Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.76 KB, 32 trang )

Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

NỘI DUNG
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN SINH THÁI
1.
Khái niệm Nhãn sinh thái và Chương trình Cấp nhãn sinh thái
2.
Những yêu cầu cơ bản về Nhãn sinh thái cho sản phẩm đáp ứng các tiêu
chuẩn môi trường và Những nguyên tắc cơ bản cho một Chương trình Cấp nhãn sinh thái
3.
Vai trò của Nhãn sinh thái
4.
Quy trình cấp Nhãn sinh thái
5.
Một số biểu tượng Nhãn sinh thái
II/ CHƯƠNG TRÌNH NHÃN SINH THÁI TRÊN THẾ GIỚI
1.
Lịch sử ra đời và phát triển
2.
Chương trình Nhãn sinh thái ở 1 số nước trên thế giới
3.
Kết quả
III/ CHƯƠNG TRINHG NHÃN SINH THÁI Ở VIỆT NAM
1.
Biểu tượng Nhãn sinh thái Việt Nam
2.
Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam


3.
Kết quả
IV/ BÌNH LUẬN CỦA NHÓM : KINH NGHIỆM THẾ GIỚI – BÀI HỌC VỚI VIỆT
NAM
V/ KIẾN NGHỊ - GIẢI PHÁP
C/ KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Luật Môi trường

1


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

BÀI LÀM
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Bước sang thế kỷ XXI các vấn đề về môi trường đang trở nên ngày càng nghiêm trong, đe
dọa trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của loài người. Hầu như tất cả các nước trên thế giới đều
chịu những tác động xấu từ môi trường . Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường
đã thực sự trở thành một yếu tố gắn liền với cuộc sống con người. Để quản lý và bảo vệ môi
trường bên cạnh các công cụ Pháp luật, truyền thông , giáo dục…….nhiều quốc gia đã sử dụng
công cụ kinh tế mang tính mềm dẻo hơn, trong đó sử dụng Nhãn sinh thái là 1 biện pháp thuộc
nhóm công cụ kinh tế nhằm khuyến khích người tiêu dùng và nhà sản xuất bảo vệ môi trường
thông qua việc sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm thân thiện với môi trường. Với cách tiếp cận
này nhiều quốc gia đã có các quy định riêng cho mình về Nhãn sinh thái, các công ty – doanh
nghiệp cũng thay đổi chiến lược sản xuất tạo ra các sản phẩm thân thiện với môi trường để thu hút
khách hàng bởi họ nhận thấy người tiêu dùng đang dần thay đổi nhu cầu sang các loại sản phẩm

tiêu dùng ít gây ô nhiễm môi trường . Thực tế cho thấy rằng nhãn sinh thái đã trở thành một trong
những công cụ kinh tế quan trọng để quản lý và bảo vệ môi trường hiện nay. Bên cạnh việc ra đời
của các sản phẩm “Xanh” thì các tổ chức làm nhiệm vụ xây dựng tiêu chí, giám định và cấp nhãn
sinh thái cho các sản phẩm thân thiện với môi trường cũng ra đời, điều này đã đáp ứng được yêu
cầu của sự phát triển bền vững cũng như yêu cầu của người tiêu dùng.
Bên cạnh các chương trình nhãn sinh thái của các nước phát triển thì hiện nay ở các nước
đang phát triển cũng đã và đang xây dựng Chương trình Nhãn sinh thái, trong đó có Việt Nam.
Dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa vấn đề ô nhiễm môi trường ở
Việt Nam ngày càng gia tăng đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp bảo vệ, đồng thời theo xu
thế chung của toàn cầu hướng đến các sản phẩm ít gây ô nhiễm môi trường, nhận thấy được Nhãn
sinh thái là công cụ đáp ứng được các vấn đề trên, từ năm 2009 Việt Nam đã xây dựng và thực
hiện Chương trình nhãn sinh thái. Có thế thấy rằng Nhãn sinh thái hiện nay đang giữ vai trò vô
cùng quan trọng đối với môi trường và kinh tế, kéo theo đó các điều kiện để các sản phẩm được
dán nhãn sinh thái cũng khắt khe hơn.
Vậy Nhãn sinh thái là gì? Những yêu cầu cơ bản đối với Nhãn sinh thái? Thực tế áp dụng
nhãn sinh thái ở một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam như thế nào?
Bài viết của Nhóm sẽ phân tích và đánh giá vấn đề này.
Nhãn sinh thái là một vấn đề tương đối mới ở Việt Nam do đó trong quá trình tìm hiểu và
viết bài Nhóm không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến, nhận xét, góp ý của
Cô và các bạn. Nhóm xin chân thành cảm ơn !
B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHÃN SINH THÁI ( NST )
1. Khái niệm Nhãn sinh thái và Chương trình Cấp nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái (hay còn gọi là nhãn xanh, nhãn môi trường) có thể được hiểu là các nhãn
mác của sản phẩm, dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng về sự thân thiện với môi
trường hơn so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại. Nói một cách khác, Nhãn sinh thái (Ecolabel)
là sự công bố bằng lời hoặc ký hiệu hay sơ đồ nhằm chỉ ra các thuộc tính môi trường của sản
phẩm và dịch vụ. Qua đó, người tiêu dùng và khách hàng có nhiều thông tin hơn về các tác động
của sản phẩm hoặc dịch vụ đối với môi trường và sức khoẻ con người, và họ ngày càng có nhận


Luật Môi trường

2


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

thức cao hơn đối với những vấn đề môi trường. Hiện nay Nhãn sinh thái đang được sử dụng phổ
biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Mục đích của nhãn sinh thái là khuyến khích việc sản xuất và
tiêu dùng những sản phẩm thân thiện với môi trường, xây dựng ý thức bảo vệ môi trường trong xã
hội gắn với lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp.
Sự ra đời của nhãn sinh thái có mục đích giúp cho người tiêu dùng nhận biết được những
tính năng thân thiện với môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ, để từ đó đưa ra sự lựa chọn của
mình. Nếu như sản phẩm được cấp nhãn sinh thái càng ngày càng được nhiều người tiêu dùng lựa
chọn thì điều đó chứng tỏ nó đã khuyến khích các công ty thay đổi quá trình công nghệ nhằm đáp
ứng được các tiêu chí môi trường và yêu cầu của người tiêu dùng, hay nói một cách khác là đạt
được kết quả sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Năm 1993, sau khi bộ tiêu chuẩn ISO 9000 (Bộ tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng và quản lý
chất lượng) đạt được những thành công và được chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới, ISO bắt đầu
hướng tới lĩnh vực Quản lý môi trường và đã thành lập Uỷ ban TC 207 để xây dựng các tiêu chuẩn
về quản lý môi trường. Phạm vi cụ thể của TC 207 là tiêu chuẩn hoá trong lĩnh vực các công cụ và
hệ thống quản lý môi trường.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 là một bộ tiêu chuẩn tự nguyện quốc tế chỉ ra các khía cạnh khác
nhau của việc quản lý môi trường. Tiêu chuẩn về Nhãn sinh thái là nhóm tiêu chuẩn nằm trong bộ
tiêu chuẩn ISO 14000. Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế ISO đã xác định mục đích chung của nhãn
và các công bố môi trường như sau: “... Thông qua việc trao đổi các thông tin chính xác về môi
trường của sản phẩm hoặc dịch vụ, nhằm khuyến khích các đòi hỏi cung cấp những sản phẩm hoặc
dịch vụ gây tác động xấu lên môi trường ít nhất và nhờ đó nâng cao tiềm năng đối với việc cải

thiện môi trường một cách liên tục theo định hướng thị trường.”
Theo Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế ISO, nhãn sinh thái chia thành 3 loại sau:
- Loại I (ISO 14024:1999): Là chương trình tự nguyện, dựa trên các tiêu chí của bên thứ ba
nhằm cấp chứng nhận uỷ quyền sử dụng nhãn môi trường cho các sản phẩm thể hiện được sự thân
thiện với môi trường nói chung theo loại hình cụ thể dựa trên việc xem xét chu trình sống của sản
phẩm.
- Loại II (ISO 14021:1999): Là sự tự công bố về môi trường mang tính chất thông tin.
- Loại III (ISO 14025:2000): Là chương trình tự nguyện được lượng hoá bằng các dữ liệu
về sản phẩm dưới các loại chỉ tiêu do Bên thứ ba có trình độ chuyên môn về sản phẩm định trước
và dựa trên sự đánh giá chu trình sống của sản phẩm và được một bên thứ ba có trình độ chuyên
môn khác xác nhận.
Điểm chung của cả 3 loại này là đều phải tuân thủ 9 nguyên tắc được nêu trong tiêu chuẩn
ISO 14020 : 1998, trong đó điểm mấu chốt là các thông tin đưa ra phải khoa học, chính xác và dựa
trên kết quả của quá trình đánh giá vòng đời sản phẩm, các thủ tục phải không cản trở cho hoạt
động thương mại quốc tế. Các nguyên tắc này bao gồm:

Luật Môi trường

3


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Công bố môi trường và nhãn minh trường phải chính xác, có thể kiểm tra
xác nhận được, thích hợp và không gây hiểu lầm

Các thủ tục trong việc công bố, sử dụng, áp dụng không được gây trở ngại
trong thương mại quốc tế


Việc công bố phải dựa trên phương pháp luận khoa học hoàn chỉnh, tạo kết
quả chính xác

Thông tin về chuẩn cứ, phương pháp luận để chứng minh nhãn phải sẵn có
và cung cấp khi có yêu cầu từ bên hữu quan

Tính đến các khía cạnh môi trường liên quan đến chu trình sống của sản
phẩm khi công bố

Không gây kìm hãm sự đổi mới về việc cải thiện kết quả hoạt động về môi
trường

Hạn chế tối thiểu các yêu cầu mang tính hành chính hoặc các đòi hỏi không
hợp lý trong việc sử dụng nhãn

Quá trình xây dựng chuẩn cần có sự tham gia của các bên hữu quan

Sẵn có thông tin về khía cạnh môi trường của sản phẩm/dịch vụ cho khách
hàng


Điểm khác nhau cơ bản giữa 3 loại nhãn là cách thức công bố.Với nhãn Loại II, nhà sản
xuất tự nghiên cứu, đánh giá và tự công bố nhãn cho mình, còn với nhãn Loai I và Loại III, việc
công bố phải được bên thứ 3 chứng nhận, riêng nhãn loại III, các thông số môi trường của sản
phẩm còn phải được thông báo rộng rãi trong Báo cáo kỹ thuật.
Nhãn sinh thái (Ecolabel) thuộc loại I . Đến nay, Nhãn loại I là loại được áp dụng phổ nhất
với trên 40 quốc gia tham gia với các tên gọi khác nhau như: Dấu Xanh (Green Seal) ở Mỹ; Sự lựa
chọn Môi trường (Environmental choice), Biểu trưng sinh thái ở Canada, Ôxtrâylia, Niu Di Lân...;
Dấu Sinh thái (Ecomark) ở Nhật, Ấn Độ...; Nhãn Xanh (Green Mark/Label) ở EU, Hàn Quốc,

Singapo, Thái Lan... Tại 4 nước dẫn đầu là Mỹ, Canada, Nhật và Hàn Quốc, có khoảng 20 - 30%
sản phẩm có hoạt động môi trường tốt nhất được cấp giấy chứng nhận nhãn môi trường loại I ( Số
liệu thống kê tại Trung Tâm Năng suất Việt Nam – vpc.org.vn).
Về nguyên tắc, nhãn sinh thái tuân thủ phương thức tiếp cận đa tiêu chí và theo chu trình
sống của sản phẩm nhằm mục đích thông tin cho người tiêu dùng về việc giảm thiểu một cách
thực sự các sức ép về môi trường. Bên cạnh vai trò thông tin cho người tiêu dùng, nhãn sinh thái
còn khuyến khích các nhà sản xuất thực hiện các hoạt động môi trường tốt hơn trên cơ sở giảm
thiểu các tác động môi trường, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên, giảm tiêu thụ năng lượng, giảm sử
dụng tài nguyên thiên nhiên v.v..Nhãn sinh thái là một trong các biện pháp nhằm thông tin và giáo
dục người tiêu dùng về các lợi thế môi trường của sản phẩm, đồng thời có thể tạo ra các áp lực đòi
hỏi và khuyến khích đổi mới dẫn tới việc giảm các tác động môi trường trong sản xuất và tiêu thụ.
Hiện nay, các tổ chức quốc tế có rất nhiều định nghĩa khác nhau về nhãn sinh thái, chủ yếu
được đưa ra dựa trên chức năng mà tổ chức đó xem là chức năng chính của nhãn sinh thái :
+ GEN có định nghĩa về nhãn sinh thái như sau: “là nhãn chỉ ra tính ưu việt về mặt môi
trường của một sản phẩm, dịch vụ so với các sản phẩm, dịch vụ cùng loại dựa trên đánh giá vòng
đời sản phẩm”.

