Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
A. MỞ ĐẦU.
Thuế là một phạm trù kinh tế và cũng là một phạm trù lịch sử. Lịch sử xã
hội loài người đã chứng minh rằng thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn
vớisự hình thành và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại đồng thời với
việc thực hiện các chức năng của mình, nhà nước cần có nguồn vật chất để thực
hiện những chi tiêu có tính chất xã hội. Với tư cách là chủ thể quyền lực, Nhà
nước đã sử dụng công cụ riêng là pháp luật để tập trung bộ phận của cải xã hội
mà không phụ thuộc vào ý chí của đối tượng nắm giữ của cải đó. Cụ thể công cụ
đó chính là pháp luật quản lý thuế, nhà nước dùng pháp luật quản lý thuế để có
được nguồn vật chất từ công dân nhằm đầu tư cho xã hội. Khi pháp luật quản lý
thuế được sử dụng ngoài việc tác động trực tiếp đến chính sách thuế thì nó còn
có ảnh hưởng tới các ngành luật khác, đồng thời nó cũng chịu sự ảnh hưởng của
các ngành luật liên quan. Bài viết sau sẽ làm rõ về mối quan hệ biện chứng giữa
pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan.
B. NỘI DUNG.
I. Khái quát về pháp luật quản lý thuế.
Xét về mặt lý thuyết, pháp luật thuế bao gồm: pháp luật vật chất hay còn
gọi pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục hay còn gọi pháp luật hình thức;
trong đó pháp luật vật chất ghi nhận, phản ánh chính sách thuế, còn pháp luật thủ
tục quy định các vấn đề về quản lý thuế.
1. Khái niệm quản lí thuế và pháp luật quản lí thuế.
Theo nghĩa rộng, quản lí thuế không chỉ bao gồm hoạt động tổ chức điều
hành quá trình thu nộp thuế vào NSNN mà còn bao gồm hoạt động xây dựng
chiến lược phát triển hệ thống thuế, ban hành pháp luật thuế và cả hoạt động
kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền thuế của các tổ chức thụ hưởng NSNN
Theo nghĩa hẹp, quản lí thuế được hiểu là quản lí tài chính về thuế, nghĩa
là bao gồm các hoạt động nghiệp vụ mang tính chất tài chính trong lĩnh vực thuế.
Đó không phải là hoạt động lập pháp hay xét xử mà là hoạt động chấp hành theo
kế hoạch và trình tự nhất định, được thực hiện bởi chủ thể của quyền lực công,
cụ thể là các cơ quan hành chính thuế từ trung ương đến địa phương, nhằm thực
hiện các nhiệm vụ công.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
1
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
Từ đây nhóm xin đưa ra định nghĩa “Pháp luật quản lí thuế là hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động việc quản lý đối với các
loại thuế và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ quan quản lý
thuế thu theo quy định của pháp luật”.
2. Phạm vi và đối tượng điều chỉnh của Luật Quản lý thuế Việt Nam.
Về phạm vi điều chỉnh, Luật Quản lý thuế Việt Nam quy định việc quản lý
đối với các loại thuế và các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước do cơ
quan quản lý thuế thu theo quy định của pháp luật. Như vậy, Luật Quản lý thuế
Việt Nam không chỉ điều chỉnh các quan hệ quản lý thuế của cơ quan thuế mà
còn điều chỉnh các quan hệ quản lý thuế của cơ quan hải quan và các khoản thu
do cơ quan hải quan thực hiện. (Điều 1 Luật quản lí thuế 2006 và Điều 1 Thông
tư 28/2011).
Về đối tượng điều chỉnh, Luật Quản lý thuế Việt Nam áp dụng đối với
người nộp thuế được quy định tại các luật thuế, phí và lệ phí, các đại lý thuế; cơ
quan quản lý thuế; công chức thuế, công chức hải quan; cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện các luật thuế. Cụ thể tại Điều 2
Luật quản lí thuế 2006 và thông tư 28/2011: “Điều 2. Đối tượng áp dụng
1. Người nộp thuế bao gồm:
a) Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nộp thuế, phí, lệ phí hoặc các khoản thu
khác thuộc ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;
b) Tổ chức được giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước;
c) Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế;
d) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế, bao gồm:
d.1) Tổ chức, cá nhân là bên Việt Nam ký hợp đồng với tổ chức, cá nhân
nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập tại Việt Nam mà tổ chức,
cá nhân nước ngoài thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, nộp
thuế TNDN theo tỷ lệ % tính trên doanh thu;
d.2) Tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế khi chi trả thu nhập cho người có thu
nhập thuộc diện nộp thuế thu nhập cá nhân;
2. Cơ quan thuế gồm: Tổng cục Thuế, Cục Thuế và Chi cục Thuế;
3. Công chức thuế;
4. Cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực
hiện pháp luật về thuế.”
