Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thực tiễn áp dụng luật phá sản năm 2004

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.09 KB, 33 trang )

Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
‫אּ ∞אּ‬

Đề tài: Thực tiễn áp dụng luật phá sản năm 2004.

Nhóm thực hiện: nhóm 8.

Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012

1
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

DANH SÁCH THÀNH VIÊN TRONG NHÓM 8:
1

2
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

LỜI CAM ĐOAN
Các thành viên trong nhóm 8 xin cam đoan với Thầy và tất cả các bạn rằng dưới
sự chỉ đạo và hướng dẫn của giáo viên bộ môn Nguyễn Nam Hà, bài tiểu luận này là
sản phẩm của các thành viên trong nhóm qua một thời gian học tập và nghiên cứu đã


cùng nhau thống nhất và hoàn thành .Xin cam đoan là không sao chép bất cứ tài liệu
nào và tất cả tài liệu có trong bài đều được tham khảo dưới hình thức có chọn lọc.

3
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

LỜI CẢM ƠN
‫אּ∞אּ‬
.
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT:
1.

HTX:Hợp tác xã.

2.

UBND: Uỷ ban nhân dân.

3.

VTNN: Công ty vật tư nông nghiệp tỉnh Quảng Nam.

4.

NHNo&PTNT: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt

5.


TAND: Tòa án nhân dân.

6.

PSDN: Phá sản doanh nghiệp.

Nam.

4
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................33

5
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

LỜI NÓI ĐẦU
Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh
đạo, trải qua 20 năm thực hiện đã thu được “những thành tựu to lớn, mang tính lịch
sử”. Nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp chuyển mạnh sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự thay đổi đó kéo theo sự thay đổi căn
bản về thể chế kinh tế, cơ chế quản lý hoạt động, đặc biệt là hệ thống pháp luật để đáp

ứng yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã
hội, tồn tại khách quan, nó hiện hữu như một sản phẩm của quá trình cạnh tranh
chọn lọc và đào thể tự nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kể thị trường phát triển
của bất kì ở nước nào hay thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để
đáp ứng yêu cầu đó Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã thông qua Luật
phá sản doanh nghiệp ngày 30/12/1993. Trải qua hơn 10 năm thực hiện, Luật phá sản(
năm 1993) đã có những ưu điểm tác dụng to lớn trong thực tế, tuy nhiên do sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế, nó đã bộc lộ những hạn chế nhất định đòi hỏi phải được
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với thực tế. Đáp ứng yêu cầu đó, Luật phá sản
được Quộc hội Việt Nam thông qua ngày 15/06/2004 thay thế cho Luật phá sản năm
1993.
Tìm hiểu quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của Luật phá sản, ngoài ý
nghĩa tìm hiểu các quy định về đối tượng, phạm vi áp dụng, địa vị pháp lý của các
chủ thể tham gia giải quyết phá sản; quy định về trình tự, thủ tục giải quyết phá sản;
nó còn có ý nghĩa đánh giá trình độ, mức độ, xu hướng phát triển của nền kinh tế, từ
đó có những giải pháp thiết thực góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay.

6
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 -

NỘI DUNG
Chương 1: Khái quát chung bộ luật phá sản năm 2004.
1.1. KHÁI NIỆM PHÁ SẢN VÀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN:
1.1.1. Khái niệm phá sản:
Phá sản là một hiện tượng kinh tế phát sinh từ rất sớm trong lịch sử nhân loại

(từ thời kỳ La Mã) và nó phát triển, trở nên phổ biến trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa.
Hiện tượng phá sản là tất yếu trong nền kinh tế thị trường bất kể là thị trường của
quốc gia TBCN hay XHCN.
Trước tiên, để hiểu khái niệm luật phá sản, chúng ta cần hiểu các khái niệm
sau :
Doanh nghiệp: Theo qui định tại điều 4 của luật Doanh nghiệp, nhà nước qui
định, Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Hợp tác xã: Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình,
pháp nhân (gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích tự nguyện góp vốn, góp sức lập
ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh
doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và góp phần phát triển kinh tế xã hội
của đất nước.
Về thuật ngữ “phá sản” theo Luật thương mại 1972 của chính quyền Sài Gòn
trước đây, nó được gọi là “khánh tận” để chỉ sự phá sản của các thương gia, còn vỡ
nợ được dùng để chỉ sự phá sản của các cá nhân. Theo quan niệm thông thường của
người Việt Nam thì phá sản thường được hiểu là không trả được nợ, để vỡ nợ.
Theo từ điển tiếng Việt do Viện ngôn ngữ học chủ biên, Nhà xuất bản Đà
Nẵng ấn hành năm 2005 thì phá sản là: “Lâm vào tình trạng tài sản chẳng còn gì, và
thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại, thất bại hoàn toàn”.
Luật phá sản ở nước ta cũng không đưa ra khái niệm phá sản một cách trực
tiếp mà chỉ đưa ra được khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ

7
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012



Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”(Điều 3, Luật
phá sản năm 2004).
Như vậy có thể hiểu phá sản ở đây là khái niệm dùng để chỉ doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản với dấu hiệu đặc trưng nhất là mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, việc lâm vào tình trạng phá sản chưa hẳn đã là
phá sản, mà doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ được coi là phá sản khi đã tiến hành thủ
tục tuyên bố phá sản.
Một số dấu hiệu để phân biệt giữa doanh nghiệp bị phá sản với doanh nghiệp
bị lâm vào tình trạng phá sản.




Không trả được nợ đến hạn.
Không trả được nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
Đã hoặc chưa tiến hành thủ tục tuyên bố phá sản.

1.1.2. Khái niệm pháp luật phá sản:
Pháp luật phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành
để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã.
Pháp luật phá sản là một bộ phận cấu thành các nhóm chế định pháp luật về
giải quyết hậu quả của khung pháp lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
Trong hoạt động kinh tế, thương mại pháp luật về phá sản là một chế định đặc
thù, tính đặc thù được biểu hiện ở việc chế định này vừa chứa đựng các quy phạm
pháp luật nội dung vừa chứa đựng các quy phạm pháp luật hình thức.
Pháp luật về phá sản cũng là một chế định không thể thiếu được trong kinh tế
thị trường, bởi trong nền kinh tế đó (tức trong nền kinh tế thị trường) luôn có sự
cạnh tanh giữa các chủ thể kinh doanh, do vậy mà có những chủ thể không đứng
vững được trong cuộc cạnh tranh khốc liệt đó nên bị phá sản. Do đó, phải có Luật

phá sản để giải quyết việc phá sản đó. Trong pháp luật phá sản thì Luật phá sản là
văn bản pháp luật quan trọng nhất. nó quy định những vấn đề cơ bản trong việc giải
quyết phá sản như: lý do phá sản, trình tự thủ tục phá sản, quyền hạn và nghĩa vụ
của cơ quan, tổ chức, cá nhân; thủ tục thu hồi, thanh lý tài sản và việc phân chia tài
sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

1.2. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬT PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP VÀ HỢP
TÁC XÃ NĂM 2004:
Bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ nợ và chủ doanh nghiệp mắc nợ, khi doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản, tất cả các khoản nợ của doanh nghiệp sẽ được thanh toán
theo tỷ lệ tương ứng với số tài sản còn lại của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Như