Luật Môi trường

4


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

+ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Ngân hàng Thế giới (WB) lại xem nhãn sinh
thái là “một công cụ chính sách do các tổ chức phát hành ra để truyền thông và quảng bá tính ưu
việt tương đối về tác động tới môi trường của một sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại”.
+ Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) lại đưa ra khái niệm: “Nhãn sinh thái là sự khẳng

định, biểu thị thuộc tính môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ có thể dưới dạng một bản công bố,
biểu tượng hoặc biểu đồ trên sản phẩm hoặc nhãn bao gói, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ
thuật, quảng cáo hoặc các hình thức khác”.
Dù được hiểu theo cách nào, Nhãn sinh thái đều cho thấy mức độ giảm thiểu tác động xấu
của sản phẩm đến môi trường trong tất cả các giai đoạn hoặc trong một giai đoạn vòng đời sản
phẩm, từ lúc khai thác nguyên, nhiên liệu để làm đầu vào cho quá trình sản xuất đến quá trình sản
xuất, đóng gói, sử dụng và loại bỏ sản phẩm đó. Nhãn sinh thái chỉ được cấp cho những sản phẩm
ít tác động xấu đến môi trường nhất so với các sản phẩm khác có cùng chức năng. Về bản chất,
nhãn sinh thái là một thông điệp truyền tải tính ưu việt đối với môi trường của sản phẩm.
Nói cách khác, không giống với các tuyên bố môi trường Loại III với nội dung đưa ra các
dữ liệu môi trường được lượng hóa, Nhãn sinh thái ( Loại I ) thể hiện sự công nhận năng suất môi
trường ưu việt của sản phẩm; nó đánh dấu sản phẩm có tính ưu việt môi trường cao trên thị trường
so với các sản phẩm cùng loại không được dán nhãn, chứ không buộc người xem phải phân tích
tuyên bố môi trường trên các sản phẩm khác nhau để đưa ra kết luận của riêng mình.
Sự ra đời của nhãn sinh thái có nguồn gốc từ mối lo ngại toàn cầu ngày một tăng về vấn đề
bảo vệ môi trường được chia sẻ bởi cộng đồng và ngày càng trở thành 1 gánh nặng lên các chính
phủ và doanh nghiệp. Sau đó, tại các quốc gia phát triển, các cơ sở kinh doanh thương mại nhận
thấy rằng họ có thể biến mối quan tâm này của thị trường thành cơ hội kinh doanh cho những sản
phẩm được bán kèm với những tuyên bố, nhãn mác như “có thể tái chế”, “thân thiện với môi
trường”, “chi phí năng lượng thấp”, v.v. Những sản phẩm này sẽ thu hút một bộ phận khách hàng
mong muốn thỏa mãn nhu cầu mua sắm của họ mà không làm trầm trọng thêm thiệt hại môi
trường do việc sản xuất sản phẩm gây ra. Tuy nhiên, nếu không có sự kiểm soát, việc dán nhãn
này có nguy cơ cung cấp thông tin sai lệch cho người dùng, làm rối loạn thị trường. So với khẳng
định của nhà sản xuất được dán nhãn trên sản phẩm, người tiêu dùng lại có sự tin tưởng hơn với
tiêu chuẩn điều tra và cấp nhãn của bên thứ ba vì tính khách quan của các tổ chức này, dần dần đã
dẫn tới sự thành lập các tổ chức công lẫn tư với chức năng cấp nhãn môi trường. Hoạt động này
dần được biết đến với cái tên chương trình cấp nhãn sinh thái, hoạt động trên cả phạm vi quốc gia
lẫn khu vực.
Dán nhãn sinh thái là một phương pháp để công nhận sự thân thiện với môi trường được
thực hiện trên thế giới. Một “nhãn sinh thái” đánh dấu một sản phẩm đáp ứng những tiêu chuẩn

hoặc chỉ tiêu về môi trường nhất định. Khác với những biểu tượng xanh hay những lời tuyên bố
của nhà sản xuất hàng hoá và dịch vụ, một nhãn sinh thái được một tổ chức thứ ba trao cho những
sản phẩm và hàng hoá được xác định là đáp ứng các chỉ tiêu môi trường nhất định. Ví dụ như khi
nhận biết hay mua một sản phẩm có nhãn ENERGY STAR®, người mua biết rằng sản phẩm đáp
ứng được tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng của EPA.
Chương trình cấp nhãn sinh thái được là một trong các công cụ kinh tế nhằm cải thiện
môi trường được sử dụng ngày càng rộng rãi để khuyến khích người tiêu dùng tiếp cận và sử dụng
các sản phẩm thân thiện với môi trường, ngoài ra còn là một công cụ marketing có hiệu quả cho
sản phẩm.

Luật Môi trường

5


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Có nhiều hệ thống chương trình cấp nhãn sinh thái khác nhau trên thế giới đã tồn tại hoặc
đang được phát triển các chính phủ, các tổ chức phi lợi nhuận hay vì lợi nhuận. Hiện nay rất nhiều
loại sản phẩm, từ sơn, giấy, đến đồ điện tử đã được đánh giá bởi các tổ chức dán nhãn sinh thái
trên thế giới; nhiều nước có hệ thống dán nhãn sinh thái được chính phủ phê chuẩn bao gồm cả đồ
điện tử trong các sản phẩm được dán nhãn.
Phạm vi áp dụng và các vấn đề được đề cập đến của các chương trình nhãn sinh thái khác
nhau. Có những chương trình có trọng tâm hẹp, chẳng hạn như chỉ tập trung vào 1 ngành công
nghiệp (phát triển rừng, hóa học,..), hay chỉ đề cập tới 1 vấn đề môi trường (chất lượng không khí,
tiết kiệm năng lượng,..), hay chỉ xem xét 1 giai đoạn trong vòng đời của sản phẩm (giai đoạn sử
dụng, giai đoạn thải bỏ, tái chế, v.v). Vòng đời của sản phẩm bao gồm từ giai đoạn khai thác tài
nguyên, sản xuất, phân phối, sử dụng tới loại bỏ hoặc tái chế,.. Trong giai đoạn sử dụng còn có các

yếu tố như sử dụng năng lượng, tài nguyên, cách phát thải vào trong không khí, nước, đất, tác
động đến sức khỏe của con người và môi trường,.. Mỗi giai đoạn vòng đời đều có những tiêu
chuẩn quy định riêng.
Ngoài ra cũng có 1 số chương trình không chỉ xoay quanh các khía cạnh hiệu suất môi
trường. Ví dụ, ENERGY STAR tập trung vào việc sử dụng năng lượng trong vận hành thiết bị,
trong khi các nhãn sinh thái khác đề cập đến vấn đề môi trường trong vòng đời sản phẩm và có
những nhãn sinh thái lại bao gồm các vấn đề về sức khoẻ, sự an toàn và lao động. Người mua
hàng có thể dựa trên chương trình nhãn sinh thái mà đưa ra quyết định mua hàng cho phù hợp với
các mối quan tâm nhất định của họ. Các tổ chức cũng có thể sử dụng nhãn sinh thái hoặc các tiêu
chuẩn bảo vệ môi trường tự nguyện khác cùng các công cụ kiểm chứng, để ra quyết định mua
hàng và mua các sản phẩm “xanh” hơn. Ví dụ, nhãn sinh thái hoặc các chứng nhận có thể sử dụng
như là tiêu chuẩn tối thiểu khi đưa ra giá cả hoặc để chọn giữa hai sản phẩm có các tiêu chuẩn
khác hoàn toàn tương tự nhau.
Trên đây là sự khác biệt giữa khái niệm Nhãn sinh thái và Chương trình Cấp nhãn sinh
thái. Ứng với mỗi khái niệm có những yêu cầu và nguyên tắc nhất định.
2. Những yêu cầu cơ bản về nhãn sinh thái cho sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn
môi trường và Những nguyên tắc cơ bản cho 1 chương trình cấp nhãn sinh thái:
2.1. Những yêu cầu cơ bản về Nhãn sinh thái cho sản phẩm đáp ứng các tiêu
chuẩn môi trường
Nhãn sinh thái phải được phản ánh chính xác, trung thực và có thể xác minh được
Lợi ích của nhãn sinh thái chỉ tồn tại khi nhãn sinh thái thật sự có được sự tín nhiệm, tin
tưởng của người tiêu dùng. Người tiêu dùng chỉ thật sự không hoài nghi khi những công bố về
khía cạnh, lợi ích môi trường của sản phẩm được chứng thực bằng khía cạnh, lợi ích môi trường
của sản phẩm được chứng thực bằng những phương pháp, phương tiện khoa học tiên tiến, hiện
đại. Đó là những phương pháp được thừa nhận trên phạm vi quốc tế, khu vực hoặc quốc gia, hoặc
được đưa ra xem xét để công nhận dùng trong công nghiệp hoặc thương mại. Đồng thời, những
phương pháp và phương tiện khoa học tiên tiến, hiện đại này cũng phải đảm bảo xác định được
chính xác các khía cạnh và lợi ích môi trường của sản phẩm.
Nhãn sinh thái không được gây ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng
Nhãn sinh thái phải đơn giản, dễ hiểu; những điểm về nội dung khi được công bố phải rõ

ràng; biểu tượng, biểu đồ không được quá phức tạp. Trong thực tế, ISO thừa nhận sự tồn tại của
nhiều nhãn sinh thái trên cùng một sản phẩm. Điều này dễ dẫn đến những hiểu nhầm hoặc khó