3. Nội dung quản lí thuế.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
2
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
Nội dung của luật quản lí thuế được quy định tại điều 3 Luật quản lí thuế
2006 và thông tư 28/2011.
Luật Quản lý thuế Việt Nam đã phản ánh, ghi nhận khá đầy đủ, toàn diện
các nội dung của quản lý thuế và đặc biệt có thêm nhiều nội dung mới mà trước
đây các luật về chính sách thuế chưa có điều kiện quy định như: Nguyên tắc
quản lý thuế; Trách nhiệm của Hội đồng tư vấn thuế xã, phường, thị trấn; Trách
nhiệm của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, toà án; Trách nhiệm của Mặt trận tổ
quốc Việt Nam, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp; Trách nhiệm của cơ
quan thông tin, báo chí trong việc quản lý thuế; Hợp tác quốc tế về quản lý thuế;
Xây dựng lực lượng quản lý thuế; Hiện đại hoá công tác quản lý thuế; Tổ chức
kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế; Thông tin về người nộp thuế; Gia hạn
nộp thuế; Xoá nợ thuế; Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế v.v..
Hoặc các vấn đề về quản lý thuế có quy định tại các luật về chính sách thuế
nhưng chưa chi tiết cụ thể hoặc được quy định ở các nghị định, thông tư, như:
Thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt; Xử lý số tiền thuế nộp thừa; Nộp thuế
trong thời gian giải quyết khiếu nại, khiếu kiện; Trách nhiệm hoàn thành nghĩa
vụ nộp thuế; Các biện pháp áp dụng trong thanh tra thuế đối với trường hợp có
dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế; Cưỡng chế thuế v.v.. Đó là thành công khó có
thể phủ nhận của Luật Quản lý thuế hiện hành.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận
pháp luật khác có liên quan.
Trước khi đi phân tích về mối quan hệ biện chứng giữa pháp luật quản lý
thuế và các bộ phận pháp luật khác cần tìm hiểu biện chứng là gì. Trong chủ
nghĩa Mác – Lênin, khái niệm biện chứng được dùng để chỉ những mối liên hệ,
tương tác và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá
trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy phân tích mối quan hệ biện chứng
giữa pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác có liên quan chính là
làm rõ xem giữa chúng có những mối liên hệ, tương tác ra sao và sự gắn bó chặt
chẽ, thống nhất giữa các ngành luật này.
1. Quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế và pháp luật thuế.
1.1. Khái quát về pháp luật thuế.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
3
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
Pháp luật thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế giữa cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu cho ngân sách nhà nước để
thực hiện các mục tiêu xác định trước.
Nội dung của pháp luật thuế thì có hai nội dung, thứ nhất, gồm những quy
phạm pháp luật định nên những nội dung cơ bản của sắc thuế, như quy định đối
tượng nộp thuế; đối tượng chịu thuế; cơ sở tính thuế; mức thuế (thuế suất). Thứ
hai, gồm nhóm quy định pháp luật quy định về trình tự, thủ tục thu nộp thuế, như
quy định về thẩm quyền của cơ quan thu thuế; thủ tục kê khai nộp thuế; thời hạn
nộp thuế, miễn giảm thuế, khiếu nại, tố cáo; xử lý vi phạm…
Vì vậy, để điều chỉnh những quan hệ xã hội về thuế, Nhà nước ta đã ban hành
những văn bản luật và văn bản dưới luật như: Luật thuế giá trị gia tăng, Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, Pháp lệnh thuế
tài nguyên,…
1.2. Mối quan hệ giữa pháp luật quản lí thuế và pháp luật thuế.
Thực tiễn lập pháp cho thấy có hai xu hướng: một là, các vấn đề về quản
lý thuế được ghi nhận trong các luật về chính sách thuế; hai là, các vấn đề về
quản lý thuế được quy định tại một văn bản độc lập - gọi là luật quản lý thuế. Tất
nhiên mỗi một xu hướng đều có các ưu nhược điểm khác nhau, nhưng xu hướng
thứ nhất thường gặp phải các rắc rối trong việc thể hiện các nội dung về quản lý
thuế, vì vậy ảnh hưởng lớn đến các hành vi ứng xử trong thực thi quản lý thuế.
