danh.
Công ty hợp danh (CTHD) là một trong những hình thức cơng ty ra đời
sớm nhất trong lịch sử hình thành cơng ty. Về hình thức, nó là loại hình
cơng ty đối nhân trong đó các thành viên có mối quan hệ mật thiết với nhau
về mặt nhân thân. Luật doanh nhiệp Việt nam 2005 (LDN) cũng thừa nhận


loại hình cơng ty này ở nước ta hiện nay. Tuy đã ra đời và tồn tại trên thế
giới từ rất lâu, nhưng tại Việt Nam, công ty hợp danh vẫn đang loay hoay
đi tìm cho mình chỗ đứng, tức vẫn đang trong cơng cuộc khẳng định mình
so với các loại hình doanh nghiệp khác. Một trong những nguyên nhân dẫn
đến sự kém hấp dẫn của công ty hợp danh tại Việt Nam chính là những quy
định của pháp luật về loại hình cơng ty trên vẫn cịn nhiều hạn chế.
Xét về bản chất, từ thủa ban đầu, công ty hợp danh là sự liên kết giữa
các thương nhân đơn lẻ để cùng nhau hoạt động dưới một tên hãng chung.
Cho đến nay, dù có đơi chút thay đổi về chủ thể tham gia vào sự liên kết
2


đó, thì sự nhận thức như vậy về bản chất của cơng ty hợp danh vẫn rất có
giá trị trong việc giải thích nhiều vấn đề có liên quan. Có thể hiểu một cách
đơn giản, công ty hợp danh là một công ty của hai hay nhiều người cùng
tiến hành hoạt động kinh doanh với mục tiêu lợi nhuận. Cũng có thể hiểu,
một cơng ty hợp danh được xem là một người và cùng với nó là các chủ sở
hữu của nó.
Luật doanh nghiệp 2005 đưa ra khái niệm về cơng ty hợp danh, theo đó
cơng ty hợp danh được hiểu là một loại hình doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh);
ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng tồn
bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của cơng ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công
ty trong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty”
Như vậy, công ty hợp danh theo định nghĩa tại Luật Doanh nghiệp năm
2005 phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, có nghĩa là hai người chịu
trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với các khoản nợ của công ty. Cũng theo

định nghĩa trên thì nhà làm luật Việt Nam đã gộp cả hai loại công ty là
công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản theo pháp luật thế giới vào
làm một. Điều này bị nhiều học giả cho rằng khơng hợp lí về cả mặt lí luận
và thực tiễn1.
Theo định nghĩa trên về cơng ty hợp danh, có thể rút ra một số đặc
điểm pháp lí về cơng ty hợp danh theo pháp luật Việc Nam như sau :
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ti cùng
nhau kinh doanh dưới một tên chung. Ngoài thành viên hợp danh, cơng ty
hợp danh cịn có thể có thêm thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh là cá nhân chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn
về các nghĩa vụ của công ty.
1

3


- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
tong phạm vi số vốn đã góp vào cơng ty.
- Cơng ty hợp danh có tư cáhc pháp nhân.
- Công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khốn nào.
2. Doanh nghiệp tư nhân.
Cũng giống như công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân cũng ra đời
khá muộn so với các loại hình doanh nghiệp khác, chỉ từ khi đất nước đổi
mới cùng với việc thừa nhận sự tồn tại của kinh tế tư nhân thì doanh nghiệp
tư nhân mới thực sự có cơ hội để phát triển. Với những lợi thế vốn có, loại
hình doanh nghiệp này nhanh chóng phát triển và dần chiếm một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Luật doanh nghiệp tư nhân ban hành ngày 21/12/1990 quy định : “Nhà
nước công nhận sự tồn tại lâu dài và sự phát triển của doanh nghiệp tư
nhân, thừa nhận sự bình đẳng trước pháp luật với các doanh nghiệp khác ”