8
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 vậy, mang lại sự công bằng cho các chủ nợ, tránh việc đòi nợ theo kiểu tự phát, làm
mất trật tự an ninh. Việc đòi nợ của các chủ nợ theo quy định của luật phá sản đảm
bảo tất cả các tài sản của doanh nghiệp đều được thu hồi và được định với mức giá cao
nhất. Thực hiện việc tuyên bố phá sản không những trả nợ một cách công bằng cho các
chủ nợ mà còn giải phóng con nợ khỏi những gánh nợ nần mà bản thân họ không thể
trả được, tạo điều kiện cho họ làm lại từ đầu. Luật doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày
1/7/2006 quy định chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn cho các loại hình doanh nghiệp
cũng như cho các nhà đầu tư thành viên, làm cho các nhà đầu tư dám đầu tư vào các
lĩnh vực có tính rủi ro cao nhưng mang lại nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên luật doanh
nghiệp cũng qui định chế độ chịu trách nhiệm vô hạn đối với chủ doanh nghiệp tư
nhân và thành viên hợp danh của công ty hợp danh mặc dù đã bị tòa án tuyên bố phá
sản. Khi bị phá sản, chủ doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh không được
miễn trách nhiệm trả nợ, mà xem như là một món nợ mà họ phải trả cho đến khi nào
hết thì thôi...Qui định như vậy sẽ tạo ra một sân chơi không bình đẳng ở các doanh

nghiệp, làm mô hình doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh không phát triển vì các
nhà đầu tư không đầu tư vào loại hình doanh nghiệp này để tránh trách nhiệm vô hạn.
Bảo vệ quyền lợi của người lao động, Luật phá sản quy định người lao động là
đối tượng được ưu tiên thanh toán tiền công lao động, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất
nghiệp theo qui định của pháp luật lao động trước các chủ nợ khác nhằm mục đích bảo
vệ quyền lợi cho họ. Người lao động không chỉ là người chịu thiệt thòi khi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản mà còn chịu thiệt thòi khi doanh nghiệp tuyên bố
phá sản. Khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản họ lo sợ mất việc làm, đến khi
doanh nghiệp tuyên bố phá sản, họ phải lo đi tìm công việc mới. Vì vậy có thể nói
người lao động là đối tượng chịu thiệt thòi nhất trong mọi sự thay đổi của doanh
nghiệp. Do đó, pháp luật nóichung và pháp luật phá sản nói riêng có các qui định để
làm giảm bớt các thiệt hại đó trong đó có thiệt hại do phá sản doanh nghiệp.
Góp phần bảo đảm trật tự xã hội, tạo môi trường an toàn, văn minh.

1.3.

NỘI DUNG BỘ LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004:

Luật phá sản được quốc hội thông qua ngày 15/6/2004 có hiệu lực thi hành ngày
15/10/2004, có 9 chương, 95 điều.
− Chương 1 về những quy định chung, gồm 12 Điều (từ Điều 1 đến Điều 12).
Trong chương trình này xác định đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản là doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, xác định khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản,xác định cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên

9
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 bố phá sản và vai trò của VKSND trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản

doanh nghiệp.
− Chương 2 về thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, gồm
19 Điều (từ Điều 13 đến Điều 32). Chương này quy định các chủ thể có quyền, nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, trách nhiệm của các chủ thể này trong việc
cung cấp đầy đủ các bằng chứng, tài liệu cần thiết của pháp luật đông thời quy định
trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp.
− Chương 3 ghi nhận về nghĩa vụ tài sản, gồm 10 Điều (từ Điều 33 đến Điều
42). Trong chương này chứa đựng những quy định về cách thức xác định nghĩa vụ tài
sản, cách thức xử lí các khoản nợ chưa đến hạn, nợ có bảo đảm, cũng như cách thức xử
lí tài sản khi giải quyết yêu cầu phá sản. Điểm quan trọng ở chương này là quy định ghi
nhận thứ tự ưu tiên thanh toán cho các khoản nợ khi phân chia tài sản của doanh
nghiệp bị phá sản.
− Chương 4 quy định các biện pháp bảo toàn tài sản, gồm 18 Điều( Điều 43
đến Điều 60).Chương này bên cạnh việc xác định rõ tài sản của con nợ còn quy định
những quyền và nghĩa vụ cụ thể của các cơ quan tố tụng cũng như các chủ nợ, con nợ,
ngân hàng và người lao động trong việc bảo toàn tài sản của con nợ nhằm ổn định tài
chính, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phục hồi hoặc giữ lại tài sản còn của doanh
nghiệp để đảm bảo cho việc thanh toán giữa các chủ nợ được công bằng và hợp lí trong
trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.
− Chương 5 quy định về hội nghị chủ nợ như là một giai đoạn quan trọng
trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, gồm 7 Điều( từ Điều 61 đến 67).
Chương này ghi nhận các vấn đề về quyền, nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ của các
chủ nợ cũng như những người có liên quan, điều kiện hợp lệ của hội nghị chủ nợ, nội
dung của hội nghị chủ nợ và hậu quả pháp lý có thể xảy ra nếu người tham gia hội nghị
chủ nợ vắng mặt…
− Chương 6 và chương 7 quy định về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã và thủ tục thanh lý tài sản và thủ tục tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.Đây là 2 chương quan trọng thể hiện sự tiến bộ so với
Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993. Nó thể hiện ở chỗ Luật phá sản năm 2004 đã đi

theo hướng quy định những thủ tục khác nhau, có tính độc lập tương đối với nhau để
Tòa án có điều kiện lựa chọn áp dụng cho phù hợp với tình hình cụ thể của mỗi doanh
nghiệp. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh được ghi nhận trong Mục 1 Chương 6
từ Điều 68 đến Điều 77, còn thủ tục thanh lý tài sản trong Mục 2 Chương này từ Điều

10
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 78 đến Điều 85. Các vấn đề liên quan đến vấn đề tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản
cũng như các vấn đề khiếu nại, kháng nghị các quyết định đó được quy định trong
Chương 7 từ Điều 86 đến Điều 92. Ngoài ra trong Luật phá sản còn có 2 Chương 3
Điều quy định về xử lí vi phạm và điều khoản thi hành. Nhìn chung, so với Luật phá
doanh nghiệp năm 2003 thì Luật phá sản năm 2004 có sự đổi mới quan trọng, phản ánh
đầy đủ hơn đáp ứng được nhiều yêu cầu hơn của kinh tế, pháp luật kinh tế nói chung và
tình hình phá sản doanh nghiệp ở nước ta nói riêng. Đông thời cũng phản ánh trình độ
kĩ thuật xây dựng và hoàn thiện pháp luật của nước ta trong thời gian qua đến nay nhất
là về vấn đề pháp luật phá sản.