Luật Môi trường

6


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

hiểu cho người sử dụng. Do đó, nhãn sinh thái cần phải dễ hiểu, hình thức truyền tải thông tin phải
hợp lý để người tiêu dùng có nhận thức đúng đắn về nhãn. Khi cần thiết, để tránh sự hiểu nhầm
của người tiêu dùng, nhãn sinh thái phải có lời giải thích chi tiết đi kèm.
Nhãn sinh thái có thể so sánh
Ngoài một số nhãn sinh thái được xây dựng trên những tiêu chí có thể so sánh, ví dụ hàm
lượng tái chế nhiều hơn 10%...nhưng có những nhãn sinh thái không được xây dựng theo kiểu như
vậy. Tuy nhiên, những nhãn sinh thái này vẫn phải có khả năng so sánh được, vì phải đảm bảo
được tính nổi trội về môi trường so với các sản phẩm có cùng chức năng.
Nhãn sinh thái không được tạo ra những rào cản không cần thiết cho hoạt động
thương mại
nhãn sinh thái được thiết kế cho loại sản phẩm cụ thể, trong điều kiện về phạm vi, thời
gian và không gian khác nhau; quy trình, thủ tục và phương pháp thực hiện khác nhau nên sẽ dẫn
đến những sự khác biệt về tiêu chuẩn, trong việc chứng nhận và cấp nhãn. Do đó, sự thừa nhận lẫn
nhau của nhãn sinh thái ở một khía cạnh hay toàn bộ quy trình được khuyến khích nhằm giảm bớt
sự khác biệt này.
Nhãn sinh thái phải tạo ra được sự cải thiện môi trường liên tục dựa trên những định
hướng thị trường
Do ưu thế về tính năng môi trường của nhãn tạo sự cạnh tranh giữa những người cung cấp,

nên nếu việc đánh giá các khía cạnh và tác động môi trường chỉ mang tính bất định mà không có
sự cải thiện một cách liên tục thì ưu thế này sẽ ngày càng suy giảm. Ngược lại, sự linh hoạt trong
việc đánh giá và nâng cao hơn các lợi ích môi trường sẽ buộc người cung cấp phải thường xuyên
cải tiến công nghệ, kỹ thuật, thay thế bằng những sản phẩm ít gây ảnh hưởng xấu đến môi trường
hơn, từ đó liên tục tạo ra sự cải thiện về môi trường.
Ta cũng có thể tìm thấy những yêu cầu đối với 1 nhãn sinh thái đạt chuẩn được tóm lược
trong Bộ tiêu chuẩn ISO 14020 cho việc cấp Nhãn môi trường (bao gồm cả nhãn sinh thái) như
sau: tính chính xác, tránh những rào cản thương mại không cần thiết, có cơ sở khoa học, có thông
tin về phương pháp, tiếp cận từ khía cạnh vòng đời sản phẩm, cho phép cải tiến, giảm thiểu gánh
nặng quản lý, quá trình công khai và được sự đồng thuận.
2.2. Những nguyên tắc cơ bản cho một Chương trình cấp nhãn sinh thái
Có sự tham gia tự nguyện của các bên
Quyết định của các nhà sản xuất, nhập khẩu, cung cấp dịch vụ và các doanh nghiệp khác
về việc tham gia vào chương trình cấp nhãn sinh thái phải dựa trên cơ sở tự nguyện. Các chương
trình cũng được thiết kế sao cho những đối tượng tham gia tiềm năng có thể tự đề xuất các hạng
mục cấp nhãn sinh thái với những tiêu chuẩn phù hợp với sản phẩm của họ.
Bên cạnh đó, chương trình cũng cần mở rộng đối với mọi tổ chức, cá nhân cung cấp, sản
xuất, nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ,.. với mức chi phí tham gia chương trình nhỏ nhất.
Tuân thủ pháp luật
Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà cung cấp dịch vụ,.. bên cạnh việc tập trung vào phát
triển sản phẩm để đáp ứng được tiêu chuẩn môi trường của nhãn sinh thái còn phải bảo đảm việc
tuân thủ các quy định của pháp luật (trên phạm vi quốc gia hoặc khu vực). Yêu cầu này không
nhất thiết là một tiêu chuẩn cho sản phẩm, mà có thể là điều kiện cần để được tham gia vào
chương trình cấp nhãn sinh thái. Yêu cầu này là nhằm để tránh rào cản quy định pháp luật ở các
quốc gia khác nhau có thể tạo ra rào cản không cần thiết đối với hàng hóa.

Luật Môi trường

7



Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Cân nhắc yếu tố chất lượng sản phẩm nói chung
Mối quan tâm hàng đầu của người dùng, suy cho cùng, vẫn là chất lượng và năng suất của
sản phẩm họ mua, còn yếu tố hiệu suất môi trường chỉ có ảnh hưởng phần nào tới lựa chọn của họ.
Do đó cần nhất vẫn là sản phẩm phải có được chất lượng từ tối thiểu trở lên so với sản phẩm cùng
loại. Sản phẩm kém chất lượng có thể gây ảnh hưởng tới uy tín của nhãn sinh thái và chương trình
cấp nhãn sinh thái đó.
Được dựa trên các nguyên tắc khoa học kĩ thuật cụ thể
Điều này là nhằm tạo niềm tin cho người tiêu dùng đối với nhãn sinh thái và các tổ chức
kinh doanh, cung cấp dịch vụ, sản xuất,.. đã tham gia chương trình cấp nhãn sinh thái và cung cấp
sản phẩm cho họ. Quan điểm được ủng hộ hiện nay là các tiêu chuẩn môi trường cho sản phẩm
cần phải được dựa trên các yếu tố liên quan tới vòng đời sản phẩm, vì những người ủng hộ cho
rằng cả người tiêu dùng lẫn các đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ tham gia chương trình cấp
nhãn sinh thái cần được bảo đảm rằng mọi yếu tố liên quan tới sản phẩm (từ khâu phát triển, sản
xuất tới sử dụng, thải bỏ…) đều được chương trình cấp nhãn sinh thái xem xét.
Các tiêu chuẩn phải thể hiện được tính vượt trội của sản phẩm
Những tiêu chuẩn cho nhãn sinh thái phải được đặt ra sao cho nhãn đó có thể tạo sự phân
biệt rõ ràng về ưu thế của sản phẩm so với các sản phẩm cùng loại không có nhãn sinh thái.
Các tiêu chuẩn phải đáng tin cậy, có liên quan, dễ dàng tiếp cận và có thể kiểm chúng
được
Yêu cầu này là nhằm bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng, các nhà sản xuất, cung ứng dịch
vụ, hàng hóa và bảo đảm niềm tin của họ vào thương hiệu nhãn sinh thái.
Sự độc lập
Một chương trình cấp nhãn sinh thái đáng tin cậy cần được điều hành bởi 1 tổ chức độc lập
với các tổ chức kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ… nhằm tránh sự xung đột quyền và lợi
ích. Sự độc lập này không chỉ bị giới hạn ở thể chế, tổ chức,.. mà còn tới cả cách xác định các tiêu

chuẩn đánh giá môi trường. Thông thường việc này được thực hiện bởi đại diện ủy quyền hoặc
hợp pháp của các bên trong các hội nghị, nhóm họp,.. thường là gồm đại diện các ngành công
nghiệp, tổ chức vì môi trường, hiệp hội người tiêu dùng, cơ quan nghiên cứu khoa học và Chính
phủ. Trường hợp này đặt ra thử thách to lớn đối với các nhà quản lý về việc làm thế nảo để bảo
đảm các bên có lực lượng đại diện cân bằng để bảo vệ quyền lợi cho họ, nhưng bù lại sự tham gia
của nhiều bên có liên quan có thể bảo đảm cho tính công bằng, khách quan của chương trình.
Quy trình phải công khai và phân định trách nhiệm rõ ràng
Quy trình cấp nhãn phải được công khai, các cá nhân, tổ chức bên ngoài có thể quan sát và
đưa ra câu hỏi bất kì lúc nào. Một số chương trình công khai tuyên bố bản sơ thảo các tiêu chuẩn
trên các mạng lưới truyền thông, mộ số khác thì có thể tổ chức các buổi họp báo, họp mặt để
những bên có quyền và nghĩa vụ liên quan có thể chất vấn lẫn nhau.
Phải có tính linh hoạt
Tính linh hoạt được thể hiện ở cách thức chương trình vận hành: có chuyên nghiệp hay
không, tiết kiệm chi phí hay không, phù hợp với các nguồn lực và yêu cầu của thị trường hay
không, .. Ngoài ra, các tiêu chuẩn của nhãn sinh thái mà chương trình đặt ra cũng cần kịp thời đáp
ứng những thay đôi về khoa học, công nghệ,.. trên thị trường. Điều này đòi hỏi chương trình phải
có sự kiểm tra tiêu chuẩn định kì để có thể kịp thời cập nhật các xu hướng mới nhất. Sự thay đổi
này phải được công bố rõ ràng tới các cơ quan, tổ chức sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ,
người tiêu dùng.
Phù hợp với các nguyên tắc ISO 14020 và 14024 (hoặc các văn bản khác có liên quan)

Luật Môi trường

8


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1


Các chương trình cấp nhãn sinh thái và thương hiệu nhãn sinh thái sẽ có lợi thế hơn nếu
thể hiện sự tuân thủ các nguyên tắc hướng dẫn của tiêu chuẩn ISO.
Với những yêu cầu và nguyên tắc rất khắt khe trên có thể thấy rằng Nhãn sinh thái giữ vai
trò rất quan trọng khôn chỉ là biên pháp quản lý và bảo vệ môi trường mà Nhãn sinh thái còn là
công cụ kinh tế hiệu quả để thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển.
3. Vai trò của nhãn sinh thái
Sự ra đời của nhãn sinh thái, trước hết, giữ một vị trí quan trọng trong việc đẩy nhanh quá
trình thống nhất quy tắc chung về kỹ thuật trên phạm vi quốc tế, khắc phục được rào cản kỹ thuật
mà các nước phát triển đang lạm dụng để bảo hộ thị trường nội địa, từ đó có vai trò quan trọng
trong việc thực hiện chính sách tự do hóa thương mại quốc tế, làm cho mậu dịch nội địa cũng như
quốc tế ngày càng phát triển.
Nhãn sinh thái thể hiển những vai trò sau đây:
+ Nhãn sinh thái giúp phân loại sản phẩm theo các tiêu chuẩn kỹ thuật
Nhãn sinh thái cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu các sản phẩm cần phải dược
dãn nhãn khi tiến hành phân tích vòng đời sản phẩm. Những yêu cầu này có thể phản ánh những
ưu tiên vốn có của nước nhập khẩu nhưng lại không phù hợp với các nước sản xuất.
Khi mức sống của con người ngày càng được cải thiện, nhận thức về những tác động của
môi trường đến hoạt động kinh tế, đến đời sống của con người cũng nâng lên rõ rệt. Do đó, xu
hướng sán xuất và tiêu dùng sản phẩm thân thiện với môi trường trở thành một xu thế tất yếu, phù
hợp với quy luật phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, hoạt động thương mại giữa các nước diễn ra
ngày càng mạnh mẽ, hàng rào bảo hộ thuế quan dần được gỡ bỏ, do đó xuất hiện xu hướng sử
dụng các hàng rào “xanh” để bảo hộ thị trường trong nước. Nhờ vậy mà nhãn hiệu sinh thái đang
dần trở thành một công cụ hợp lý để thực hiện mục tiêu bảo hộ thị trường, hơn thế nữa, đây lại là
một công cụ khá hiệu quả vì phù hợp với xu thế phát triển hiện nay của xã hội – xu thế sản xuất và
tiêu dùng bền vững. Như vậy, nhãn sinh thái chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động thương mại
giữa các quốc gia. Nó có thể trở thành một hàng rào “xanh” hữu hiệu, đồng thời là một công cụ
chiếm lĩnh thị trường rất hiệu quả khi vượt qua được rào cản “xanh” này. Các nước nhập khẩu có
thể sử dụng công cụ này để bảo hộ thị trường trong nước, còn các nước xuất khẩu cố gắng tận
dụng công cụ này để thúc đầy hoạt động xuất khẩu, nâng cao vai trò và vị thế cạnh tranh của mình.
+ Nhãn sinh thái cung cấp thông tin trung thực liên quan đến môi trường

Nhãn sinh thái cung cấp thông tin trung thực liên quan đến việc làm giảm thiểu những tác
động xấu của hàng hóa đến môi trường, dịch vụ giữa người sản xuất với người tiêu dùng tạo nên
sự ổn định về cung, cầu và giá cả, giúp cho hoạt động thương mại ổn định vững chắc và lâu dài.
Hiện nay, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng, điều đó đặt ra yêu cầu về một nền sản
xuất bền vững, trong sạch. Các nhà sản xuất muốn ổn định được sản lượng sản xuất cũng như
doanh số bán ra, cần phải chứng minh cho người tiêu dùng biết rằng sản phẩm của mình không
gây ô nhiễm môi trường. một trong những phương tiện thực hiện điều đó là “nhãn sinh thái”.
+ Nhãn sinh thái thúc đầy các hoạt động hợp tác quốc tế
Trước hết là hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sinh thái quốc tế, tiếp sau là hợp tác
trong các lĩnh vực sản xuất, giao nhận, kinh doanh,… Đây là điều kiện, động lực để các quốc gia
hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư quốc tế. Chẳng hạn, để thâm nhập vào một thị trường có
yêu cao về khía cạnh môi trường đối với các sản phẩm nhập khẩu, các doanh nghiệp phải có công
nghệ sản xuất đáp ứng các tiêu chuẩn của các chương trình cấp nhãn sinh thái. Những doanh
nghiệp thuộc các nước phát triển đang cố gắng có được nhãn sinh thái cho những sản phẩm của
họ. Vì vậy, đôi khi họ phải mua công nghệ từ những công ty đã sử dụng những nhãn hiệu này rồi.