Điều 141 LDN 2005 đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp tư nhân như
sau: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và
tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của
doanh nghiệp ; doanh nghiệp tư nhân khơng được phát hành bất kì một
loại chứng khoán nào ; mỗi cả nhân chỉ được quyền thành lập một doanh
nghiệp tư nhân”
Có thể rút ra một số đặc điểm pháp lí của doanh nghiệp tư nhân như
sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ.
- Doanh nghiệp tư nhân khơng có tư cách pháp nhân.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản
nợ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân.
3. Trách nhiệm tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên
hợp danh của cơng ty hợp danh.
Như đã phân tích ở trên, cả chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên
hợp danh của công ty hợp danh đều phải chịu trách nhiệm vô hạn về các
4


nghĩa vụ của doanh nghiệp mình. Điều đó có nghĩa, với tất cả các khoản nợ
hoặc nghĩa vụ khác của doanh nghiệp, cả thành viên hợp danh và chủ
doanh nghiệp tư nhân đề phải sử dụng không chỉ tài sản của bản thân trong
cơng ty mà cịn bằng tồn bộ tài sản thuộc sở hữu của bản thân để chịu
trách nhiệm với khoản nợ hoặc nghĩa vụ đó. Điều đó có nghĩa giữa tài sản
của thành viên hợp danh và chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân với tài sản
của doanh nghiệp (bao gồm cả công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân)
khơng có sự phân định rõ ràng.
Thơng thường, căn cứ vào tính độc lập giữa tài sản của doanh nghiệp
mà người ta quy định cho nó có tư cách pháp nhân hay khơng. Doanh
nghiệp tư nhân chính là ví dụ tiêu biểu về loại hình doanh nghiệp khơng có

tư cách pháp nhân bởi giữa doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp khơng có sự
phân định rõ ràng về mặt tài sản. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân cũng có
thể coi là tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp đó và ngược lại.
Tuy nhiên, điều đó lại khơng đúng với cơng ty hợp danh. Như đã phân
tích ở phần trên, thành viên công ty hợp danh cũng phải chịu trách nhiệm
vơ hạn bằng tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh của công ty, tức
là giữa tài sản của công ty và tài sản của thành viên khơng thực sự có một
gianh giới độc lập. Tuy nhiên theo quy định tại LDN 2005 ghi công ty hợp
danh vẫn có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân ấy hình thành từ thời
điểm doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Điều
này thực sự là một điểm khá “độc đáo” của pháp luật Việt Nam về công ty
hợp danh bởi trên thế giới, hầu hết pháp luật các nước đều quy định công ty
hợp danh khơng có tư cách pháp nhân, giống với doanh nghiệp tư nhân.
Thực tế, quy định cho công ty hợp danh có tư cách pháp nhân xuất phát từ
nhu cầu thực tế của quá trình thực hiện luật doanh nghiệp năm 1999 khi mà
loại hình cơng ty hợp danh không thể thu hút được sự lựa chọn của các nhà
đầu tư khi những ưu điểm của nó chưa thực sự có thể bù khuyết cho những
hạn chế và rủi ro có thể mang lại (sẽ phân tích ở phần sau) và việc quy định

5


cho cơng ty hợp danh có tư cách pháp nhân có thể sẽ là một liều thuốc kích
thích nhằm thu hút các nhà đầu tư tìm đến với loại hình doanh nghiệp này.
II. Ưu điểm, hạn chế của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư
nhân với tư cách là những doanh nghiệp có chủ đầu tư chịu trách
nhiệm tài sản vô hạn đối với các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Như đã nói ở trên, việc thành viên hợp danh của công ty hợp danh và
chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân cũng phải chịu tráchn nhiệm vô hạn đối

với các nghĩa vụ của doanh nghiệp mình thực sự tạo nên nhiều ưu thế trong
công việc kinh doanh, chế độ quản lí và điều hành doanh nghiệp, vấn đề
huy động vốn… Tuy nhiên, song hành với đó cũng là những hạn chế nhất
định của hai loại hình doanh nghiệp này, nhất là về vấn đề rủi ro khi tham
gia đầu tư. Để hiểu rõ hơn, tác giả sẽ đi sâu phân tích từng ưu điểm cũng
như hạn chế của hai loại hình doanh nghiệp này, trên bình diện của trách
nhiệm vô hạn của chủ đầu tư đối với các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
1. Ưu điểm
a). Ưu điểm chung của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân.
- Thứ nhất : Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân dễ
dàng huy động vốn vay.
+) Đối với công ty hợp danh :
Với việc các thành viên công ty chịu trách nhiệm liên đới và vô
hạn đối với các nghĩa vụ của cơng ty, do đó hình thức ngồi hình thức huy
động vốn cơ bản nhất là từ các thành viên thì hình thức huy động vốn bằng
hình thức vay vốn từ từ các kênh tài chính hoặc các nguồn khác là một ưu
thế lớn của loại hình doanh nghiệp này. Các nguồn vay vốn có thể là từ các
ngân hàng, các cơng ty tài chính, các quỹ đầu tư… và thậm chí từ các cá
nhân đơn lẻ.
Sở dĩ có thể coi việc huy động vốn dưới hình thức vốn vay là một
ưu thế của công ty hợp danh bởi tính chịu trách nhiệm liên đới và vơ hạn
6