Song cũng phải thấy rằng, ranh giới giữa luật quản lý thuế và các luật về chính
sách thuế cũng không hoàn toàn quá rạch ròi trong cách thể hiện, bởi điều này
còn phụ thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập pháp và sự lựa chọn của các nhà làm
luật, chẳng hạn: các quy định quản lý có tính chất đặc thù của từng sắc thuế có
thể sẽ được đưa vào các luật về chính sách thuế, còn các quy định quản lý mang
tính chất chung sẽ được đưa vào luật quản lý thuế. Điều này không hoàn toàn
phá vỡ nguyên tắc chung mà đạt được hiệu quả cao.
Tất nhiên, để có một cơ cấu thống nhất, đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý
thuế, luật quản lý thuế phải được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản, có
thể theo nguyên tắc trình tự thời gian, có thể theo nguyên tắc chức năng hoặc có
thể theo nguyên tắc phạm trù pháp lý. Nếu theo nguyên tắc trình tự thời gian thì
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
4
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
luật quản lý thuế được xây dựng bắt đầu bằng việc giải thích luật, tiếp theo xác
định nghĩa vụ của người nộp thuế, trách nhiệm quyền hạn của cơ quan thuế và
sau đó đi sâu vào từng nghĩa vụ, trách nhiệm quyền hạn cụ thể. Nếu theo nguyên
tắc chức năng thì luật quản lý thuế được xây dựng trên cơ sở theo chức năng
quản lý của cơ quan thuế như chức năng cung cấp thông tin, chức năng kiểm tra,
thanh tra thuế; chức năng điều tra thuế; cưỡng chế thuế; chức năng xử lý nợ thuế;
xử lý vi phạm pháp luật thuế v.v.. và cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý thuế
cũng được thiết kế trong luật (như nguyên tắc tổ chức, hoạt động của cơ quan
quản lý thuế; cơ cấu tổ chức của bộ máy quản lý thuế v.v..). Nếu theo nguyên tắc
phạm trù pháp lý thì luật quản lý thuế được thiết kế bắt đầu bằng các khái niệm
sử dụng trong luật, quyền pháp lý của người nộp thuế; nghĩa vụ pháp lý của cơ
quan quản lý thuế; xử lý vi phạm đối với người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế
v.v..
Dù được xây dựng, thiết kế theo nguyên tắc nào thì luật quản lý thuế bao
giờ cũng có vai trò hết sức quan trọng trong việc quản lý điều hành chính sách
thuế hay nói một cách trực diện hơn, luật quản lý thuế là luật tổ chức thực hiện
các luật thuế. Vì vậy, vấn đề hiệu quả của các luật về chính sách thuế phụ thuộc
khá lớn vào luật quản lý thuế. Cho dù các luật về chính sách thuế phản ánh chuẩn
xác, khoa học chính sách thuế nhưng nếu luật quản lý thuế - quản lý cách thức
vận hành của chính sách thuế - không phù hợp và thiếu tính khoa học, vô hình
trung, đã làm vô hiệu hoá các luật thuế.
Cũng cần có nhận thức sâu sắc rằng, luật quản lý thuế và các luật về chính
sách thuế có mối quan hệ nội tại thống nhất với nhau, sự thay đổi nội dung của
các luật thuế tất yếu kéo theo sự thay đổi của luật quản lý thuế, đặc biệt đối với
luật quản lý thuế có quy định những vấn đề quản lý mang tính chất đặc thù của
từng sắc thuế. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa sự thay đổi của luật quản
lý thuế hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi của các luật thuế, mà luật quản lý
thuế có tính độc lập tương đối của nó. Sự thay đổi cơ bản của luật quản lý thuế
phần lớn phụ thuộc vào cơ chế, phương thức quản lý thuế của một quốc gia, phụ
thuộc vào ý thức tuân thủ luật pháp của các thành viên trong xã hội.
2. Quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế và luật thương mại.
2.1. Khái quát về luật thương mại.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
5
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
Luật thương mại có thể được hiểu là tổng thể các quy phạm do Nhà nước
ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
tổ chức và thực hiện hoạt động thương mại giữa các thương nhân với nhau và
với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Phạm vi điều chỉnh của luật thương mại là các hoạt động thương mại của
thương nhân như: Đầu tư, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động khác nhằm mục đích sinh lợi khác; Các hoạt động
mang tính tổ chức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng liên quan trực
tiếp đến hoạt động thương mại như: Đăng kí kinh doanh, kiểm tra, giám sát hoạt
động thương mại, giải thể và phá sản doanh nghiệp…
Đối tượng áp dụng của luật thương mại chủ yếu là thương nhân còn trong
một số trường hợp cụ thể, khi thực hiện các hoạt động mang tính tổ chức như:
Đăng kí kinh doanh, giải thể, phá sản doanh nghiệp… Cơ quan có thẩm quyền
cũng là chủ thể của luật thương mại.
2.2. Mối quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế và luật thương mại.
Nhà nước ban hành luật quản lý thuế để quy định chi tiết về các hoạt động
cụ thể về quản lý thuế trong cả nước, trong đó có hoạt động kiểm soát quá trình
thực hiện nghĩa vụ thuế - một trong những hoạt động liên quan đến thương mại
và được luật thương mại điều chỉnh, vì vậy pháp luật quản lý thuế có quan hệ
mật thiết và biện chứng với luật thương mại thông qua các biểu hiện cụ thể sau:
- Thứ nhất, pháp luật thương mại là cơ sở ban hành pháp luật quản lý
thuế:
+ Luật thương mại là văn bản pháp luật quy định đầy đủ nhất về quy mô
hoạt động cũng như tính chất của tất cả các loại hình doanh nghiệp của nền kinh
tế.
Từ các cá nhân kinh doanh đến tập thể kinh doanh, từ kinh doanh nhỏ đến kinh
doanh lớn. Nguồn thu của các cá nhân và doanh nghiệp là một nguồn thu lớn vào
ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế. Nếu như luật thương mại quy định về
các chủ thể nào được phép kinh doanh thì pháp luật về quản lý thuế quy định chủ
thể phải nộp thuế( Điều 2, Luật quản lý thuế 2007). Mỗi một loại hình kinh
doanh lại có những đặc điểm khác nhau, những hoàn cảnh khác nhau, vì vậy sẽ
có những doanh thu khác nhau vì vậy việc quy định về nghĩa vụ nộp thuế sẽ phải
khác nhau. Việc quản lý thuế vì vậy sẽ dựa vào đặc điểm của từng loại hình mà
quản lý, kiểm soát. Như vậy Luật quản lý thuế hoàn toàn đã căn cứ vào đây để
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
6
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
quy định về các chủ thể phải nộp thuế theo như quy định của pháp luật nói
chung.
+ Ngoài ra Luật thương mại còn quy định trách nhiệm của mỗi chủ thể
trong kinh doanh phải có nghĩa vụ nộp thuế theo như quy định của pháp luật.
Nếu như bất cứ chủ thể nào không thực hiện được nghĩa vụ này thì sẽ phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật. Từ đó việc quản lý thuế sẽ dễ dàng hơn.
- Thứ hai, pháp luật quản lý thuế tác động, thúc đẩy thương mại phát triển
từ đó quy định nội dung luật thương mại:
+ Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân tổ chức có thể tồn tại và vận
động theo nhu cầu và lợi ích của chính họ, điều này có thể làm tổn thương đến
trật tự xã hội cũng như định hướng của nhà nước trong từng giai đoạn ở mỗi
quốc gia. Giải quyết vấn đề này, pháp luật quản lý thuế có thể làm thay đổi hoặc
can thiệp gián tiếp vào hoạt động, vào quyết định đầu tư của các chủ thể nhằm
đạt tới mục tiêu nhất định của nhà nước. Thông qua hệ thống pháp luật thuế, nhà
nước có thể thay đổi cơ cấu đầu tư, cơ cấu ngành kinh tế mà không cần can thiệp
hành chính như quy định cụ thể khác nhau giữa nghĩa vụ thuế của đối tượng ưu
tiên và đối tượng bị hạn chế. Chính điều này sẽ làm ảnh hưởng tới cơ hội tìm
kiếm thu nhập của đối tượng đầu tư, qua đó có thể làm thay đổi luồng chu
chuyển vốn từ khu vực đầu tư này sang khu vực đầu tư khác. Ví dụ như việc
không đánh thuế hay đánh thuế, mức thuế suất khác nhau đối với từng ngành
nghề, các mặt hàng hay các loại thu nhập đều có thể tác động đến các ngành,
nghề qua đó đảm bảo sự phát triển cân đối ngành nghề trong nền kinh tế.