Luật Môi trường

9


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Những loại tiêu chuẩn chung được đưa ra đối với sản phẩm có tính cạnh tranh của các nước phát
triển đã mở ra một thị trường trao đổi quốc tế các công nghệ thân thiện với môi trường.
+ Nhãn sinh thái góp phần nâng cao uy tín, năng lực cạnh tranh cho các doanh
nghiệp
Các doanh nghiệp có các sản phẩm được dán nhãn sinh thái sẽ có uy tín hơn đối với người

tiêu dùng. Nhãn sinh thái còn thúc đẩy việc xuất khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu
tại những nơi có nhu cầu tiêu thụ những sản phẩm thân thiện với môi trường, tạo điều kiện thuận
lợi cho hoạt động tự do hóa thương mại. Thông qua nhãn sinh thái, nhiều doanh nghiệp có thể
thâm nhập dễ dàng hơn vào thị trường của các nước nhập khẩu, đặc biệt là những thị trường khó
tính, luôn có yêu cầu cao vè khía cạnh thân thiện với môi trường đối với các sản phẩm.
Bộ nguyên tắc ISO 14024 đã tổng hợp các yêu cầu trên thành bộ 20 nguyên tắc cho
chương trình cấp nhãn sinh thái.
4. Quy trình triển khai chương trình cấp nhãn sinh thái, thủ tục cấp nhãn sinh thái
4.1.Triển khai chương trình cấp nhãn sinh thái
Trước khi triển khai chương trình, các nhà quản lý cần đặt ra và trả lời câu hỏi: liệu nhãn
sinh thái có thể đóng góp cho việc giảm thiểu sự căng thẳng về môi trường hay không và giảm được bao nhiêu. Những yếu tố khác có vai trò quyết định tạo sức ảnh hưởng cho nhãn sinh thái là
sự liên quan và tầm quan trọng của các tiêu chí cấp nhãn sinh thái, thị phần của sản phẩm được
cấp nhãn sinh thái.
Thành phần các chủ thể tham gia vào việc triển khai chương trình cấp nhãn sinh thái rất đa
dạng, bao gồm Chính phủ, các liên hiệp công nghiệp hay thương nghiệp, người tiêu dùng, các đơn
vị trung lập như trung tâm nghiên cứu, giới truyền thông, cộng đồng quốc tế,… Mỗi chủ thể có vai
trò riêng, trong đó Chính phủ giữ vị trí quản lý chủ đạo, đảm nhiệm việc đề xuất, gây quỹ, cung
cấp nguồn đầu vào (nhân lực, thông tin) cho chương trình. Liên hiệp các nhà sản xuất, cung cấp
dịch vụ cũng tham gia gián tiếp bằng việc tạo ảnh hưởng lên các tiêu chuẩn nhãn sinh thái với
những sản phẩm họ cung cấp, hoặc tham gia trực tiếp bằng cách nộp đơn xin cấp nhãn sinh thái,
đưa chương trình đi vào hoạt động. Người tiêu dùng tiêu thụ sản phẩm có nhãn sinh thái, và dựa
trên phản hồi cũng như thị hiếu của bộ phận này mà điều chỉnh các tiêu chuẩn nhãn sinh thái. Các
thành phần trung lập như giới truyền thông, các học giả, nhà nghiên cứu,… tham dự chương trình
với tư cách là tiếng nói khách quan, đảm bảo cho việc triển khai chương trình đáp ứng được các
nhu cầu của người tiêu dùng, không có hiện tượng tiêu cực. Đặc biệt, thị trường quốc tế với những
rào cản thương mại phi thuế quan cũng tạo ảnh hưởng lên chương trình cấp nhãn sinh thái của 1
quốc gia.
Việc triển khai chương trình cấp nhãn sinh thái thường gồm 3 phần :
+ Bước thứ nhất là việc lựa chọn và quyết định các hạng mục sản phẩm. Bên cạnh việc
phân loại các sản phẩm, phạm vi các sản phẩm của hạng mục cũng có ảnh hưởng tới giới hạn, sự

khắt khe của các tiêu chuẩn (vd khi lập tiêu chuẩn cho mặt hàng pin, nếu chương trình xét tất cả
các loại pin chứ không chỉ pin sạc được thì cách tiếp cận việc lập tiêu chuẩn sẽ khác). Thông
thường một hạng mục sẽ bao gồm tất cả các sản phẩm thực hiện cùng 1 chức năng. Các nhà sản
xuất, nhập khẩu, cung cấp dịch vụ và hàng hóa, cùng 1 số tổ chức thứ ba có quyền đề xuất hạng
mục mới hay tiêu chí mới. Đa số các chương trình đều có những nguyên tắc để hỗ trợ việc đặt ra
tiêu chí như tác động lên môi trường của sản phẩm, tầm quan trọng của sản phẩm trên thị trường,


Luật Môi trường

10


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

+ Bước thứ hai là phát triển và áp dụng các tiêu chuẩn hay hướng dẫn phù hợp, Công việc
phát triển là của các chuyên gia và nhà khoa học, thường là do chính phủ và khu vực tư nhân bổ
nhiệm. Những bản sơ thảo các tiêu chuẩn được trình công khai để lấy phản hồi, và sẽ được các
chuyên viên ghi nhận để hoàn thành bộ tiêu chuẩn sau cùng. Cơ sở để lập các tiêu chuẩn là vòng
đời của sản phẩm và tập trung vào 1 số vấn đề như lượng chất có thể tái chế được trong sản phẩm,
mức độ giảm độc tính, giảm ô nhiễm, tiết kiệm năng lượng và khả năng tái chế, v.v. Các chương
trình đều có quy trình phân tích và lựa chọn tiêu chuẩn khác nhau.
+ Bước thứ ba là công bố tiêu chuẩn và cấp giấy phép cho những sản phẩm nào có nhu cầu
và đáp ứng đủ các tiêu chuẩn nhãn sinh thái của chương trình. Thủ tục nộp đơn xin cấp nhãn sinh
thái ở các chương trình cũng là khác nhau.
4.2.Thủ tục cấp nhãn sinh thái
Về căn bản các thủ tục cấp nhãn sinh thái của các chương trình khác nhau đều đi theo 1 lộ
trình chung. Đầu tiên, bên đăng kí gửi đơn xin cấp nhãn sinh thái, kèm theo các thông tin kĩ thuật

của sản phẩm. Bên đăng kí cũng được cơ quan đánh giá hỗ trợ thông qua biện pháp chi phí, cung
cấp thông tin về các loại sản phẩm, các tiêu chí của nhãn sinh thái, các phương thức đánh giá sản
phẩm,… Sau khi đánh giá và xác minh sản phẩm đó đáp ứng đủ các yêu cầu của nhãn sinh thái,
bên nộp đơn sẽ có thông báo là sản phẩm đã được cấp nhãn sinh thái và phải nộp 1 khoản phí để
được sử dụng nhãn. Nếu sản phẩm không đạt điều kiện, cơ quan đánh giá sẽ có thông báo về việc
sản phẩm không được cấp nhãn sinh thái, hoặc yêu cầu bên đăng kí sửa lại hồ sơ. Cơ quan cấp
nhãn sinh thái cũng sẽ có biện pháp hỗ trợ giúp người nộp đơn quảng bá sản phẩm mang nhãn sinh
thái của họ. Thông thường, theo định kì, cơ quan cấp nhãn sẽ tiến hành thanh tra sản phẩm hoặc
nơi sản xuất. Nếu phát hiện sản phẩm không còn đủ tiêu chuẩn mang nhãn sinh thái, việc gỡ bỏ
nhãn sinh thái sẽ được tiến hành.
Trong trường hợp chương trình có sự thay đổi về tiêu chuẩn nhãn sinh thái, bên đăng kí sử
dụng nhãn sinh thái cần được thông báo kịp thời. Đổi lại, nếu bên đăng kí sử dụng nhãn sinh thái
có sự thay đổi về quy trình, công nghệ,.. có thể ảnh hưởng tới kết quả đầu ra của sản phẩm thì
cũng phải thông báo cho cơ quan cấp nhãn sinh thái để kiểm tra, đánh giá lại nếu cần.
Có thể tóm tắt quy trình cấp nhãn sinh thái bằng sơ đồ sau:

Luật Môi trường

11


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

( Trích từ trang web nhansinhthai.com )
5. Một số mẫu nhãn sinh thái hiện nay
Logo
Ý nghĩa
Là Logo dành cho những sản phẩm mang nhãn sinh thái

chính thức của nước Pháp do Tổ chức đo lường chất lượng của nước
Pháp quản lý. Logo nhãn sinh thái này áp dụng cho nhiều loại sản
phẩm trừ các sản phẩm y dược, thực phẩm, các dịch vụ và các sản
phẩm trong nghành ô tô. Các sản phẩm mang logo này phải đáp ứng
được tất cả các chuẩn mực về chất lượng tiêu dùng cũng như thân
thiện với môi trường
Đây là logo dành cho sản phẩm hoặc bao bì đóng gói sản
phẩm có chứa các chất liệu dễ tái chế. Lượng phần trăm tái chế được
ghi rõ phía trên mũi tên.
Đây là logo dành cho sản phẩm có thể tái chế. Tuy nhiên sản
phẩm này có thể được tái chế toàn bộ hoặc chỉ một phần.
Đây là Logo dành cho những sản phẩm có chứa nguyên liệu
thép, chất liệu dễ phân loại và dễ tái chế.
Logo dành cho các loại vỏ chai làm bằng thủy tinh dễ dàng
được tái chế.
Đây là Logo dành cho các loại bao bì có thể tái sử dụng mà
có hoặc không cần qua xử lý, chẳng hạn như vỏ chai, hộp gỗ...

Luật Môi trường

12


Các vấn đề về Nhãn sinh thái
Logo

Nhóm 1

Ý nghĩa
Đây là Logo dùng để nhắc nhở người sử dụng có ý thức bỏ

rác đúng nơi qui định. Logo này xuất hiện trên vỏ chai hoặc trên một
số túi xách bằng nhựa.
Đây là Logo cho chương trình Sao năng lượng được tiến hành
bởi Văn phòng chính phủ vì bảo vệ môi trường của Mỹ. Logo này
được áp dụng cho các sản phẩm như máy tính, máy in, máy
photocopy...có mức tiêu thụ điện năng thấp nhất.
Đây là logo mang ý nghĩa khôi phục những giá trị từ Rừng.
Được áp dụng tại 32 quốc gia nhằm đảm bảo với người tiêu dùng
những sản phẩm làm từ gỗ đến tay người tiêu dùng đã được quản lý
chặt chẽ và hợp pháp.
Đây là logo được dán trên gỗ hoặc các sản phẩm làm bằng gỗ.
Những sản phẩm này đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về mặt kinh tế, xã
hội và môi trường của tổ chức quốc tế quản lý tài nguyên rừng.