1.4. CÁC YÊU CẦU MỞ THỦ TỤC PHÁ SẢN:
1.4.1.Nguyên tắc thanh lý tài sản và thanh toán nợ:
1.4.1.1.Nguyên tắc thanh toán khoản nợ:
Trong trường hợp không thể tiến hành được các hoạt động theo các qui định
trên, Thẩm phán ra quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản căn cứ vào Điều 78, 79, 80
và 81 LPS. Khi đó phương án phân chia tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản theo Điều 33, 34, 35, 36 và 37. Cụ thể như sau :
− Các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm mở thủ tục thanh lý tài sản được
xử lý như các khoản nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến
hạn.
− Các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, cầm cố được xác lập

trước khi Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ưu tiên thanh toán bằng tài sản
đó.
+ Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ thanh toán số nợ thì phần
nợ còn lại sẽ được thanh toán trong quá trình thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
+ Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch
được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
− Tài sản được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt để phục hồi hoạt động
kinh doanh nhưng không phục hồi được thì phải hoàn trả lại giá trị đó.

1.4.1.2.Thứ tự thanh toán các khoản nợ:
Việc phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp theo thứ tự sau đây:
1/ Phí phá sản.
2/ Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác
theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết.
3/ Các khoản nợ không có bảo đảm cho các chủ nợ. Nợ thuế Nhà nước cũng là
nợ không có bảo đảm. Trên nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản

11
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 nợ thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ
thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ theo tỷ
lệ tương ứng.
 Trường hợp tài sản còn lại sau khi đã thanh toán đủ các khoản nợ thuộc về
chủ sở hữu doanh nghiệp.
Ví dụ: Tài sản còn lại của doanh nghiệp A sau khi trả phí phá sản, các khoản nợ
lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác theo thỏa ước lao động
tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết là 2 tỷ đồng, tổng số nợ là 4 tỷ đồng, chủ nợ B
cho vay 2 tỷ, tương ứng là 50% số nợ, C cho vay 1 tỷ tương ứng tỷ lệ là 25%, D cho

vay 1 tỷ tương ứng tỷ lệ 25%. Số tiền thanh toán cho từng chủ nợ là B 1 tỷ; C 500
triệu, D 500 triệu.
 Căn cứ vào Điều 2 Nghị định 94/2005/NĐ-CP Về giải quyết quyền lợi
người lao động ở Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị phá sản có hướng dẫn các khoản nợ sau
đây phải thanh toán cho người lao động.
1. Tiền doanh nghiệp nợ người lao động:
a. Tiền lương, phụ cấp theo lương mà doanh nghiệp còn nợ người lao động tính
đến thời điểm người lao động nghỉ việc.
b. Trợ cấp thôi việc theo quy định của Bộ Luật Lao động.
c. Tiền chi phí y tế.
d. Tiền bồi thường hoặc trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
e. Các quyền lợi khác được ghi trong thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao
động.
2. Tiền nợ cơ quan Bảo hiểm xã hội là khoản tiền mà doanh nghiệp chưa đóng
hoặc đóng chưa đủ theo qui định. Trường hợp, giá trị tài sản của doanh nghiệp sau khi
trừ phí phá sản không đủ thanh toán các khoản nợ, thì người lao động và cơ quan bảo
hiểm xã hội được thanh toán các khoản doanh nghiệp nợ theo tỷ lệ tương ứng.
Trong quá trình tiến hành thủ tục thanh lý tài sản, doanh nghiệp, chủ nợ, người
mắc nợ có quyền khiếu nại, viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị theo qui định
pháp luật phá sản.

1.4.2.Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản và một vài
nhận định:
So với với tình hình thực hiện Luật PSDN năm 1993, tình hình thụ lý và giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp theo Luật Phá sản năm 2004 đã được
cải thiện nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn; hiệu quả giải quyết việc phá sản ở các cấp
Toà án vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn.

12
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012



Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 Theo báo cáo tổng kết của Toà án nhân dân tối cao, từ khi Luật Phá sản có hiệu
lực pháp luật đến nay, đã có 195 vụ phá sản được thụ lý. Tình hình thụ lý và giải quyết
đơn yêu cầu giải quyết phá sản là như sau:
− Năm 2005, toàn ngành Tòa án đã thụ lý mới 11 vụ. Năm 2004 chuyển qua 3
vụ, tổng cộng 14 vụ. Toà án đã giải quyết được 01 vụ (đạt 7,14%); còn tồn chuyển
sang năm 2006 là 13 vụ.
− Năm 2006, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 40 vụ; có 13 vụ từ năm 2005
chuyển qua, tổng cộng là 53 vụ. Đã giải quyết được 16 vụ, đạt tỷ lệ 30,2%.
− Năm 2007, toàn ngành Toà án đã thụ lý mới 144 vụ phá sản, trong đó, Toà án
nhân dân cấp tỉnh thụ lý 120 vụ, Toà án nhân dân cấp huyện thụ lý 24 vụ. Năm 2006
chuyển qua 31 vụ, tổng cộng là 175 vụ việc. Trong số đó, Toà án đã ra quyết định mở
thủ tục phá sản 164 vụ, quyết định không mở thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định trả lại
đơn 01 vụ. Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết xong tất cả 24 vụ đã thụ lý (đều ra
quyết định tuyên bố phá sản), đạt 100%. Còn lại 151 vụ phá sản do Toà án nhân dân
cấp tỉnh thụ lý được giải quyết như sau: quyết định trả lại đơn 01 vụ, quyết định không
mở thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định tuyên bố phá sản theo thủ tục đặc biệt 04 vụ,
quyết định đình chỉ thủ tục phá sản 10 vụ, quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản 75 vụ,
còn tồn lại 51 vụ đang được tiếp tục giải quyết.
Qua thực tiễn thi hành Luật Phá sản thời gian vừa qua, có thể rút ra một số nhận
xét sau đây:
Thứ nhất, tỷ lệ doanh nghiệp, HTX bị yêu cầu mở thủ tục phá sản còn ít, chưa
phản ánh đúng thực trạng tài chính thực tế của các chủ thể kinh doanh.
Luật Phá sản đã phát huy tác dụng trong việc lành mạnh hoá môi trường hoạt
động sản xuất, kinh doanh; khắc phục được một phần tình trạng nhiều doanh nghiệp
trên thực tế đã mất khả năng thanh toán đáng lẽ phải chấm dứt hoạt động nhưng vẫn
tồn tại, gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động của các doanh nghiệp khác như trước đây.
Qua kết quả giải quyết phá sản năm 2007 của Toà án nhân dân cho thấy, đã có sự
chuyển biến ngày càng tích cực trong việc thực thi Luật Phá sản. Tuy nhiên, so với hơn

nửa triệu doanh nghiệp, HTX đang hiện hữu, thì tỷ lệ doanh nghiệp, HTX bị yêu cầu
mở thủ tục phá sản là rất nhỏ, chưa phản ánh đúng tình trạng tài chính thực tế của các
doanh nghiệp, HTX. Tình trạng nhiều doanh nghiệp hoạt động thua lỗ nhưng không
được xử lý bằng thủ tục phá sản mà lại xử lý bằng thủ tục thu hồi nợ dân sự, thủ tục
hành chính và các thủ tục khác vẫn còn phổ biến. Trong tổng số 30 địa phương có báo
cáo (theo Công văn số 65/KT ngày 21/5/2008 của Toà án nhân dân tối cao) thì có đến