với các nghĩa vụ của cơng ty chính là một đảm bảo quan trọng đối với
những nhà đầu tư quyết định cho công ty hợp danh vay vốn. Thông thường,
khi quyết định cho một doanh nghiệp vay vốn, các nhà đầu tư thường căn
cứ vào khối tài sản thực tế của doanh nghiệp để đưa ra quyết định về mức
vốn vay cũng như các thoả thuận khác. Doanh nghiệp càng có khối tài sản

lớn thì mức vốn vay cũng tương ứng như vậy. Đối với những doanh nghiệp
vừa và nhỏ thì điều này thật khó đáp ứng. Tuy nhiên, đối với cơng ty hợp
danh thì ngồi xem xét khối tài sản hiện có cũng như triển vọng kinh doanh
của doanh nghiệp, nhà đầu tư cịn có thể căn cứ cả vào điều kiện kinh tế
của các thành viên hợp danh để có thể quyết định mức vốn vay. Do đó, mặc
dù quy mơ của cơng ty hợp danh có thể nhỏ nhưng mức vốn cho vay có thể
rất lớn, bởi khi cần thanh khoản số tiền vay, nếu như công ty khơng thể trả
hết nợ thì các nhà đầu tư hồn tồn có thể u cầu bất cứ thành viên hợp
danh nào của cơng ty trả nợ, chính vì thế mà tính rủi ro của các khoản vay
đã được giảm đi rất nhiều.
+) Đối với doanh nghiệp tư nhân.
Cũng giống như công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân chịu
trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ của cơng ty. Do tính
chất độc lập về tài sản của doanh nghiệp khơng có nên chủ doanh nghiệp tư
nhân – người chịu trách nhiệm duy nhất trước mọi rủi ro của doanh nghiệp
sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn. Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu
trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần
vố đầu tư đã đăng kí với cơ quan đang kí kinh doanh mà phải chịu trách
nhiệm bằng tồn bộ tài sản của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã
đăng kí khơng đủ để trang trải các khoản nợ của doanh nghiệp tư nhân. Với
trách nhiệm cao như vậy, nên doanh nghiệp tư nhân cũng dễ dàng được
ngân hàng cho vay vốn. Ngồi ra thì với chế độ trách nhiệm như vậy nên
doanh nghiệp tư nhân tạo được sự tin tưởng trong kinh doanh với các đối
tác.
Thứ hai, vấn đề quản trị và điều hành doanh nghiệp khá dễ dàng.
7


+) Đối với cơng ty hợp danh
Tính an tồn pháp lí đối với cơng chúng cao, cùng với việc cá thành

viên thường có quan hệ mật thiết về nhân thân (đặc điểm nổi bật của công
ty đối nhân) nên việc quản lí cơng ty hợp danh chịu rất ít sự giàng buộc của
pháp luật. Về cơ bản, các thành viên có thể tự thoả thuận về việc quản lí,
điều hành công ty. Các thành viên hợp danh trong công ty có quyền đại
diện theo pháp luật cho cơng ty, khi thấy có lợi cho cơng ty có thể tự mình
nhân danh công ty để tiến hành thoả thuận và giao kết với bên thứ ba (Điều
137 LDN). Các thành viên hợp danh phân công nhau đảm nhận các chức
danh quản lí và kiểm sốt cơng ty.
Tính dễ dàng trong quản lý một mặt cũng bởi tính khép kín của thành
vien hợp danh. Các thành viên hợp danh thường có mối liên hệ nhất định
và thường là rất gắn bó và tin tưởng nhau. Khơng có sự can dự từ bên ngồi
vào hoạt động của cơng ty, các thành viên có thể dễ dàng thống nhất về
những vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Bộ máy gọn nhẹ cũng là một ưu thế lớn không chỉ trong việc điều hành,
quản lí mà cịn cả trong vấn đề chi trả lương cho đội ngũ quản lý trong
doanh nghiệp.
b) Đối với doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân
có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của
doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp tư nhân. Một trong những ưu điểm của việc lựa chọn mơ
hình doanh nghiệp tư nhân để kinh doanh đó là chủ doanh nghiệp tư nhân
khơng phải chia sẻ quyền quản lí doanh nghiệp với bất cứ đối tượng nào
khác. Chủ doanh nghiệp có quyền định đoạt đối với tài sản doanh nghiệp
cungtx như có tồn quyền quyết định việc tổ chức quản lí doanh nghiệp để
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể
tự mình quản lí doanh nghiệp hoặc th người khác quản lí doanh nghiệp.