II/ CHƯƠNG TRÌNH NHÃN SINH THÁI TRÊN THẾ GIỚI
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Mô hinh nguyên thủy của nhãn sinh thái là nhãn xanh (green sticker), xuất hiện trong
khoảng những năm 70 của thế kỉ XX khi các cơ quan Chính phủ tại Mỹ và Canada đưa ra yêu cầu
về các sản phẩm có tính tiết kiệm năng lượng và nhiên liệu, đồng thời đề ra quy định về các tiêu
chuẩn sử dụng năng lượng tối thiểu. Những nhãn xanh này chủ yếu có trên các đồ gia dụng, các
loại xe hơi, xe gắn máy,.. Sau nhiều năm phát triển, chương trình nhãn sinh thái chính thức xuất
hiện lần đầu tiên trên thế giới tại Đức, với nhãn hiệu “Thiên thần xanh” cấp cho các sản phẩm
được lựa chọn nhờ dịch vụ đặc biệt có lợi cho môi trường trong vòng đời và đáp ứng đầy đủ các
tiêu chuẩn cao về sức khoẻ lao động, sự an toàn và vừa vặn để sử dụng. Trong 3 thập kỉ, nhãn
Thiên thần xanh đã được trao cho 3700 sản phẩm thuộc 80 loại sản phẩm và dịch vụ.

Nhãn sinh thái “Thiên thần xanh” của Đức
Tới năm 1988, Canada đưa ra chương trình “Biểu trưng sinh thái” (EcoLogo) với các tiêu
chuẩn được xây dựng bởi Chính phủ, đại diện các ngành công nghiệp và các tổ chức môi trường
nhằm đảm bảo cho sản phẩm gây ảnh hưởng tới môi trường ở mức tối thiểu. Năm 1989, Mỹ áp

dụng chương trình “Con dấu xanh” (Green Seal) phỏng theo chương trình của Canada, do 1 tổ
chức độc lập, phi lợi nhuận thiết kế; các nhà sản xuất phải chi tiền cho tổ chức này để thực hiện
đánh giá các sản phẩm và đưa ra chứng nhận.

Luật Môi trường

13


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Năm 1991 đánh dấu một mốc phát triển quan trọng của các chương trình nhãn sinh thái,
với sự ra đời của phân ban kĩ thuật ISO/TC207/SC3 của Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế ISO với mục
tiêu xây dựng các thiết chế, quy định về nhãn sinh thái. Hưởng ứng bước tiến này, năm 1992,
chương trình nhãn sinh thái của Liên minh Châu Âu ra đời với mục tiêu phát triển sản xuất và đẩy
mạnh tiêu dùng bền vững, mang tính tự nguyện và mọi nhà phân phối, nhập khẩu, sản xuất đều có
thể nộp đơn để được cấp nhãn sinh thái này.
Nhanh chóng nắm bắt được sự phát triển của mô hình nhãn sinh thái và quan hệ của nhãn
sinh thái đối với nền kinh tế, cụ thể là hoạt động xuất nhập khẩu, sản xuất, cung ứng, phân phối
hàng hóa, dịch vụ,… vào đầu thập niên 90, vấn đề các tiêu chuẩn môi trường bao gồm nhãn sinh
tái đã được công nhận bởi WTO với sự thành lập của Ủy ban về Thương mại và Môi trường năm
1995, với mục tiêu xác định mối quan hệ giữa các biện pháp thương mại và biện pháp môi trường.
Vấn đề môi trường bao gồm nhãn sinh thái cũng được quy định trong các Hiệp định quan trọng về
thương mại, mà tiêu biểu nhất là Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) 1994.
Tới nay, mạng lưới nhãn sinh thái đã bao phủ nhiều quốc gia trên thế giới, các chương
trình nhãn sinh thái liên tiếp ra đời tại các nước và các ngành công nghiệp, dịch vụ với các tiêu
chí, đối tượng sản phẩm đa dạng. Một số thương hiệu nhãn sinh thái lớn hiện nay là nhãn “Thiên
nga Bắc Âu” của Thụy Điển, “Dấu sinh thái” của Nhật Bản, các nhãn sinh thái của Thái Lan,

Singapore, Malaysia,..
Nhìn chung, ta có thể Phân loại các chương trình cấp nhãn sinh thái trên thế giới thành
3 loại theo nguồn gốc:
+ Nhóm 1: loại ra đời do nhu cầu của người tiêu dùng trong nước về những sản phẩm thân
thiện với môi trường và nhằm cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin về sản phẩm đó. Ví
dụ: chương trình nhãn sinh thái bông hoa xanh của EU, Der Blaue Engel của Đức, EcoLogo của
Canada,..
+ Nhóm 2: xuất phát từ nhu cầu phải bảo vệ môi trường, theo mong muốn của những nhà
hoạt động môi trường về việc đưa ra cách tiếp cận mới trong hoạt động bảo vệ môi trường trong
nước. Nhóm này nghiên cứu phương pháp bảo vệ môi trường của nước khác và thành lập chương
trình cấp nhãn sinh thái, ví dụ như Green Seal của Mỹ.
+ Nhóm 3: chủ yếu là các nước đang phát triển, xuất phát từ sự khởi xướng của chính phủ
thấy cần thiết phải có 1 chương trình cấp nhãn sinh thái tại quốc gia để đáp ứng nhu cầu hội nhập,
cạnh tranh với thị trường thế giới. Tiêu biểu là các chương trình cấp nhãn sinh thái của Trung
Quốc, Thái Lan,..
Phần tiếp theo Nhóm sẽ giới thiệu sơ lược về các chương trình cấp nhãn sinh thái tiêu biểu
của 3 nhóm trên.
2. Chương trình nhãn sinh thái ở 1 số nước trên thế giới
2.1 Chương trình nhãn sinh thái châu Âu
Luật pháp được Liên minh châu Âu thông qua vào năm 1992 và soát xét năm 2000 để
phân biệt hoạt động sản xuất thân thiện với môi trường qua một chiến lược đóng nhãn tự nguyện
gọi là nhãn Eco. Nhãn Eco có biểu tượng là một bông hoa màu xanh, là một dấu mang tính tự
nguyện. Nhãn Eco được trao cho những nhà sản xuất có khả năng chứng tỏ rằng sản phẩm của họ
ít gây hại hơn đối với môi trường so với những sản phẩm tương tự. Nhãn này cũng nhằm khuyến
khích người tiêu dùng mua các sản phẩm xanh.

Luật Môi trường

14



Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Nhãn sinh thái “Bông hoa xanh” nổi tiếng của EU
Tuy vậy, chiến lược này không đặt ra những tiêu chuẩn về sinh thái mà tất cả các nhà sản
xuất cần thỏa mãn nếu muốn đưa sản phẩm của mình ra thị trường. Các sản phẩm không được dán
nhãn Eco của Liên minh Châu Âu vẫn có thể gia nhập vào thị trường của liên minh nếu đáp ứng
được các tiêu chuẩn và quy định hiện hành về sức khoẻ, an toàn và về môi trường.
Liên minh Châu Âu đã ra yêu cầu phải bán các sản phẩm với số lượng được tiêu chuẩn
hoá. Chỉ thị số 80/232/EC của Hội đồng đưa ra các lĩnh vực được phép có lượng danh định, có
dung lượng và thể tích cho nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Quy định mới về nhãn sinh thái được công bố tại tạp chí chính thức của liên minh châu Âu
Eu vào ngày 30/1/2010 và có hiệu lực vào ngày 20/2 với dụng ý nhằm giảm thiểu tình trạng quan
liêu cũng như nhanh chóng nâng cao các tiêu chuẩn và các thủ tục kiểm tra. Mục đích chính của
những quy định mới này là nhằm tăng cường số lượng các nhóm hàng được kiểm soát bởi kế
hoạch với chỉ tiêu đạt mức 40 đến 50 nhóm vào năm 2015, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vào
những ngành hàng có ảnh hưởng lớn đến môi trường và có tiềm năng phát triển cao. Kế hoạch
hiện tại bao gồm 26 nhóm hàng, trong đó có sản phẩm tẩy rửa, sản phẩm dệt kim, du lịch và 2 dịch
vụ: cắm trại và chỗ ở du lịch. Hiện nay, đã có 24 000 sản phẩm và dịch vụ được gắn logo, dưới
đây là 1 số ví dụ:
S
ản phẩm
N
ệm
giường

Nhãn


sinh

Ý nghĩa nhãn sinh thái

thái
#Giảm nguy cơ dị ứng.
# Hạn chế ô nhiễm nước và không khí trong quá
trình sản xuất.
# Việc sử dụng các nguyên liệu nguy hiểm cho
sức khỏe và môi trường được giảm thiểu.
# Không bao gồm chất phá hủy tầng ô-zôn.
# Đảm bảo thời hạn sử dụng ngang bằng với các
sản phẩm thường.

Luật Môi trường

15


Các vấn đề về Nhãn sinh thái
M
áy tính cá
nhân

Nhóm 1

#Sản phẩm tiêu thụ ít năng lượng trong quá trình
sử dụng và tích trữ.
#Sản phẩm chứa ít chất gây hại cho sức khỏe và
môi trường ví dụ như kim loại.

#Sản phẩm có thể được trả lại cho nhà sản xuất
sau khi sử dụng, hòan tòan miễn phí.
#Sản phẩm dễ dàng được tháo bỏ và tái chế.
#Độ bền sản phẩm tăng lên theo các lớp.

P
hân bón

#Sản phẩm sử dụng vật chất hữu cơ tái chế.
#Sản phẩm không chứa than bùn.
#Sản phẩm không làm ô nhiễm đất bởi các loại
kim loại nặng.
#Sản phẩm không chứa vi khuẩn.
#Nguồn gốc các giống cỏ dại bị hạn chế.

Dị
ch vụ chỗ
ở cho du
lịch

#Lượng điện năng tiêu thụ được giảm thiểu. chế.
#Lượng nước tiêu thụ được giảm thiểu.
#Rác thải được giảm thiểu và xử lý hoàn toàn.
#Khu vực cắm trại nghiêng về việc sử dụng các
nguồn tài nguyên tự tái tạo và các chất ít gây nguy hiểm
cho môi trường hơn.
#Giáo dục và giao tiếp vì môi trường được hội
trại quảng bá.

Luật Môi trường


16


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Các loại sản phẩm: thực phẩm, đồ uống, dược phẩm và thiết bị y tế không nằm trong phạm
vi đối tượng được cấp nhãn sinh thái châu Âu.
2.2. Chương trình nhãn sinh thái của Mỹ
Ở Mỹ hiện nay có gần 70 chương trình cấp nhãn sinh thái. Trong đó có chương trình hàng
đầu là “Con dấu xanh” (Green Seal) thực hiện việc cấp nhãn cho nhiềus ản phẩm và dịch vụ khác
nhau như máy vi tính, sơn, giấy.. Còn các chương trình khác chỉ cấp nhãn cho 1 sản phẩm cụ thể
như ô tô, máy tính,..
Chương trình Green Seal do 1 tổ chức độc lập và phi lợi nhuận tổ chức, mục tiêu là làm
môi trường trong lành hơn thông qua việc xác định và thúc đẩy những sản phẩm và dịch vụ ít thải
ra chất độc hại, tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường, giảm thiểu suy giảm tầng ozone.
Chương trình này được thành lập năm 1989. Thiết chế của chương trình này không chỉ bao gồm
cơ quan đặt ra tiêu chí và cấp nhãn sinh thái (Ủy ban Tiêu chuẩn Môi trường và Ủy ban các bên)
mà còn có 2 bộ phận tư vấn thiết kế sản phẩm và tư vấn mua sắm nhằm giúp nhà sản xuất cải thiện
khía cạnh môi trường trong sản phẩm của họ, tạo dây chuyền sản xuất những sản phẩm thân thiện
với môi trường và giúp người tiêu dùng cá nhân lẫn tổ chức có những thông tin cần thiết, hướng
dẫn họ trong các quyết định mua sắm.