13
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 09/30 địa phương không thụ lý vụ việc phá sản nào. Trong số các địa phương có thụ lý
vụ việc phá sản thì số lượng rất khiêm tốn, tập trung ở một số địa phương như Hà Nội
(31 vụ), Hồ Chí Minh (27 vụ), Đà Nẵng (10 vụ), Thừa Thiên Huế (33 vụ), Đắc Lăk (11
vụ), Lâm Đồng (6 vụ),…
Thứ hai, quá trình tiến hành thủ tục phá sản còn bị kéo dài.
Từ khi Luật Phá sản có hiệu lực đến nay đã gần được 4 năm, nhưng ở hầu hết
các Tòa án địa phương việc giải quyết phá sản mới tiến hành đến việc ra quyết định mở
thủ tục thanh lý tài sản, còn việc ra quyết định tuyên bố phá sản là rất ít, chủ yếu là
quyết định tuyên bố doanh nghiệp, HTX bị phá sản trong trường hợp đặc biệt. Ví dụ:
Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng thụ lý 10 đơn yêu cầu, đã ra 10 quyết định mở thủ
tục thanh lý tài sản, có quyết định ra từ tháng 12/2004, nhưng cho đến đầu tháng
6/2008 vẫn chưa ra được quyết định tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp, HTX nào;
Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ra được 4 quyết định tuyên bố phá sản trong
số 27 việc phá sản đã thụ lý; Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế ra 28 quyết định
tuyên bố phá sản trong số 33 việc thụ lý. Trong đó, Tòa án nhân dân cấp huyện ra 27
quyết định tuyên bố HTX bị phá sản trong trường hợp đặc biệt.
Việc thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp còn
bị kéo dài như trên là do nhiều nguyên nhân mà trước hết là xuất phát từ những hạn chế
không chỉ của Luật Phá sản năm 2004 mà còn từ các văn bản hướng dẫn thi hành, và

các văn bản pháp luật có liên quan (sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau). Việc chấp
hành các quy định của pháp luật về giải quyết phá sản của doanh nghiệp và các bên
liên quan cũng chưa được tuân thủ một cách nghiêm túc (như vi phạm về thời hạn tố
tụng, vi phạm về nghĩa vụ nộp tài liệu, báo cáo về tình hình kinh doanh, báo cáo kiểm
kê, tài chính của doanh nghiệp ...). Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến
cho việc giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản bị kéo dài, gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, tình trạng chấp hành các quy định về chế độ tài chính - kế toán trong
các doanh nghiệp còn yếu kém là một trong những nguyên nhân làm suy giảm hiệu lực
của pháp luật phá sản.
Qua thực tiễn thi hành Luật Phá sản cho thấy, nhiều doanh nghiệp không tuân
theo những quy định về tài chính - kế toán hiện hành, sổ sách kế toán còn sơ sài, thậm
chí có những doanh nghiệp không có sổ sách kế toán, dẫn đến công nợ không rõ ràng,
gian dối về chứng từ kế toán. Sự không minh bạch về tài chính khiến cho Toà án rất
khó xác định tình trạng phá sản của doanh nghiệp, do đó, đã ảnh hưởng lớn đến tiến độ

14
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 giải quyết phá sản doanh nghiệp cũng như việc thi hành quyết định thanh lý tài sản của
doanh nghiệp.
Thứ tư, số lượng và năng lực của đội ngũ cán bộ (thẩm phán, chấp hành
viên ...) còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của công tác giải quyết phá sản doanh
nghiệp.
Việc giải quyết phá sản đòi hỏi mỗi thẩm phán không chỉ am hiểu sâu sắc về nội
dung Luật Phá sản mà còn về các lĩnh vực chuyên ngành khác như tài chính, ngân
hàng, quản lý kinh tế, kế toán thống kê và các ngành luật khác. Thực tế cho thấy, đội
ngũ thẩm phán, chấp hành viên còn hạn chế về trình độ, năng lực ở nước ta hiện nay đã
làm cho pháp luật phá sản chưa thực sự phát huy hiệu quả là một công cụ xử lý nợ.
Thứ năm, hiệu quả giải quyết phá sản còn kém; số nợ phải thu thấp hơn số nợ

phải trả, tỷ lệ thu hồi nợ rất thấp.
Đây cũng là lý do các chủ nợ không muốn thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, thay vào đó họ thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự để đòi nợ theo
thủ tục tố tụng dân sự sẽ hiệu quả hơn, vì nếu doanh nghiệp HTX còn tài sản, thì khi thi
hành án kết quả bán đấu giá tài sản không phải phân chia ... Ví dụ: trường hợp phá sản
Công ty thủy sản khu vực II Đà Nẵng: Số nợ phải thu 10.479.775.313 đ; số nợ phải trả
50.498.514.864 đ; số nợ đã thu 100.000.000đ., đạt tỷ lệ 0.95%.
Thứ sáu, tỷ lệ phục hồi doanh nghiệp sau khi mở thủ tục phá sản là rất thấp.
Luật Phá sản năm 2004 đã được xây dựng theo hướng là một công cụ nhằm
phục hồi doanh nghiệp, tuy nhiên, trên thực tế, Luật vẫn chưa phát huy được hiệu quả
này. Trong tổng số 30 địa phương có báo cáo về Toà án nhân dân tối cao thì chỉ có 01
vụ việc phá sản tại Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng được giải quyết với kết quả phục
hồi doanh nghiệp (Xí nghiệp Dâu Tằm tơ tháng tám).
Tính kém hiệu quả của Luật Phá sản đã làm ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh
doanh của nước ta. Theo kết quả công bố trong Doing Business 2008, về thủ tục chấm
dứt hoạt động kinh doanh (trong đó có thủ tục phá sản), Việt Nam xếp thứ 124 trên
tổng số 178 nền kinh tế thế giới; thủ tục phá sản vẫn bị coi là kéo dài (trung bình là 5
năm), hiệu quả thu hồi nợ thấp (thông thường chủ nợ chỉ thu hồi khoảng 18% số nợ).
Trong kết quả công bố tại Doing Business 2009 mới đây, tình hình này cũng không
được cải thiện hơn.

1.4.3.Áp dụng thủ tục phá sản đối với các đối tượng khác nhau:
1.4.3.1.Phân loại các hình thức phá sản:
15
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 Nếu căn cứ vào đối tượng có thể bị tuyên bố phá sản, có hai loại Phá sản cá nhân
và Phá sản doanh nghiệp. Cá nhân ở đây có thể là các chủ thể như chủ doanh nghiệp tư
nhân, cá nhân đăng ký kinh doanh, thành viên hợp doanh trong các công ty hợp danh…

Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng các khoản vay có nguy cơ không được thanh
toán, có hai loại Phá sản trong tiêu dùng và Phá sản trong kinh doanh. Phá sản trong
tiêu dùng xảy ra khi cá nhân bị vỡ nợ dân sự do vay mượn vì mục đích tiêu dùng.
Tương tự, phá sản trong kinh doanh xảy ra khi doanh nghiệp/ cá nhân lâm vào tình
trạng phá sản dùng khoản vay vào mục đích kinh doanh.
Nếu căn cứ vào tính chất của vụ phá sản, có hai loại Phá sản về hiệu quả kinh tế
và Phá sản về tài chính: 1) Phá sản về hiệu quả kinh tế là tình trạng các khoản lợi
nhuận ròng thu được từ hoạt động kinh doanh không tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ
ra. Mức lợi nhuận tương xứng ở đây được hiểu là mức lợi nhuận cơ hội tương ứng với
mức rủi ro của cuộc đầu tư đó. Một doanh nghiệp có thể bị lâm vào tình trạng phá sản
về hiệu quả kinh tế ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp đó không có bất cứ món nợ
nào. Bởi lẽ, đối tượng chính được đề cập trong hình thức phá sản này là lợi nhuận kinh
doanh được đo lường độc lập với chi phí trả lãi vay của doanh nghiệp; 2) Phá sản về tài
chính được dùng để chỉ một doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng không được thực hiện
các nghĩa vụ trả nợ mà nó đã cam kết với các chủ nợ theo đúng kỳ hạn. Một doanh
nghiệp bị thua lỗ liên tục trong kinh doanh (phá sản về hiệu quả kinh tế) sẽ bị gánh
nặng nợ nần chồng chất và sẽ dẫn tới tình trạng bị phá sản về tài chính.
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phá sản, có Phá sản trung thực và Phá sản man trá.
Phá sản trung thực là hậu quả khách quan và trực tiếp của tình trạng không thích ứng
của doanh nghiệp mắc nợ trước các đòi hỏi khắt khe và nghiệt ngã của thương trường
Tức là việc phá sản xuất phát từ những nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch
hoạ, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh, chênh lệch tỷ giá hối đoái… Phá sản man trá
hoàn toàn là hậu quả của những thủ đoạn, hành vi gian dối, có sự sắp đặt từ trước của
chủ doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt tài sản của các chủ
nợ. Chẳng hạn, con nợ gian lận trong việc ký kết các hợp đồng chuyển giao tài sản, báo
cáo sai hoặc đưa ra những thông tin không trung thực... Đây là một hành vi cạnh tranh
nguy hiểm và vì vậy thường được xử lý rất nghiêm khắc về mặt hình sự.
Nếu dựa vào cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp lý về phá sản, có Phá sản tự
nguyện (Voluntary Bankruptcy) và Phá sản bắt buộc (Involuntary Bankruptcy). Phá
sản tự nguyện là do chủ doanh nghiệp mắc nợ tự đề nghị khi thấy doanh nghiệp hoàn

toàn mất khả năng thanh toán, không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho các

16
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 chủ nợ. Phá sản bắt buộc được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của các chủ nợ, nằm ngoài
ý muốn chủ quan của doanh nghiệp mắc nợ.

1.4.3.2.Thủ tục phá sản:
• Thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản bao gồm:

Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;

Phục hồi hoạt động kinh doanh;

Thanh lý tài sản, các khoản nợ;

Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
• Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của
Luật này, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục quy định tại điểm b và
điểm c khoản 1 Điều này hoặc quyết định chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản:
Sau khi các đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu phá sản tại Toà án có
thẩm quyền. Toà án sẽ vào sổ thụ lý đơn, xem xét hồ sơ trong vòng 30 ngày kể từ ngày
nhận đơn và ra một trong hai quyết định: Quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn cứ
chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã đã lâm vào tình trạng phá sản; quyết định không
mở thủ tục phá sản khi không có căn cứ chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã đó lâm

vào tình trạng phá sản. Sau khi Tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản, tuỳ từng
trường hợp mà thẩm phán ra quyết định:
Thứ nhất, phục hồi hoạt động kinh doanh nếu xét thấy doanh nghiệp, hợp tác xã
còn có khả năng hồi phục và tiếp tục tồn tại nếu được sự hỗ trợ.
Thứ hai, Sẽ áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ mà không áp dụng
thủ tục phục hồi khi doanh nghiệp, hợp tác xã đó thua lỗ đã được nhà nước áp dụng
biện pháp đặc biệt để phục hồi nhưng không phục hồi được và không thanh toán được
các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu.
Thứ ba, tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nếu doanh nghiệp, hợp
tác xã không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản; hoặc chủ
doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản mà không còn tiền hoặc tài sản khác để nộp tạm ứng án phí. Đồng thời
Thẩm phán phải ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ
quản lý và thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ tư, phục hồi hoạt động kinh doanh: Trong thời gian 30 ngày kể từ lúc lập
xong danh sách chủ nợ, thẩm phán triệu tập Hội nghị chủ nợ, Hội nghị chủ nợ sẽ xem

17
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 xét và thông qua việc đồng ý hay không đồng ý cho doanh nghiệp, hợp tác xã phục hồi
hoạt động kinh doanh. Nếu doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện xong phương án
phục hồi hoặc được các chủ nợ đồng ý thì thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục
phục hồi kinh doanh và doanh nghiệp, hợp tác xã được coi là không còn lâm vào tình
trạng phá sản nữa.
Thứ năm, thanh lý tài sản và các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách theo
thứ tự được quy định tại Điều 37 luật Phá sản năm 2004.

1.4.4. Những tiến bộ của luật phá sản năm 2004 so với luật phá sản

doanh nghiệp năm 1993:
Thứ nhất, Luật đã đơn giản hoá khái niệm tình trạng phá sản nhằm tạo thuận lợi
cho việc mở thủ tục phá sản. Doanh nghiệp, HTX bị coi là lâm vào tình trạng phá sản
khi “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu”.
Như vậy, tiêu chí xác định tình trạng phá sản đã được quy định theo hướng ngắn gọn,
đơn giản mà không căn cứ vào thời gian thua lỗ, nguyên nhân của tình trạng thua lỗ
cũng như không đòi hỏi doanh nghiệp, HTX con nợ đã áp dụng các biện pháp để tự
cứu mình mà không đạt kết quả hay chưa như Luật PSDN năm 1993 đã từng quy định.
Thứ hai, Luật đã quy định rõ, đầy đủ và hợp lý hơn về các đối tượng có quyền,
nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình tự và hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản, cụ
thể là:
− Đơn giản hoá các điều kiện mà chủ nợ phải đáp ứng khi nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, không bắt chủ nợ phải cung cấp cho Toà án các giấy tờ, tài liệu để
chứng minh rằng, doanh nghiệp mắc nợ đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, chỉ
cần chứng minh chủ nợ đã đòi nợ nhưng không được doanh nghiệp mắc nợ thanh toán
nợ đến hạn.
− Xoá bỏ thời hạn nợ lương của doanh nghiệp, HTX đối với người lao động
như một điều kiện để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Người lao động có quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, HTX khi họ không được trả
lương cũng như các khoản nợ khác và trên cơ sở đó, họ cho rằng, doanh nghiệp, HTX
đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản.
− Quy định thời hạn mà chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp, HTX phải nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết phá sản đối với chính mình
(trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày nhận thấy mình đã lâm vào tình trạng phá sản) và
nếu vi phạm nghĩa vụ này thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật (Mặc
dù trách nhiệm gì thì Luật và Nghị định hướng dẫn Luật chưa quy định rõ).