8



b) Các ưu điểm riêng của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư
nhân
+) Công ty hợp danh
Thứ nhất : cơng ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Như đã phân tích ở
phần trên, tính chịu trách nhiệm vơ hạn về tài sản của các thành viên đối
với các khoản nợ của công ty không làm mất đi tư cách pháp nhân của công
ty hợp danh. Đây là một ưu thế rõ rệt của công ty hợp danh so với doanh
nghiệp tư nhân. Việc có tư cách pháp nhân trước hết sẽ giúp cơng ty hợp
danh có thể tham gia một số ngành nghề kinh doanh đòi hỏi chủ thể phải là
pháp nhân, chẳng hạn như cho thuê tài chính.
Thứ hai : Trong kinh doanh, ngồi những yếu tố về kĩ thuật, vốn, quy
mơ doanh nghiệp… thì uy tín cũng là một yếu tố quan trọng để các đối tác
quyết định việc làm ăn với một doanh nghiệp. Uy tín khơng tự nhiên có mà
được hình thành qua q trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đối
với cơng ty hợp danh, uy tín doanh nghiệp cịn được hình thành bởi uy tín
cá nhân sẵn có của từng thành viên hợp danh trong cơng ty. Uy tín đó cịn
được đảm bảo bởi khối tài sản của chính các thành viên đó. Do vậy, khi
giao kết các thoả thuận, hợp đồng với công ty hợp danh, khách hàng sẽ hạn
chế được nhiều rủi ro và nếu được lựa chọn giao kết hợp đồng, các khách
hàng sẽ ưu ái hơn đối với công ty hợp danh.
+) Đối với doanh nghiệp tư nhân
Thứ nhất : Doanh nghiệp tư nhân có quyền tự tăng giảm vốn đầu tư mà
không phải khai báo với cơ quan đăng kí kinh doah, trừ trường hợp giảm
vốn đầu tư xuống dưới mức đã đang kí.
Đề thành lập doanh nghiệp tư nhân, chủ đầu tư không phải đáp ứng
điều kiện bắt buộc về số vốn tối thiểu phải có nếu doanh nghiệp khơng
đăng kí kinh doanh trong những ngành nghề thuộc danh mục phải có vốn
pháp định. Tuy nhiên, đã là đăng kí để thực hiện hoạt động kinh doanh thì
phải có vốn. Vốn ban đầu của doanh nghiệp tư nhân sẽ do chủ doanh