Nhãn sinh thái “Dấu ấn xanh” của Mỹ
Việc lựa chọn loại sản phẩm khi xây dựng chương trình của Grean Seal dựa trên các tiêu
chí: mức độ các tác động môi trường, khả năng làm giảm tác động môi trường, sự quan tâm của
công chúng và khả năng cung cấp thông tin, sự quan tâm của người sản xuất, khả năng về tài chính
và cơ hội thực hiện. Sau khi chọn được sản phẩm, Ủy ban Tiêu chuẩn sẽ tiến hành thu thập cac số

liệu, phân tích và xác định các khía cạnh tác động đến môi trường trong toàn bộ vòng đời của sản
phẩm, ngoài ra còn tiến hành khảo sát các chương trình khác trên thế giới, thông tin thị trường, ý
kiến các chuyên gia,. Các tiêu chuẩn mà Ủy ban đặt ra phù hợp với tiêu chuẩn ISO 14020 và ISo
14024. Sau 3 năm, các tiêu chuẩn sẽ được sửa đổi đề phù hợp với tiến bộ kĩ thuật, sự phát triển
của thị trường.
Tính tới năm 2004, chương trình này đã cấp nhãn sinh thái cho hơn 300 sản phẩm được sản
xuất cả ở trong và ngoài nước, trong đó có 3 công ty Canada (sản xuất giấy in, thiết bị vệ sinh và
dầu máy), 1 công ty Nhật Bản (sản xuất hệ thống sưởi ấm), 1 công ty Hàn Quốc (sản phẩm tẩy
trắng). Đã có tiêu chí được xây dựng cho 28 loại sản phẩm: giấy lụa, bình tưới nước, hệ thống sưởi
bằng ống dẫn, hệ thống điều hòa không khí trung tâm tại khu dân cư, túi đựng có thể tái chế, giấy
gói thực phẩm, sơn, giấy in báo, máy hút bụi gia đình, chất tẩy nhờn, đèn huỳnh quang, chất dính,
v.v. Ngoài ra chương trình còn tổ chức dịch vụ tư vấn, giúp đỡ lựa chọn mua sắm của người tiêu
dùng.
Một điểm đặc biệt khác của chương trình này là nó có sự cố gắng rõ rệt nhằm đồng bộ các
tiêu chuẩn với một số chương trình nhãn sinh thái khác trên thế giới, chẳng hạn chương trình đã sử
dụng toàn bộ tiêu chí với sản phẩm dệt của EU làm tiêu chí cấp cho sản phẩm dệt trong nước, thừa
nhận các phương pháp chứng nhận với chương trình nhãn sinh thái Canada.

Luật Môi trường

17


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Bên cạnh chương trinh Green Seal, ở Mỹ còn có các chương trình môi trường khác cung
cấp các tiêu chuẩn và xác nhận cho nhiều sản phẩm, phổ biến nhất là điện tử và các thiết bị ngoại
vi. Dưới đây là 1 số ví dụ:

Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (the US. EPA),
Huớng dẫn mua hàng toàn diện
Là chương trình hướng dẫn mua hàng toàn diện của
EPA khuyến khích việc sử dụng các nguyên liệu được
phục hồi từ chất thải rắn bằng cách chỉ định các sản phẩm
được làm từ hoặc chính là nguyên liệu phục hồi và bằng
cách gợi ý các phương pháp (nôi dung tái chế tối thiểu) để
mua các sản phầm đó
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, ENERGY
STAR®
ENERGY STAR là một sự hợp tác giữa Bộ Năng
lượng Mỹ, Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, các nhà sản
xuât, các dịch vụ địa phương, và những người bán lẻ,
khuyến khích các sản phẩm tiết kiệm năng lượng bằng
cách dán nhãn ENERGY STAR và giáo dục người tiêu
dùng về lợi ích của tiết kiệm năng lượng.
Bộ Năng lượng Mỹ, Chương trình quản lí năng
lượng liên bang (FEMP)
/>Chương trình quản lí năng lượng liên bang cung
cấp các dịch vụ cho các cơ quan liên bang Mỹ để hỗ trợ họ
trong việc giảm giá của chính phủ thông qua tiết kiệm
năng lượng, bảo tồn nước, và sử dụng năng lượng mặt trời
và các nguồn năng lượng tái sinh khác. FEMP chỉ định các
sản phẩm tiết kiệm năng lượng không thuộc ENERGY
STAR.
2..3.Chương trình cấp nhãn sinh thái của Thái Lan
Chương trình “Nhãn sinh thái xanh” (Green Label) của Thái Lan do Hội đồng Doanh
nghiệp phát triển bền vững của Thái Lan (TBCSD) thành lập tháng 10/1993 và chính thức đi vào
thực hiện vào tháng 4/1994 do Viện Môi trường Thái Lan (TEI) hợp tác với Bộ Công nghệ tổ
chức.


Luật Môi trường

18


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1
Nhãn xanh Thái Lan

Tương tự như nhãn sinh thái châu Âu, Nhãn xanh Thái Lan áp dụng cho những sản phẩm
và dịch vụ (không bao gồm thực phẩm, đồ uống và dược phẩm) có tác động môi trường nhỏ nhất
so với những sản phẩm có cùng chức năng và có tính tự nguyện. Mục tiêu chương trình là cung
cấp thông tin tin cậy và hướng dẫn người tiêu dùng trong việc mua sắm, tạo cơ hội cho người tiêu
dùng có những quyết định môi trường đúng đắn, khuyến khích nhà sản xuất và cung ứng cung cấp
cho thị trường những sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm sự tác động xấu đến môi trường
trong suốt quá trình sản xuất, sử dụng, tiêu dùng và loại bỏ sản phẩm. Chủ trì chương trình là Hội
đồng Nhãn xanh Thái Lan, gồm đại diện chính phủ của Bộ Công nghiệp, Viện Môi trường Thái
Lan, Liên đoàn Công nghiệp, cùng đại diện các Hiệp hội trung lập như Hội Nhà báo, Hội kĩ thuật
Môi trường, Hội Bảo vệ người tiêu dùng, Hội Marketing Thái Lan,..
Chịu trách nhiệm thiết lập các tiêu chí cho nhãn sinh thái là Phân ban kỹ thuật do Hội đồng
thành lập, Hội đồng chịu trách nhiệm phê duyệt. Việc đánh giá nhãn xanh dựa vào nguyên cứu
vòng đời của sản phẩm, gồm cả các khía cạnh giảm thiểu nhiên liệu và đánh giá những tác động
xấu đến môi trường. Nhãn sinh thái Thái Lan có tuổi 2 năm, sau thời gian đó các tiêu chuẩn sẽ
được kiểm tra, xem xét lại để theo kịp bước tiến của khoa học, công nghệ, thị trường và tình hình
môi trường.
Để được cấp chứng chỉ nhãn sinh thái, các nhà sản xuất hoặc phân phối nộp đơn cho Viện
Môi trường Thái Lan để các dự liệu được kiểm tra, đảm bảo phù hợp với các tiêu chí đề ra. Sau đó
Viện Môi trường sẽ chuyển lại cho Viện Chuẩn kĩ thuật Thái Lan để kiểm tra việc thỏa mãn các

tiêu chí. Nếu kết quả khả quan, các nhà sản xuất và phân phối sẽ được quyền sử dụng nhãn xanh.
Tới năm 2004, Chương trình đã xây dựng được 32 tiêu chí cấp nhãn. 34 doanh nghiệp với
200 sản phẩm khác nhau đã được chứng nhận nhãn sinh thái. Do không lấy ý kiến rộng rãi từ công
chúng nên chương trình cũng có 1 số hạn chế nhất định, người tiêu dùng trong nước có rất ít thông
tin về sản phẩm được cấp cũng như thông tin về chương trình. Những thông tin này được đăng
trên các tạp chí môi trường.
Một trong những mối quan tâm lớn nhất của các chương trình nhãn sinh thái là sự hài hòa
với các chương trình nhãn sinh thái khác, đặc biệt là chương trình ở các nước đang phát triển. Sự
hài hòa này có thể được thể hiện qua việc áp dụng toàn bộ các tiêu chuẩn của chương trình nhãn
sinh thái nước ngoài cho sản phẩm trong nước (chẳng hạn như chương trình Green Seal của Mỹ).
Về mặt này, Thái Lan có thể được xem là quốc gia đi đầu, với việc xây dựng và quản lý chương
trình theo nguyên tắc được đề cập đến theo bộ tiêu chuẩn cấp nhãn sinh thái của ISO, nhờ vậy mà
các mặt hàng của Thái Lan đã đạt được sự chấp nhận và ưa chuộng của người tiêu dùng tại thị
trường các nước xuất khẩu, kể cả EU (EU là thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt chủ yếu của Thái
Lan), và nói chung Thái Lan không bị ảnh hưởng nhiều bởi chương trình nhãn sinh thái tại các thị
trường này.
3. Kết quả
Sự ra đời của các chương trình nhãn sinh thái đã làm thay đổi nhận thức của người
dùng về các vấn đề môi trường thông qua sự tác động trực quan tới các sản phẩm mà họ tiêu dùng,
từ đó làm tăng năng lực và trách nhiệm của cộng đồng đối với các vấn đề môi trường.
Ta lấy ví dụ trường hợp chương trình nhãn sinh thái EU. Sau 3 năm chương trình đi vào
hoạt động, trong một cuộc điều tra năm 1995 (Nhãn sinh thái với hàng hóa xuất khẩu và tiêu
dùng nội địa, Nguyễn Hữu Khải, t.123 ) tìm hiểu mức độ hiểu biết của người dân trong độ tuổi
16-74 về nhãn sinh thái, 95% người trả lời cho biết họ có hiểu biết về nhãn sinh thái, 81% trả lời

Luật Môi trường

19



Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

họ sẵn sàng bỏ tiền ra mua sản phẩm thân thiện với môi trường, và 68% trong số đó trả lời họ đã
bỏ tiền ra mua sản phẩm thân thiện với môi trường. Đa số các doanh nghiệp tỏ thái độ lạc quan về
tương lai thị phần của các sản phẩm có nhãn sinh thái. Ví dụ, trong năm 1993, thị phần sản phẩm
vải may áo khoác với hàm lượng chất hòa tan thấp hoặc không có chất hòa tan có nhãn sinh thái
đã tăng từ 14% tới 22%, còn thị phần của sản phẩm cùng loại có hàm lượng chất hòa tan giảm từ
86% còn 77% trong cùng thời gian đó; hoặc sản phẩm giấy có khả năng tái chế tăng thị phần lên
50%, sản phẩm có độ ô nhiễm thấp tăng thị phần từ 1-20% đối với việc tiêu thụ sản phẩm thương
mại và 40% với việc tiêu thụ sản phẩm dành cho hộ gia đình. Các tác động lên môi trường trong
thời điểm năm 1993 cũng thay đổi theo chiều hướng tích cực: lượng chất Clo phát thải trong quá
trình làm bột giấy giảm từ 175.000 tấn xuống còn 10.000 tấn, quá trình sản xuất giấy giảm 11%
lượng phát thải SO2, giảm 21% COD, giảm 50% AOX, Còn sản phẩm sơn được dán nhãn giảm
78% lượng CO2 phát thải, 58% NOx, 64% CxHx so với sản phẩm sơn cùng loại (Nhãn sinh thái
với hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa, Nguyễn Hữu Khải, t.123).
Ngoài ra, theo những nghiên cứu định lượng đánh giá tác động của việc áp nhãn sinh thái
đối với môi trường của chương trình Thiên thần xanh của Đức với máy sưởi chạy bằng ga và dầu
thì lượng khí thải SO 2, CO, NOx tới năm 200 đã giảm 30%, với các sản phâm sơn hòa tan đã giảm
các chất khí thải tới 50%. Chương trình Thiên nga Bắc Âu (Nordic Swan) của các nước Bắc Âu
thông báo đã giảm được lượng khí thải trên 60% so với trước. (Theo Dominique Hes:
Introduction to Ecolabelling standards, issues, experiences and the use of LCA, Hội thảo Quốc
gia lần thứ 2, Melbourne 2000).
Không chỉ có thế, sự tăng thị phần các sản phẩm được dán nhãn sinh thái còn thể
hiện sự tụt hạng của các sản phẩm cùng loại không có nhãn sinh thái, với vòng đời gây ảnh hưởng
không tốt tới môi trường hay mang nhiều chất độc hại hơn. Quá trình phân phối, tiêu dùng ưu tiên
những sản phẩm có dán nhãn đã phần nào loại bỏ bớt những sản phẩm không dán nhãn, góp phần
làm cho môi trường ngày một cải thiện.
Về phía người tiêu dùng, họ được hưởng lợi từ những thông tin đánh giá môi