18
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012



Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 − Mở rộng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho một số đối tượng
khác (chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, cổ đông công ty cổ phần và thành viên hợp
danh trong công ty hợp danh) nhằm tạo thêm các kênh mới để thúc đẩy việc làm đơn
yêu cầu giải quyết phá sản, góp phần chấm dứt tình trạng có doanh nghiệp thực chất đã
không thể hoạt động trên thực tế nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý.
Thứ ba, Luật đã quy định một nghĩa vụ pháp lý mới đối với các cơ quan (Toà án,
Viện Kiểm sát, Thanh tra nhà nước, cơ quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ
quan quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là chủ sở hữu nhà nước của
doanh nghiệp). Theo đó, trong quá trình thực thi công việc thuộc thẩm quyền, nếu phát
hiện rằng các doanh nghiệp, HTX đã lâm vào tình trạng phá sản thì các cơ quan, tổ
chức này có trách nhiệm thông báo về việc này nhằm tạo điều kiện cho các chủ nợ biết
mà thực hiện quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thứ tư, Luật đã đa dạng hoá các loại thủ tục áp dụng đối với doanh nghiệp, HTX
lâm vào tình trạng phá sản, bao gồm: (1) thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh, (2)
thủ tục thanh lý tài sản, (3) thủ tục tuyên bố phá sản. Sau khi thụ lý đơn yêu cầu và ra
quyết định mở thủ tục phá sản, Toà án sẽ xem xét, phân tích tình trạng tài chính và khả
năng phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, HTX để quyết định áp dụng thủ tục nào
cho phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp, HTX.
Thứ năm, Luật đã tăng cường các biện pháp bảo toàn tài sản của doanh nghiệp,
HTX lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo khả năng phục hồi cho doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Cụ thể là:
− Quy định các biện pháp nhằm ngăn chặn doanh nghiệp mắc nợ làm thất thoát
tài sản sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Toà án: nghiêm cấm doanh
nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản thực hiện một số hoạt động nhất định kể từ
ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản; quy định một số hoạt động của doanh
nghiệp, HTX sau khi nhận được quyết định mở thủ tục phá sản phải được sự đồng ý
bằng văn bản của Thẩm phán thì mới được thực hiện (Điều 31). Các giao dịch do
doanh nghiệp, HTX cố tình thực hiện có thể bị Toà án tuyên bố vô hiệu và tài sản của
doanh nghiệp, HTX chuyển giao trong các giao dịch vi phạm này sẽ bị thu hồi.

− Tuyên bố vô hiệu đối với một số giao dịch mà doanh nghiệp, HTX thực hiện
trong khoảng thời gian 3 tháng (Luật PSDN 1993 quy định là 6 tháng) trước ngày Toà
án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản với mục đích cất giấu, tẩu tán tài sản, gây
thiệt hại cho các chủ nợ (Điều 43, 44). Tài sản thu hồi được từ việc tuyên bố các giao
dịch nói trên phải được nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp, HTX.

19
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 − Bổ sung quy định xử lý các hợp đồng đang có hiệu lực của doanh nghiệp,
HTX (Điều 45, 46 và 47). Trong quá trình tiến hành thủ tục phá sản, nếu xét thấy việc
đình chỉ thực hiện hợp đồng đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có lợi
hơn cho doanh nghiệp thì chủ nợ, doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản, Tổ
trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu Toà án đình chỉ thực hiện hợp
đồng đó (Điều 45). Trường hợp tài sản mà doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá
sản nhận được từ hợp đồng vẫn còn tồn tại trong khối tài sản của doanh nghiệp, HTX
đó thì phía bên kia của hợp đồng có quyền đòi lại. Nếu tài sản đó không còn thì bên kia
của hợp đồng có quyền như một chủ nợ không có bảo đảm. Trường hợp việc đình chỉ
thực hiện hợp đồng đã gây ra thiệt hại cho bên đối tác của hợp đồng thì bên đó có
quyền như một chủ nợ không có bảo đảm đối với khoản thiệt hại do việc đình chỉ thực
hiện hợp đồng gây ra (Điều 47).
− Bổ sung quy định bù trừ nghĩa vụ giữa các chủ nợ với doanh nghiệp, HTX
lâm vào tình trạng phá sản. Theo quy định tại Điều 48, chủ nợ và doanh nghiệp, HTX
lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện việc bù trừ nghĩa vụ đối với những giao dịch
được xác lập trước khi có quyết định mở thủ tục phá sản.
− Quy định trách nhiệm của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong việc
thực hiện đăng ký giao dịch bảo đảm đối với các giao dịch của doanh nghiệp, HTX
(Điều 54).
− Quy định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo toàn tài sản của

doanh nghiệp, HTX. Tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền đề nghị Thẩm phán phụ
trách tiến hành thủ tục phá sản ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
để bảo toàn tài sản của con nợ theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
− Bổ sung trách nhiệm của ngân hàng, nhân viên và người lao động trong
doanh nghiệp, HTX bị mở thủ tục phá sản.
Thứ sáu, xử lý rõ mối quan hệ giữa thủ tục phá sản và các thủ tục khác có liên
quan.
− Về quan hệ giữa thủ tục phá sản và thủ tục tố tụng hình sự. Trong quá trình
tiến hành thủ tục phá sản, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Thẩm phán cung cấp
tài liệu (bản sao) cho Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét việc khởi tố về hình
sự và vẫn tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật này (Điều 8).
− Về quan hệ thủ tục phá sản và thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh
tế. Kể từ ngày Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản, việc giải quyết các vụ án có
liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản là
một bên đương sự trong vụ án đó sẽ bị đình chỉ và giao cho Toà án đang tiến hành thủ

20
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 tục phá sản giải quyết luôn (Điều 57). Toà án đang tiến hành thủ tục phá sản phải xem
xét, quyết định nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp, HTX lâm vào tình trạng phá sản phải
thực hiện hoặc nghĩa vụ tài sản mà bên kia đương sự phải thực hiện đối với doanh
nghiệp, HTX (khoản 1 Điều 58).
− Về quan hệ giữa thủ tục phá sản và thủ tục thi hành án dân sự cũng được Luật
Phá sản 2004 quy định đầy đủ và rõ ràng hơn. Theo cơ chế của Luật Phá sản mới thì
thủ tục thi hành các bản án, quyết định dân sự, kinh tế đã có hiệu lực pháp luật sẽ bị
tạm đình chỉ kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 27) và bị đình chỉ
kể từ ngày Toà án ra quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 57). Người được thi hành án
có quyền nộp đơn cho Toà án yêu cầu được thanh toán trong khối tài sản của doanh

nghiệp, HTX như một chủ nợ không có bảo đảm hoặc như một chủ nợ có bảo đảm, nếu
có bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật kê biên tài sản của doanh
nghiệp, HTX để bảo đảm thi hành án (Điều 57).