+ Hệ thống pháp luật quản lý thuế cũng có khả năng định hướng chỉ tiêu
xã hội, điều chỉnh thu nhập trong những trường hợp cần thiết. Pháp luật quản lý
thuế Việt nam ghi nhận rõ sự hạn chế chỉ tiêu của các đối tượng đối với hàng
hóa, dịch vụ chưa thực sự phù hợp với giai đoạn hiện tại, trong khi đó lại khuyến
khích, tạo cơ hội tối đa cho mọi đối tượng có thể tiếp cận đối với những hàng
hóa, dịch vụ thiết yếu của đời sống xã hội.
+ Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ thuế, các cơ quan quản lý thuế
cùng với đối tượng nộp thuế buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định gắn
với chế độ chứng từ, hóa đơn, nội dung kinh doanh, quy mô kinh doanh, hình
thức kinh doanh, cơ cấu tổ chức…Điều đó cũng có nghĩa là bằng việc quy định
những vấn đề liên quan đến nghĩa vụ thuế, nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh
tế, cụ thể hơn là quản lý hoạt động và sự tồn tại của các doanh nghiệp, các nhà
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
7
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
kinh doanh về mặt hợp pháp và tình hình hoạt động. Qua đó nhằm ổn định nền
kinh tế, khắc phục hạn chế và thúc đẩy đầu tư, đưa nền kinh tế phát triển.
+ Mặt khác, cũng thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật thuế,
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có khả năng phát hiện và xử lý kịp
thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nói riêng và vi phạm trong quá trình
hoạt động gắn với tư cách của đối tượng nộp thuế nói chung.
3. Quan hệ giữa pháp luật quản lý thuế và luật hành chính.
3.1. Khái quát về luật hành chính.
Luật hành chính là ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình hoạt động quản lí hành chính của các cơ quan hành chính nhà
nước; các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các cơ quan nhà nước xây
dựng và ổn định chế độ công tác nội bộ của mình, các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân thực hiện hoạt
động quản lí hành chính đối với các vấn đề do pháp luật quy định.
Hoạt động quản lí hành chính nhà nước được thực hiện thông qua các
quan hệ xã hội được quy phạm pháp pháp luật điều chỉnh. Sự cần thiết điều
chỉnh bởi chỉnh bởi luật hành chính xuất hiện khi nhà nước mong muốn bằng
những phương tiện của luật hành chính tác động đến sự hình thành các quan hệ
xã hội thông qua việc quy định sự can thiệp của các cơ quan hành chính nhà
nước vào quan hệ xã hội đó, hoặc ít nhất là cho phép cơ quan hành chính nhà
nước can thiệp vào quan hệ xã hội đó.
Phạm vi điều chỉnh của luật hành chính bao gồm các quan hệ quản lí phát
sinh trong quá trình các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện hoạt động chấp
hành – điều hành trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội; các quan hệ
quản lí hình thành trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng và củng cố
chế độ công tác nội bộ của cơ quan nhằm ổn định về tổ chức để hoàn thành chức
năng, nhiệm vụ của mình; các quan hệ quản lí hình thành trong quá trình các cá
nhân và tổ chức được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động quản lí hành
chính nhà nước trong một số trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Đồng thời, trên thực tế cũng có sự tồn tại những quan hệ xã hội đòi hỏi sự
phối hợp điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hành chính và quy phạm của
các ngành luật khác. Điển hình là các quan hệ pháp luật đất đai, lao động, tài
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
8
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
chính... Việc điều chỉnh nội dung những quan hệ loại này thuộc về luật tài chính,
luật đất đai, luật lao động còn việc điều chỉnh thủ tục thuộc về luật hành chính.
Sự phối hợp điều chỉnh giữa các quy phạm luật hành chính với quy phạm
các ngành luật khác tạo nên một mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngành luật trong
hệ thống pháp luật nước ta. Đồng thời phát huy được tối đa vai trò của các ngành
luật.