trường mà nhãn sinh thái mang lại. Chính phủ – 1 chủ thể tiêu dùng đặc biệt – cũng có được
những lợi ích nhất định từ nhãn sinh thái. Tại một số nước, các Chính phủ đã đặt ra yêu cầu “mua
sắm xanh” để hưởng ứng chương trình nhãn sinh thái. Chẳng hạn, ở Canada, việc mua sắm công
của các công chức trong ngành quản lý môi trường đều phải sử dụng các sản phẩm có đăng kí
nhãn sinh thái. Ở Nhật Bản hiện nay đã có mạng lưới “mua sắm xanh”, trong đó Nhà nước khuyến
khích mua sắm những sản phẩm thân thiện với môi trường, trong đó có sản phẩm mang nhãn sinh
thái. Tại Úc, Chính phủ đặt ra quy định khi mua sắm phục vụ hoạt động quản lý nhà nước, công
chức phải xem xét đúng mức tới quy định về nhãn sinh thái của sản phẩm. Những chính sách như
vậy đã giúp hcinhs phủ quản lý tốt hơn tình hình lưu thông phân phối hàng hóa và dịch vụ trên thị
trường, thực hiện tốt các mục tiêu bảo vệ môi trường đã đề ra, quản lý tốt hơn vấn đề môi trường
quốc gia.
Với các ngành công nhiệp, các nhà sản xuất, cung cấp, phân phối hàng hóa, dịch
vụ, nhãn sinh thái cũng đem tới những lợi ích không nhỏ. Lợi ích rõ ràng nhất là các vụ kiện tụng
do hàng hóa không đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường, do người tiêu dùng nghi ngờ về độ
“sạch” của sản phẩm đã giảm hẳn. Thị trường cho các sản phẩm của họ cũng được mở rộng. Theo
kết quả điều tra 286 công ty có áp nhãn sinh thái của Úc (Sasha Courville: thế nào là áp nhãn
sinh thái ở quốc tế thông dụng nhất , Tổ chức áp nhãn sinh thái Australia, 2002) , các công ty
này đều cho rằng những tác động tới hoạt động kinh doanh quan trọng nhất sau khi sản phẩm được
cấp nhãn sinh thái là họ đã đáp ứng được kì vọng của khách hàng vềs ản phẩm, cải thiện được các
cơ hội thị trường, nâng cao được chất lượng sản phẩm, tiết kiệm được chi phí do giảm thời gian

Luật Môi trường

20


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1


chế biến, giảm nguyên liệu đầu vào, giảm tỷ trọng sai sót hỏng hóc, khai thác được lợi thế cạnh
tranh, nâng cao uy tín trên thị trường,.. Mặc dù phải bỏ ra 1 khoản chi phí để cải tiến công nghệ,
kết quả mà họ thu được sau khi sản phẩm được tung ra thị trường thường là rất khả quan. Theo
báo cáo của Bộ Môi trường Thụy Điển, sau 1 thời gian kể từ năm 1995, thị trường đối với những
sản phẩm và dịch vụ có nhãn sinh thái đã tăng 10 lần.
Với hoạt động sản xuất hàng hóa, nhãn sinh thái đã góp phần cải tiến quy trình
công nghệ. Theo kết quả nghiên cứu thống kê của Australia nhằm vào 300 công ty thì trong đó có
tới 86% các công ty đã thay đổi quy trình công nghệ sản xuất để thỏa mãn các yêu cầu của chương
trình cấp nhãn sinh thái (Sasha Courville: thế nào là áp nhãn sinh thái ở quốc tế thông dụng
nhất, Tổ chức áp nhãn sinh thái Australia, 2002) . Ngoài ra, các tiêu chuẩn của nhãn sinh thái
còn giúp thống nhất các tiêu chuẩn kĩ thuật trong sản xuất, từ đó dễ dàng cho việc sản xuất hàng
loạt theo quy mô lớn về chiều rộng lẫn chiều sâu, làm khối lượng hàng hóa được sản xuất ngày
càng tăng nhanh, mở rộng phạm vi các cơ sở sản xuất ra toàn thế giới. Điều này cũng giúp cho
năng suất lao động tăng (do chi phí giảm), hiệu quả trong sản xuất cũng được nâng cao.
Bên cạnh môi trường và quá trình sản xuất, nhãn sinh thái còn có tác động rất lớn
tới hoạt động thương mại, xuất-nhập khẩu các loại hàng hóa, dịch vụ. Tuy việc đăng kí xin cấp
nhãn sinh thái là do doanh nghiệp tự nguyện và không bắt buộc, nhưng thực tế ở những khu vực
mà mức sống của người tiêu dùng ngày một cao, họ càng quan tâm hơn đến những sản phẩm có
nhãn sinh thái. Đây là điều rất bất lợi đối với các nhà sản xuất nước ngoài khi mặt hàng của họ
không có nhãn sinh thái, không đủ tiêu chuẩn để được cấp nhãn sinh thái, hoặc không có nhãn sinh
thái chỉ vì họ không nắm được các quy trình và yêu cầu cấp nhãn sinh thái. Đây cũng là khía cạnh
của nhãn sinh thái gây tranh cãi nhiều nhất, bởi trong hoàn cảnh cạnh tranh hiện nay, nhiều quốc
gia đã lợi dụng các quy định về nhãn sinh thái để bảo hộ sản xuất trong nước, hạn chế hàng nhập
khẩu nước ngoài. Trước đây, để đề phòng trường hợp này, Hiệp định chung về thương mại và thuế
quan năm 1994 (GATT 1994) có quy định rằng các quy định về yêu cầu sản phẩm, về nhãn sinh
thái để bảo vệ môi trường của các quốc gia phải phù hợp với nguyên tắc không phân biệt đối xử và
các quy định về rào cản kĩ thuật trong thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ, tuy nhiên điều
này không làm giảm những tranh cãi về khía cạnh bảo hộ thị trường bất bình đẳng mà quy định về
nhãn sinh thái tại các nước phát triển đặt ra với sản phẩm nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế
kém hơn.

Những phản đối mạnh mẽ nhất đối với các chương trình nhãn sinh thái chủ yếu đến
từ phía các nhà nhập khẩu từ các nước đang phát triển. Các sản phẩm được cấp nhãn sinh thái bởi
chương trình ở các nước phát triển, ví dụ nhãn Green Seal, chủ yếu là sản phẩm từ các nước phát
triển khác. Hơn nữa, các sản phẩm được cấp nhãn sinh thái còn được quảng cáo, tuyên truyền ủng
hộ thông qua phương tiện truyền thông theo chính sách ủng hộ sản phẩm được cấp nhãn của các
chương trình cấp nhãn sinh thái. Còn đối với nhà sản xuất, cung cấp tại các nước đang phát triển,
việc đáp ứng những yêu cầu, tiêu chuẩn môi trường cao là nằm ngoài khả năng của nguồn vốn và
kĩ thuật họ đang có, vì thế họ xem các chương trình nhãn sinh thái như một dạng hàng rào thương
mại phi thuế quan với các sản phẩm của họ, một nỗ lực ngầm của chính quyền nước nhập khẩu
nhằm bảo vệ thị trường trong nước và cạnh tranh không lành mạnh.
Không chỉ các nhà xuất khẩu tới từ các nước đang phát triển, các nhà xuất khẩu từ
nước phát triển cũng không tránh khỏi có lúc lên tiếng chỉ trích các tiêu chuẩn nhãn sinh thái về
vòng đời sản phẩm là khó đáp ứng. Chẳng hạn, vào năm 1994, tại EU, tiêu chí nhãn sinh thái được
ban hành cho sản phẩm giấy vệ sinh và giấy cuộn, đề cập tới các vấn đề: quản lý bền vững nguồn
khai thác (chủ yếu là gỗ), hạn chế và tiến tới thay thế việc sử dụng than, dầu, khí đốt bằng những
nguồn nguyên liệu khác có khả năng tái chế, giảm thải các khí CO 2, SO2, AOX và 1 số chất vô cơ

Luật Môi trường

21


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

khác, tăng hàm lượng có khả năng tái chế của giấy trong quá trình sản xuất.. Khi ấy, Chính phủ
Mỹ, Canada cùng đại diện các ngành công nghiệp Argentian, Nhật, ANh đã phản đối tiêu chí này,
cho rằng việc đề cập tới toàn bộ vòng đời của sản phẩm như vậy khiến các nhà nhập khẩu rất khó
đáp ứng, hoặc nếu đáp ứng thì họ cũng phải chịu lỗ mà không đem lại hiệu quả cho việc kinh

doanh. Phía Brazil còn đả kích việc tiêu chí nhấn mạnh vào hàm lượng tái chế của giấy, trong khi
các nước này sản xuất ra loại giấy có hàm lượng giấy nguyên chất cao. Các nước cũng phê phán
tính thiếu minh bạch của chương trình: các nhà nhập khẩu nước ngoài chỉ được đưa ra ý kiến,
không được tham gia thảo luận, trao đổi trực tiếp trong quá trình xây dựng tiêu chí.
Trong 1 vụ việc khác, lần này liên quan tới sản phẩm dệt may tại EU (trong đó 80%
giá trị nhập khẩu là đến từ các quốc gia đang phát triển), các nhà sản xuất tại Mỹ và các nước đang
phát triển lại tiếp tục phản đối yêu cầu nhãn sinh thái tại EU do đã đề cập tới cả quá trình sản xuất
từ lúc giảm sử dụng phân bón hóa chất trong trồng bong tới việc giảm thiểu chất VOC và 1 số hóa
chất khác còn tồn dư trong vải được sử dụng khi dùng để làm ẩm, tẩy, nhuộm, hấp,.. Một lý do
khác cũng khiến các nhà xuất khẩu phản đối EU là hầu hết các sản phẩm được cấp nhãn sinh thái
EU là của các doanh nghiệp, nhà bán buôn bán lẻ,… thuộc thị trường EU, còn những thành phần
nước ngoài thì phải thông qua các nhà sản xuất, đại lý,… tại EU để được cấp nhãn sinh thái cho
sản phẩm của họ. Tuy nhiên, vì nhu cầu đối với thị trường, cộng thêm sức cạnh tranh ngày càng
tăng, nhiều nhà xuất khẩu tại các nước cuối cùng vẫn phải chấp thuận và cam kết sẽ đáp ứng
những tiêu chuẩn nhãn sinh thái của EU hay Mỹ nhằm có cơ hội chen chân vào các thị trường này.
Bên cạnh mối lo ngại về rào cản phi thuế quan mà các tiêu chuẩn cấp nhãn sinh thái
đặt ra, các chương trình cấp nhãn sinh thái còn gặp phải một vấn đề khác. Đó là việc ngày càng có
nhiều chương trình cấp nhãn sinh thái khác nhau, hướng đến những sản phẩm khác nhau, với
những tiêu chí khác nhau cho nhãn sinh thái. Điều này làm giảm khả năng nhận biết nhãn sinh thái
của người tiêu dùng, gây hoang mang không ít.
III/ CHƯƠNG TRÌNH NHÃN SINH THÁI Ở VIỆT NAM
1. Biểu tượng Nhãn sinh thái ở Việt Nam
Chương trình Nhãn sinh thái Việt Nam được triển khai trên phạm vi toàn quốc từ tháng 3
năm 2009 nhằm mục tiêu liên tục cải thiện và duy trì chất lượng môi trường sống thông qua giảm
thiểu sử dụng và tiêu dùng năng lượng, vật liệu cũng như các loại chất thải sinh ra do quá trình sản
xuất, kinh doanh và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng phục vụ đời sống.