Chương 2: Thực trạng áp dụng luật phá sản năm 2004.
2.1.
TÌNH HÌNH PHÁ SẢN HIỆN NAY CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP:
Ban chỉ đạo Tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp năm 2012 (Tổng
cục thống kê) vừa tiến hành điều tra về thực trạng doanh nghiệp và tình hình khó khăn
của doanh nghiệp trên phạm vi cả nước.Cuộc điều tra thu thập thông tin phản ánh về
điều kiện sản xuất, những khó khăn trở ngại về các yếu tố liên quan tới sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm của khu vực doanh nghiệpSau gần một tháng triển khai, tính đến
29/4/2012, cơ quan điều tra đã thu được 8.373 phiếu gồm 319 doanh nghiệp nhà nước,
7.343 doanh nghiệp ngoài nhà nước và 711 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI).Kết quả của 8.373 doanh nghiệp cho thấy, sau 1 năm và 3 tháng vừa qua,
số doanh nghiệp thực tế còn hoạt động chiếm 91,6%; số doanh nghiệp phá sản, giải thể
và doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, đang hoàn thành thủ tục phá sản, giải thể
chiếm 8,4%.Trong ba loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp ngoài nhà nước phá sản,
giải thể chiếm tỷ lệ cao nhất với 9,2%; tiếp đến là khu vực doanh nghiệp nhà nước với
2,7% và thấp nhất là khu vực doanh nghiệp có vốn FDI với 2,6%.Tính theo địa
phương, đồng bằng sông Cửu Long là vùng có tỷ lệ doanh nghiệp phá sản, giải thể cao
nhất cả nước với 13,6%; tiếp đến là khu vực Tây Nguyên với 9,9%; Đông Nam Bộ
8,8%; Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung 8,2%; trung du và miền núi phía Bắc

21
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 7,2% và thấp nhất là vùng Đồng bằng sông Hồng 6%.Trong tổng số 706 doanh nghiệp

(8,4%) phá sản, giải thể thuộc diện điều tra có đến 69,4% doanh nghiệp phản ánh
nguyên nhân phá sản, giải thể là do sản xuất kinhh doanh thu lỗ; 28,4% doanh nghiệp
thiếu vốn để sản xuất kinhh doanh; 15,1% doanh nghiệp không tiêu thụ được sản
phẩm; 11,7% doanh nghiệp khó khăn về địa điểm sản xuất kinhh doanh; 4,4% doanh
nghiệp phải đóng cửa để thành lập doanh nghiệp mới, chuyển đổi ngành nghề sản xuất
và 4,7% doanh nghiệp đóng cửa để sáp nhập với doanh nghiệp khác.Trong số các
doanh nghiệp bị phá sản, giải thể có đến 89,7% doanh nghiệp phản ánh họ sẽ không
tiếp tục thành lập doanh nghiệp mới; 10,3% doanh nghiệp dự kiến sẽ tiếp tục thành lập
doanh nghiệp mới.Trong số doanh nghiệp phá sản, giải thể sẽ thành lập mới thì có
35,5% trả lời sẽ thành lập mới ngay trong năm 2012; 25,8% sẽ thành lập mới trong
năm 2013; 16,2% sẽ thành lập mới trong năm 2014 và 22,5% sẽ thành lập mới sau năm
2014.Thông tin về cuộc điều tra, Tổng cục Thống kê cho hay, cuộc điều tra được thực
hiện ngẫu nhiên, phân bổ đều theo quy mô lao động, đại diện cho toàn quốc, cho các
ngành kinh tế (nông, lâm và thủy sản; xây dựng, bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô
tô, xe máy và xe có động cơ khác; vận tải kho bãi; dịch vụ lưu trú và ăn uống; thông tin
và truyền thông) và cho 3 loại hình sở hữu của doanh nghiệp.Đối tượng điều tra bao
gồm 10.120 doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu, trong đó có 319 doanh nghiệp
nhà nước (chiếm 9,5% trong tổng số doanh nghiệp Nhà nước); 9.048 doanh nghiệp
ngoài nhà nước (chiếm 3% trong tổng số doanh nghiệp ngoài Nhà nước) và 753 doanh
nghiệp có vốn FDI (chiếm 9,5% trong tổng số doanh nghiệp FDI). Tuy nhiên, tính đến
29/4/2012, cơ quan điều tra chỉ mới thu được 8.373 phiếu.

2.2.
BẤT CẬP CỦA LUẬT PHÁ SẢN NĂM 2004:
2.2.1. Luật phá sản năm 2004 chưa làm rõ bản chất của thủ tục phá sản:
Thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt. Tính chất đặc biệt của đó đã được
đề cập đến ở phần trên. Về vấn đề này không có nhiều ý kiến khác biệt. Tuy nhiên, về
bản chất của thủ tục phá sản nhìn từ góc độ hoạt động của Tòa án thì còn có ý kiến
khác nhau. Quan điểm phổ biến hiện nay không nhìn nhận thủ tục phá sản như là một
thủ tục mà trong đó hoạt động của Tòa án là hoạt động thực hiện chức năng xét xử.

Đây cũng là quan điểm của Ban soạn thảo Luật tổ chức TAND2002. Nó được thể hiện
tại quy định “Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao
động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”
(Điều 1). Như vậy, theo quan điểm này thì “xét xử” và “giải quyết” là hai khái niệm
khác nhau. Quan điểm này đã được LPSDN 1993 tiếp thu và LPS 2004 tiếp tục kế

22
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 thừa. Việc phá sản không được thừa nhận như một tranh chấp pháp lý nên hoạt động
của Tòa án khi giải quyết phá sản không chịu sự chi phối của những nguyên tắc Hiến
định trong hoạt động xét xử của Tòa án. Đấy là các nguyên tắc như khi xét xử phải có
Hội thẩm nhân dân tham gia, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán, nguyên
tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Nội dung của những nguyên tắc này không
thể hiện trong các quy định của LPSDN 1993, LPS 2004. Trong thủ tục phá sản không
có sự hiện diện của Hội thẩm nhân dân và theo Luật thì việc phá sản có thể được giải
quyết bởi một thẩm phán. Tuy nhiên, bên cạnh đó Luật quy định quyết định tuyên bố
phá sản có thể bị kháng cáo, kháng nghị và quyết định của Tòa án cấp trên là quyết
định cuối cùng. Câu hỏi then chốt và có lẽ khó trả lời nhất đối với những người theo
quan điểm này là nếu Tòa án không xét xử, chỉ giải quyết việc phá sản thì Tòa án thực
hiện chức năng gì trong trong thủ tục phá sản? Theo Hiến pháp thì Tòa án là cơ quan
xét xử (Điều 127). Vậy phải chăng ngoài chức năng xét xử – chức năng hiến định, Tòa
án còn thực hiện các chức năng khác nữa?
Để làm rõ vấn đề này, theo chúng tôi, trước hết phải làm rõ yêu cầu tuyên bố phá
sản là gì? Đó có phải là một tranh chấp pháp lý hay không?
Yêu cầu tuyên bố phá sản là một tranh chấp pháp lý. Khi các chủ nợ thực hiện
quyền đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp ứng từ phía con nợ thì xuất
hiện xung đột lợi ích tài sản giữa chủ nợ với con nợ. Xung đột này là xung đột pháp lý,
bởi lẽ các quan hệ giữa con nợ và chủ nợ luôn là các quan hệ pháp luật nảy sinh trên cở

sở các hợp đồng khác nhau. Trong quan hệ hợp đồng giữa các bên vừa có sự thống
nhất lợi ích vì hợp đồng chỉ có thể giao kết khi các bên đều thấy có lợi, vừa có sự đối
lập lợi ích. Lợi ích của bên này phụ thuộc vào sự chấp hành các cam kết của phía bên
kia. Sự vi phạm, không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ nghĩa vụ của một bên
đương nhiên ảnh hưởng, vi phạm đến lợi ích của bên đối tác. Để có thể bảo vệ lợi ích
hợp pháp của mình, chủ nợ buộc phải liên hệ đến Tòa án với yêu cầu tuyên bố phá sản
con nợ, vì chỉ như vậy chủ nợ mới có thể thu hồi được nợ. Tại thời điểm Tòa án thụ lý
yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản là đã tồn tại xung đột hay tranh chấp pháp lý giữa
chủ nợ và con nợ. Trường hợp con nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu thì bản chất mối
quan hệ giữa con nợ và chủ nợ cũng không thay đổi, bởi lẽ con nợ chỉ nộp đơn khi tự
nhận thấy đang ở trong tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, có
nghĩa là con nợ đang trong tình trạng xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của các chủ nợ
(không trả được nợ đến hạn). Nói một cách khác là chủ nợ và con nợ đang trong tình
trạng xung đột lợi ích pháp lý. Còn tại Hội nghị chủ nợ các bên có thể chấp nhận hoặc