3.2. Mối quan hệ giữa pháp luật quản lí thuế và luật hành chính.
•
•
Xét về bản chất, quan hệ pháp luật thuế là quan hệ pháp luật hành chính,
thiết lập giữa nhà nước với các pháp nhân và thể nhân khác trong xã hội
và được điều chỉnh bởi phương pháp mệnh lệnh quyền uy. Để có được
nguồn thu, nhà nước yêu cầu người dân phải nộp thuế. Để có thể tăng
thêm khả năng chi tiêu, nhà nước có thể ban hành, thay đổi các loại thuế
mới hoặc bãi bổ những ưu đãi về thuế đang áp dụng đối với người dân. Để
kịp thời trang trải cho các hoạt động của mình, có được số thu ổn định và
chủ động, nhà nước yêu cầu người dân nộp đúng, nộp đủ, theo thời hạn số
thuế nhất định. ..Những ví dụ nêu trên cho thấy không có sự bình đẳng
giữa cơ quan có thẩm quyền về thuế và người nộp thuế. Nhà nước có
quyền đơn phương đưa ra những quyết định theo ý chí của mình mà không
cần có sự thỏa thuận của các đối tượng còn lại. Trường hợp cần thiết, nhà
nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế, buộc đối tượng nộp thuế
phải thực hiện nghĩa vụ.
Quản lí thuế là một trong những nội dung quan trọng, không thể tách rời
hoạt động quản lí nhà nước. Hoạt động quản lí thuế gồm nhiều nội dung
cụ thể khác nhau, tuy vậy bao giờ cũng gắn liền với sự tham gia của nhà
nước (nhân danh chính mình hoặc thông qua các cơ quan chức năng).
Hoạt động quản lí thuế của các cơ quan có thẩm quyền bao gồm những
nhóm hành vi cơ bản được tiến hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc
quản lí hành chính và được thể hiện thông qua 1 loạt loại hành vi:
+ Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình quản lí thuế.
- Chấp hành những quy định về thuế của cơ quan có thẩm quyền, chống
hiện tượng chiếm dụng và trốn lậu thuế.
- Xác định phạm vi người nộp thuế và các nguyên tắc đánh thuế
- Xác định đối tượng nộp thuế và các căn cứ tính thuế.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
9
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
- Xác định cách thức tính thuế, quyết định việc miễn giảm thuế trên cơ sở
các quy định của pháp luật.
- Tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thống nhất thu thuế.
- Thanh tra, kiểm tra quá trình thu nộp thuế
+ Nhóm các quan hệ phát sinh trong quá trình xử lí vi phạm và khiếu nại
về thuế:
- Giải quyết khiếu nại những quyết định hành chính của cơ quan có thẩm
quyền khi ra các quyết định không đủ căn cứ, không công bằng, không đúng
pháp luật.
Như vậy, xét đối tượng điều chỉnh của pháp luật thuế, có thể nhận
thấy:
- Nhà nước, với tư cách là chủ thể quyền lực, luôn là một bên tham gia
quan hệ thuế và trực tiếp chi phối các quan hệ đó.
- Các quan hệ đều nhằm hướng đến việc chuyển giao bắt buộc một nguồn
tài chính vào cho nhà nước.
• Đặc điểm về chủ thể và nội dung của các nhóm quan hệ xã hội thuộc đối
tượng điều chỉnh của pháp luật thuế cho thấy các quan hệ do pháp luật
thuế điều chỉnh luôn mang tính chấp hành và điều hành.
• Luật hành chính là cơ sở để hoàn thiện các quy định của pháp luật quản lí
thuế; 2 loại pháp luật thủ tục này có mối quan hệ liên quan chặt chẽ với
nhau. Các điều luật ở hai chế định này giúp cho cơ quan có thẩm quyền có
thể quản lí có hiệu quả hơn.
III. Một số hạn chế của hệ thống pháp luật nước ta ảnh hưởng đến mối
quan hệ của pháp luật quản lý thuế và các bộ phận pháp luật khác.