Luật Môi trường

22



Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

Logo được chọn làm biểu trưng cho nhãn sinh thái Việt Nam.
(Ảnh: Tổng Cục Môi trường)
“ Biểu tượng sử dụng những hình tượng gắn bó chặt chẽ: Một con chim đang nằm trong tổ
ấm, giữa một lùm cây lớn, ở phía trên một dòng sông gợn sóng xanh. Những hình tượng này ẩn dụ
ý nghĩa thân thiện môi trường, bảo vệ sinh thái, quản lý và sử tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên, đ
ồng thời nói lên giá trị của các sản phẩm mang nhãn xanh Việt Nam” (Điều 1 Quyết định số
253/QĐ-BTNMT ngày 05/3/2009 phê duyệt Chương trình cấp nhãn sinh thái).
2.

Chương trình nhãn sinh thái ở Việt Nam

Để đạt được hiệu quả bảo vệ môi trường, Chương trình Nhãn xanh Việt Nam thực hiện
đánh giá khả năng kiểm soát, hạn chế tác động đối với môi trường của các loại sản phẩm, dịch vụ
tiêu dùng theo quan điểm “xem xét toàn bộ vòng đời sản phẩm”. (Vòng đời sản phẩm bắt đầu với
việc khai thác, xử lý và cung cấp các nguyên liệu và năng lượng cho sản xuất. Sau đó, nó bao gồm
quá trình sản xuất ra sản phẩm, phân phối và sử dụng sản phẩm (có thể cả tái sử dụng và tái chế),
và cuối cùng là thải bỏ. Các tác động môi trường xảy ra trong các giai đoạn khác nhau của vòng
đời sản phẩm cần được tính một cách bao quát). Theo đó, lợi ích môi trường mà mỗi sản phẩm có
khả năng mang lại từ việc giảm thiểu phát thải các loại chất gây ô nhiễm, chất độc hại ra môi
trường từ các khâu khai thác nguyên/vật liệu, sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng cho đến khi thải bỏ
đối với loại hình sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng đó sẽ được xem xét và đánh giá trên cơ sở các bộ
tiêu chí được xây dựng riêng cho từng loại hình sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng.
Trong xu hướng người tiêu dùng nhạy cảm hơn với các sản phẩm thân thiện với môi
trường thì việc các doanh nghiệp lựa chọn cho mình con đường phát triển “xanh” là đúng đắn và

có thể đảm bảo cho tiềm năng phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Việt Nam là nước có nhiều mặt hàng xuất khẩu lớn như thủy sản, dệt may hay nông
sản. Các mặt hàng xuất khẩu đã mang lại cho nước ta một nguồn thu ngoại tệ lớn nhưng nếu so
với tiềm năng thì các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể làm nhiều hơn thế. Một công cụ giúp cho
các sản phẩm của Việt Nam tăng giá trị trên thị trường quốc tế chính là nhãn sinh thái.
Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ, EU hay Nhật Bản…đều phải
chịu những kiểm duyệt khắt khe về chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm và các quy
định về bảo vệ môi trường. Đã rất nhiều lần, các mặt hàng Tôm xuất khẩu của Việt Nam bị trả lại
vì vi phạm về chất kháng sinh, những mặt hàng hoa quả và nông sản của Việt Nam thường vi
phạm các tiêu chuẩn về chất bảo vệ thực vật …Điều này làm giảm giá trị và làm mất uy tín của
hàng hóa Việt nam trên thị trường quốc tế. Nếu hàng hóa Việt Nam chứng minh được chất lượng
đảm bảo phù hợp với các tiêu chuẩn của các thị trường xuất khẩu thì chắc chắn cơ hội tăng trưởng
trên thị trường xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn. Không chỉ đối với các hàng hóa xuất khẩu,
người tiêu dùng trong nước hiện nay cũng đang quan tâm nhiều hơn đối với các quy định về môi
trường của sản phẩm. Các hàng hóa, dịch vụ sẽ tạo được thiện cảm và niềm tin với người tiêu
dùng nhiều hơn nếu chúng là sản phẩm thân thiện với môi trường. Đây cũng là cách đảm bảo một
sự tăng trưởng bền vững cho doanh nghiệp.
Tại Việt Nam đã xuất hiện các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường và có
những sản phẩm, dịch vụ có nhu cầu được cấp nhãn sinh thái để quảng bá cho các nỗ lực bảo vệ

Luật Môi trường

23


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

môi trường của mình. Trong tương lai, nhu cầu công bố các thông tin về môi trường của sản phẩm

đối với người tiêu dùng cũng như của các bên liên quan ngày càng tăng, do vậy, việc thiết kế, xây
dựng và thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái là rất cần thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với
doanh nghiệp và xã hội.Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc phấn đấu để đạt nhãn sinh thái còn khá mới
mẻ và chưa thực sự được nhiều doanh nghiệp quan tâm.
Theo Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, hiện nay Việt Nam mới chỉ có
5% sản phẩm tiêu dùng, dịch vụ là có đủ tiêu chuẩn dán nhãn sinh thái và chưa có tổ chức đánh
giá và cấp nhãn sinh thái, mà mới chỉ có các chương trình nghiên cứu và mô hình đề xuất về lý
thuyết. Hiện tại thị trường Việt Nam chủ yếu chỉ có các sản phẩm mang tính nhãn sinh thái kiểu II
do nhà sản xuất và dịch vụ đưa ra như: rau sạch, thịt sạch, tủ lạnh không sử dụng khí CFC…
nhưng chưa được cộng đồng thừa nhận và tin tưởng.
Trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phấn đấu đến năm 2020, 100% sản phẩm hàng hoá
xuất khẩu (có nhu cầu) và 50% hàng hoá tiêu dùng nội địa (thuộc đối tượng cấp nhãn) của Việt
Nam sẽ đựơc ghi nhãn sinh thái theo tiêu chuẩn ISO 14024. Đây là cơ sở và định hướng quan
trọng để các doanh nghiệp phấn đấu vì một nền sản xuất sạch và cho ra đời các sản phẩm hàng hoá
an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Như vậy, con đường để cho các hàng hóa
Việt Nam được chứng minh là đủ các tiêu chuẩn môi trường còn rất dài.
Việc gia nhập WTO càng thúc đẩy Việt Nam phải nhanh chóng đưa các quy định về
nhãn sinh thái vào áp dụng nếu không muốn bị thụt lùi sâu hơn so với các nước khác. Những
chính sách từ phía chính phủ sẽ là tiền đề để cho các doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong chiến lược
phát triển sản phẩm của mình. Hiện Việt Nam cũng chưa có tiêu chuẩn nhãn sinh thái chung nên
nhiều khi sản phẩm của nước ta vào thị trường một nước nào đó cũng bị rào cản này gây khó khăn.
Để sản phẩm của mình đủ tiêu chuẩn được dán nhãn sinh thái, phải đổi mới công nghệ, đầu tư
vốn... duy trì quy trình sản xuất cũng như sản phẩm đầu ra đáp ứng đủ các tiêu chuẩn môi trường.
Mặc dù khó khăn nhưng chắc chắn việc thực hiện dán nhãn sinh thái sẽ tăng khả năng cạnh tranh,
đặc biệt khi sản phẩm có nhãn sinh thái thì người tiêu dùng sẽ yên tâm mua hàng hơn.
Các Văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Nhãn sinh thái :
1.1.
Quyết định số 253/QĐ-BTNMT ngày 05 tháng 3 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường phê duyệt Chương trình cấp nhãn sinh thái.

1.2.
Quyết định số 1492/QĐ-BTNMT ngày 13 tháng 8 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường về việc Thành lập Hội đồng Tư vấn Chương trình cấp nhãn sinh thái.
1.3.
Quyết định số 1493/QĐ-BTNMT ngày 13 tháng 8 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường quy định về trình tự, thủ tục, chứng nhận và cấp thí điểm “Nhãn xanh
Việt Nam”.
1.4.
Quyết định số 1906/QĐ-BTNMT ngày 12/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên
và Môi trường về việc ban hành Quy chế làm việc của Hội đồng Tư vấn Chương trình cấp nhãn
sinh thái.
1.5.
Quyết định số 1907/QĐ-BTNMT ngày 12 tháng 10 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt danh sách thành viên Hội đồng Tư vấn Chương trình
cấp nhãn sinh thái.

Luật Môi trường

24


Các vấn đề về Nhãn sinh thái

Nhóm 1

1.6.
Quyết định số 2232/QĐ-BNMT ngày 13 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam cho nhóm sản phẩm
sau:
1. Bột giặt (mã tiêu chí: NXVN 01:2010)

2. Bóng đèn huỳnh quang (mã tiêu chí: NXVN 02:2010)
3. Bao bì nhựa tự phân hủy sinh học dùng gói hàng khi mua sắm (mã tiêu chí: NXVN
03:2010)
1.7.
Quyết định số 221/QĐ-BTNMT ngày 29 tháng 2 năm 2012 của Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Kế hoạch phát triển Danh mục nhóm sản phẩm, dịch vụ
chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam giai đoạn 2012-2016.
1.8.
Quyết định số 223/QĐ-BTNMT ngày 29 tháng 2 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường phê duyệt tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam cho nhóm sản phẩm sau:
1. Bao bì giấy tổng hợp dùng đóng gói thực phẩm (mã tiêu chí NXVN 04:2012)
2.
05:2012).

3.

Vật liệu lợp, ốp, lát thuộc vật liệu gốm xây dựng (mã tiêu chí NXVN

Kết quả

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nâng cao mức độ hài
hòa tiêu chuẩn với khu vực và quốc tế. Theo thống kê, hiện Tiêu chuẩn Việt Nam hài hòa với tiêu
chuẩn quốc tế vào khoảng 20% (so với Malaysia 38%, Nga 30%, Trung Quốc 43%, Hàn Quốc
32,5%). Trong thời gian tới Việt Nam đang có kế hoạch cụ thể để nâng tổng số Tiêu chuẩn Việt
Nam hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế lên tới 30%, đồng thời đảm bảo sự đồng thuận cao từ phía các
nhà sản xuất, kinh doanh dịch vụ, các cơ quan quản lí và người tiêu dùng, gắn chặt với các sản
phẩm, dịch vụ xuất khẩu là thế mạnh và có tiềm năng của đất nước. (Tổng cục đo lường tiêu chuẩn
chất lượng, năm 2003).
Tại Việt Nam đã xuất hiện các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường
và có những sản phẩm, dịch vụ có nhu cầu được cấp nhãn sinh thái để quảng bá cho các nỗ lực

bảo vệ môi trường của mình. Trong tương lai, nhu cầu công bố các thông tin về môi trường của
sản phẩm đối với người tiêu dùng cũng như của các bên liên quan ngày càng tăng, do vậy, việc
thiết kế, xây dựng và thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái là rất cần thiết và có ý nghĩa thiết
thực đối với doanh nghiệp và xã hội.
Sản phẩm bột giặt Tide của Công ty P&G và bóng đèn huỳnh quang của Công ty Điện
Quang là hai sản phẩm đầu tiên tham gia chương trình thí điểm cấp Nhãn xanh Việt Nam và đã đạt
tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam.

Luật Môi trường

25


×