23
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 không chấp nhận kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh của con nợ thì đấy cũng là
hình thức hòa giải để giải quyết xung đột pháp lý giữa các bên. Điều này cũng giống
như hòa giải để giải quyết xung đột pháp lý giữa các bên đương sự để giải quyết tranh
chấp trong các thủ tục tư pháp khác. Việc phá sản là một tranh chấp pháp lý. Như vậy
bản chất của thủ tục phá sản là thủ tục giải quyết trước hết các xung đột hay tranh chấp
lợi ích pháp lý có tính chất tài sản giữa con nợ và chủ nợ.
Còn hoạt động của Tòa án khi giải quyết tranh chấp, xung đột pháp lý đó là gì?
Khi có yêu cầu tuyên bố phá sản thì Tòa án phải thụ lý khi người nộp đơn đáp ứng đủ
điều kiện theo luật định. Tiếp theo đó Tòa án phải giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản,
tức là xem xét yêu cầu đó có chính đáng hay không, nghĩa là có căn cứ và có đúng là
con nợ mất khả năng thanh toán hay không? Tòa án phải căn cứ vào các bằng chứng,

tài liệu do các bên cung cấp để trả lời câu hỏi đó. Nội dung thứ nhất mà Tòa án phải
thực hiện là khẳng định có hay không tình trạng “mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn”. Nếu Tòa án xác định con nợ đã mất khả năng thanh toán thì tùy thuộc
từng trường hợp cụ thể Tòa án căn cứ vào các quy định của Luật có thể ra quyết định
áp dụng thủ tục phục hồi hoặc thủ tục thanh lý, tuyên bố con nợ bị phá sản. Hai hoạt
động quan trọng trên của Tòa án trong thủ tục phá sản chính là nội dung cốt lõi của
khái niệm xét xử. Vậy “hoạt động xét xử” có những đặc trưng gì? Trước hết đó là việc
tìm kiếm, xác định và minh định cho sự kiện xảy ra. Và trên cơ sở sự kiện khách quan
xảy ra trong mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ, “chủ thể của hoạt động tư pháp phải
đưa ra được những đánh giá pháp lý cho các sự kiện đó”6. Như vậy, việc phá sản là
một tranh chấp pháp lý và giải quyết phá sản là một hình thức thực hiện chức năng xét
xử của Tòa án.
Quan niệm này sẽ có thể làm thay đổi nhiều nội dung của thủ tục phá sản theo
hướng mở rộng tính công khai, tranh tụng giữa các bên có lợi ích đối lập nhau như là
một tiền đề khách quan cần thiết cho các quyết định đúng pháp luật, có căn cứ của Tòa
án. Ví dụ, quyết định mở hay không mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
của Tòa án cần được thực hiện trong hình thức phiên tòa công khai, có sự hiện diện của
bên yêu cầu tuyên bố phá sản và bên còn lại (tùy thuộc ai là người đã nộp đơn yêu
cầu), có sự tham gia của người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ, các bên có quyền
trình bày ý kiến của mình theo thể thức tranh tụng trước khi Tòa án ra quyết định của
mình, v.v..

2.2.2. Về khái niệm phá sản:
24
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


Thực tiễn áp dụng Luật phá sản năm 2004 Mặc dù khái niệm này có sự hoàn thiện hơn so với LPSDN 1993 nhưng vẫn còn
hạn chế ở tính thiếu triệt để của nó. Điều 3 LPS 2004 không quy định rõ số nợ và thời
gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con

nợ chỉ cần mắc nợ số tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 01 ngày sau khi chủ nợ
có đơn yêu cầu đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có
thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía các chủ nợ.
Kinh nghiệm của một số nước khi xây dựng khái niệm phá sản theo trường phái định
lượng thì thường có quy định về số nợ cụ thể, về thời hạn trễ hạn thanh toán nợ từ phía
con nợ sau khi chủ nợ có yêu cầu đòi nợ. Ví dụ như Luật Phá sản của Liên bang Nga
quy định số nợ không thấp hơn 100.000 rúp với chủ nợ là pháp nhân và 10.000 rúp với
chủ nợ là cá nhân. Theo Luật Công ty của Úc chủ nợ có thể yêu cầu Tòa án ra quyết
định bắt đầu thủ tục thanh toán tài sản của một công ty vì lý do vỡ nợ nếu công ty đó
có một khoản nợ đến hạn ít nhất là AUD $2000 và công ty không chứng minh được
khả năng trả khoản nợ đến hạn đó.7
Thuật ngữ “các khoản nợ” trong Điều 3 không được giải thích. Phân tích Điều
37 cho thấy “các khoản nợ” được hiểu là các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp hình
thành từ các hợp đồng dân sự, thương mại và lao động. Còn các khoản nợ thuế, các
nghĩa vụ tài sản khác như nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, nghĩa vụ thanh
toán các khoản phạt hành chính… của doanh nghiệp không được đề cập đến. Vậy giải
quyết các nghĩa vụ có tính chất tài sản này của doanh nghiệp như thế nào khi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản?

2.2.3. Về các loại chủ nợ:
Luật chỉ phân biệt chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không bảo đảm, chủ nợ có bảo
đảm một phần (Điều 6). Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trong
thủ tục phá sản. Chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm có quyền và nghĩa vụ
khác nhau trong quá trình tham gia vào thủ tục phá sản. Điều này thấy rõ trong so sánh
về quyền và nghĩa vụ giữa chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ không có bảo đảm. Về nguyên
tắc, LPS 2004 đã thể hiện tinh thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn
so với chủ nợ không có bảo đảm. Đó là lẽ đương nhiên. Nếu lợi ích của chủ nợ không
có bảo đảm không được bảo vệ trong thủ tục phá sản thì bản thân chế định bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ của Bộ luật Dân sự sẽ không còn ý nghĩa. Tuy nhiên một số quy
định của LPS 2004 không phù hợp với tinh thần chủ đạo đó. Cụ thể, ngay từ khi có

quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh toán nợ đến
hạn của chủ nợ có bảo đảm đã bị hạn chế – bị tạm đình chỉ cho đến khi có quyết định

25
Tp. HCM, ngày 4 tháng 6 năm 2012


×