9


nghiệp tư nhân tự khai và chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc
giảm vốn ban đầu này.
Thứ hai : vấn đề phân chia lợi nhuận của doanh nghiệp tư nhân dễ
dàng, rõ ràng.
Thật ra vấn đề phân chia lợi nhuận không đặt ra đối với doanh nghiệp
tư nhân, bởi lẽ doanh nghiệp này chỉ có một chủ sở hữu, chủ sở hữu với
trách nhiệm vô hạn đối với nghĩa vụ và các khoản nợ của công ty. Do chịu
trách nhiệm lớn và nhiều rủi ro như vậy nên chủ doanh nghiệp tư nhân
cũng được hưởng toàn bộ lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ với Nhà nước và các bên thứ ba.
2. Hạn chế.
a) Hạn chế chung của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh :
Cả chủ doanh nghiệp tư nhân và các thành viên hợp danh của công ty
hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ
của công ty.
+ ) Đối với doanh nghiệp tư nhân
Chủ doanh nghiệp tư nhân không chỉ chịu trách nhiệm về hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp trong phạm vi phần vốn đầu tư đã đăng kí với
cơ quan đăng kí kinh doanh mà phải chịu trách nhiệm bằng tồn bộ tài sản
của mình trong trường hợp phần vốn đầu tư đã đăng kí khơng đủ để trang
trải các khoàn nợ của doanh nghiệp tư nhân. Một doanh nghiệp tư nhân
khơng có khả năng thanh tốn nợ đến hạn và lâm vào tình trạng phá sản thì
tất cả những tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp tư nhân đều nằm trong
diện tài sản phá sản của doanh nghiệp.
+) Đối với công ty hợp danh
Cũng giống như doanh nghiệp tư nhân, hạn chế lớn nhất của cơng ty

hợp danh với tư cách là doanh nghiệp có chủ đầu tư chịu trách nhiệm tài
sản vô hạn với các hoạt động kinh doanh của cơng ty chính là tính rủi ro
của các thành viên hợp danh khi đầu tư vào nó. Thậm chí, nếu so với chủ
sở hữu doanh nghiệp thì thành viên hợp danh cịn phải chịu rủi ro hơn bởi
10


họ không chỉ phải chịu trách nhiệm với hành vi do chính mình gây ra mà
cịn phải liên đới đối với cả những hành vi của thành viên hợp danh khác,
miễn hành vi đó nhân danh cơng ty. Khi tham gia vào công ty hợp danh,
thành viên hợp danh cần cân nhắc kĩ về các thành viên còn lại bởi mỗi hành
vi của các thành viên cịn lại có ảnh hưởng lớn đối với họ. Khi công ty hợp
danh lâm vào tình trạng khó khăn thì rất có thể khối tài sản riêng của thành
viên hợp danh sẽ bị đem ra để thanh tốn số nợ mà cơng ty chưa trả đủ. Rất
có thể từ một người giàu có, thành viên hợp danh có thể sẽ trở nên khánh
kiệt.
Thứ hai ; Công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân khơng được phát
hành bất kì loại chứng khốn nào.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 130 và khoản 2 Điều 141 thì cơng ty
hợp danh và doanh nghiệp tư nhân khơng được phát hành bất kì loại chứng
khốn nào. Việc khơng thể phát hành chứng khốn nên khả năng huy động
vốn của công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhânbị hạn chế rất nhiều.
Muốn huy động vốn để sản xuất kinh doanh thì cơng ty hợp danh chỉ có thể
huy động từ các thành viên cũng như đi vay vốn từ bên ngồi và vay vốn
thì đương nhiên phải chịu một khoản lãi nhất định, còn với doanh nghiệp tư
nhân thì chỉ có thể lấy vốn từ chính chủ doanh nghiệp tư nhân và đi vay
vốn ở bên ngoài.
b) Hạn chế riêng của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh :
+) Đối với công ty hợp danh
Thứ nhất : Về quản trị doanh nghiệp :

Như đã phân tích ở trên, trách nhiệm vơ hạn và liên đới tạo nên sự liên
kết chặt chẽ giữa các thành viên hợp danh, đem đến nhiều ưu thế trong
quản lý và điều hành công ty hợp danh. Tuy nhiên một mặt nó cũng tạo nên
những khó khăn trong chính hoạt động quản lý đó. Cụ thể, do là cơng ty
đối nhân và the quy định của pháp luật thì trong việc thảo luận và biểu
quyết các vấn đề, nếu như giữa các bên khơng có sự thống nhất cao thì rất
khó có thể quyết định. Điều này cũng góp phần làm giảm cơ hội đầu tư
11


kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc nắm bắt cơ hội phải
thật nhanh chóng.
Thứ hai : Việc chuyển nhượng phần vốn góp cho cá nhân khác hoặc
một cá nhân muốn góp vốn trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp
danh là vấn đề tương đối khó khăn bởi nó phải được Hội đồng thành viên
thông qua. Cụ thể, khoản 3 Điều 133 LDN quy định : Thành viên hợp danh
không được quyền chuyển một phần hoặc tồn bộ phần vốn góp của mìh
tại cơng ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành
viên hợp danh còn lại.
Thứ ba : Thành viên hợ danh không được làm chủ doanh nghiệp tư
nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp
được sự nhất trí của các thành viên hợp danh cịn lại
Do các thành viên của cơng ty hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn
đối với các nghĩa vụ và khoản nợ của công ty hợp danh cho nên : Nếu một
người đã là thành viên của công ty hợp danh này rùi mà làm thành viên của
cơng ty hợp danh khác thì tài sản của họ tài sản của họ trong công ty hợ
danh này có khả năng bị thanh lý nếu cơng ty hợp danh kia làm ăn thua lỗ
mà tài sản của người này góp vào cơng ty hợp danh kia khơng đủ để chi trả.
Vì vậy, nếu một người đã là thành viên của công ty hợp danh này mà muốn
trờ thành thành viên của cơng ty hợp danh khác thì phải được sự nhất trí

của các thành viên cịn lại. ( Hạn chế đối với quyền của thành viên hợp
danh do chế độ chịu trách nhiệm vô hạn ).
Thứ tư : Với các loại hình doanh nghiệp tư nhân hay cơng ty hợp danh,
sự tồn tại của các doanh nghiệp này luôn luôn gắn liền với tư cách của chủ
sở hữu doanh nghiệp hay các thành viên hợp danh; bởi vì hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp này có thể sẽ bị kết thúc cùng với cái chết, sự
rút lui hay sự khánh tận của chủ doanh nghiệp tư nhân hay của một trong
các thành viên hợp danh của công ty. Đây được xem là một hạn chế so với
các loại hình doanh nghiệp khác.

12


Một điểm cũng cần nói đến là cơng ty hợp danh vẫn phải chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp theo quy định tại Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm
2003. Trên thế giới, có rất nhiều nước quy định cơng ty hợp danh không
phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy nhiên điều này không được công
nhận trong pháp luật Việt Nam. Điều này góp phần giải thích cho số lượng
cơng ty hợp danh trên thực tế chỉ đếm trên đầu ngón tay.
+) Đối với doanh nghiệp tư nhân
Thứ nhất : Doanh nghiệp tư nhân khơng có tư cách pháp nhân
Doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân. Theo quy định của
Luật doanh nghiệp năm 2005, doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh
nghiệp duy nhất khơng có tư cách pháp nhân. Việc không phải là pháp
nhân, doanh nghiệp tư nhân gặp phải một số khó khăn nhất định và bị hạn
chế ít nhiều trong hoạt động thương mại dưới sự điều chỉnh của pháp luật
hiện hành. Theo quy định của pháp luật thì một số hoạt động thương mại
địi hỏi chủ thể phải có tư cách pháp nhân mới được tham gia hoạt động.
Thứ hai : Doanh nghiệp tư nhân khó khăn trong vấn đề góp vốn với
các doanh nghiệp khác, liên doanh, liên kết.

Pháp luật quy định cho doanh nghiệp tư nhân có quyền góp vốn vào
các doanh nghiệp khác, quyền liên doanh, liên kết. Tuy nhiên, do doanh
nghiệp tư nhân khơng có khối tài sản độc lập nên việc góp vốn vào doanh
nghiệp khác cũng là một vấn đề không phải đơn giản. Do chế độ chịu trách
nhiệm vô hạn cho nên tài sản của doanh ngiệp tư nhân khơng có sự độc lập,
rõ ràng. Vì thế khi góp vốn vào các doanh nghiệp khác, nguy cơ phần vốn
góp đó có thể bị đem ra thực hiện các nghĩa vụ và các khoản nợ của doanh
nghiệp tư nhân là rất cao, vì thế ít có doanh nghiệp nào muốn góp vốn và
liên doanh, liên kết với doanh nghiệp tư nhân.

13


Danh mục tài liệu tham khảo :
- Giáo trình Luật Thương Mại – Tập 1 ( Trường Đại Học Luật Hà Nội –
Nhà xuất bản công an nhân dân ).
- Giáo trình Luật kinh tế, khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội – năm
2006.
- Luật Doanh Nghiệp ( Đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 )

14


- Pháp luật về tổ chức các hình thức kinh doanh ( Nhà xuất bản Tư
Pháp, Hà Nội, 2007 ).
- />- />
15




×