Về nguyên tắc thiết kế của Luật Quản lý thuế, những người thiết kế đã sử
dụng kết hợp đan xen nhiều nguyên tắc nhưng chủ yếu theo nguyên tắc trình tự
thời gian, trong khi đó bộ máy quản lý thuế được thiết kế theo mô hình chức
năng. Điều này sẽ dẫn đến những điểm chưa thực sự tương thích giữa Luật Quản
lý thuế với thực tiễn vận hành của bộ máy quản lý thuế trong việc tổ chức thực
hiện các luật thuế, đặc biệt, khi áp dụng cơ chế quản lý thuế theo mô hình “một
cửa”. Vì vậy, có lẽ Luật Quản lý thuế nên điều chỉnh theo hướng kết hợp rõ nét
hơn giữa nguyên tắc trình tự thời gian với nguyên tắc chức năng để khắc phục
hạn chế trên. Chẳng hạn, việc lập và nộp hồ sơ khai thuế, các bộ phận có liên
quan đều có chức năng kiểm tra hồ sơ khai thuế của doanh nghiệp. Cụ thể, hồ sơ
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
10
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
khai thuế của doanh nghiệp được thực hiện kiểm tra từ bộ phận một cửa; sau đó
chuyển cho bộ phận kê khai và kế toán thuế; sau đó lại tiếp tục chuyển đến các
bộ phận khác có liên quan như bộ phận kiểm tra, thanh tra, ấn chỉ... mỗi bộ phận
đều có quyền yêu cầu doanh nghiệp giải trình, vì vậy một doanh nghiệp trong
một kỳ kê khai có thể nhận được 4-5 thông báo giải trình của cơ quan thuế
nhưng không biết liên hệ đến những bộ phận nào để giải quyết. Hoặc về công tác
thu nộp thuế, Phòng kiểm tra thuế có chức năng thực hiện kế hoạch thu thuế
được giao, vì vậy có trách nhiệm đôn đốc thu thuế. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế
và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định rõ Phòng kiểm tra thực hiện
đôn đốc thu từ ngày nào đến ngày nào, Phòng thu nợ và cưỡng chế thuế thực
hiện từ khâu nào.
Luật Quản lý thuế hiện nay không chỉ quy định những vấn đề chung về tổ
chức thực hiện các luật thuế, mà còn quy định cả những nội dung tổ chức thực
hiện riêng của từng luật thuế (những vấn đề quản lý có tính chất đặc thù của từng
sắc thuế) và điều đáng nói là số lượng của các điều luật quy định các nội dung
quản lý đặc thù chiếm tỷ lệ khá nhiều, đặc biệt là các quy định quản lý về thuế
xuất khẩu, nhập khẩu. Vì vậy giả sử rằng, khi các luật về chính sách thuế được
tiếp tục ban hành và đó là xu thế tất yếu (chẳng hạn ở nước ta dự kiến đến năm
2010 sẽ ban hành Luật Thuế tài sản, Luật Thuế bảo vệ môi trường…) đương
nhiên kéo theo sự thay đổi, bổ sung của Luật Quản lý thuế và theo đó, vô hình
trung, đã phá vỡ tính ổn định của Luật Quản lý thuế.
Về điều kiện xóa nợ thuế trong Luật quản lý thuế hiện nay cũng được
đánh giá là không thực sự khả thi. Chẳng hạn đối với những doanh nghiệp mà 10
năm nay không hoạt động thì có coi là nợ thuế không? Điều kiện xác định như
thế nào là nợ thuế?... Bởi trên thực tế, hiện có rất nhiều doanh nghiệp đang trong
cảnh “chết rồi mà chưa chôn”, tức là dù không có nhà xưởng, công nhân, không
hoạt động nữa, nhưng lại chưa tuyên bố giải thể. Như vậy thì tính nợ thuế cho
doanh nghiệp này thế nào, mà nợ này có đòi được không? Vấn đề này cần được
xem xét, điều chỉnh để sao cho sát với thực tế và thực sự khả thi. Về tiền hoàn
thuế cho doanh nghiệp và tiền phạt nộp thuế, giả sử nếu doanh nghiệp chậm thuế
bị phạt bao nhiêu thì cơ quan nhà nước hoàn thuế chậm cũng phải phạt từng ấy.
Có như vậy mới đảm bảo tính công bằng, hướng tới sự minh bạch, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thu thuế, đảm bảo quyền lợi cho doanh
nghiệp.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
11
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
C. KẾT LUẬN.
Qua những phân tích trên có thể thấy được mối quan hệ biện chứng giữa
pháp luật quản lý thuế với các bộ phận pháp luật có liên quan, thấy được sự quan
trọng của sự thống nhất đối với hệ thống pháp luật. Từ những hạn chế của pháp
luật quản lý thuế, Nhà nước cần có những sửa đổi để pháp luật quản lý thuế phù
hợp và thống nhất hơn với các ngành luật khác.
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4
12
Bài tập nhóm tháng 2 – Môn Luật tài chính Việt Nam
MỤC LỤC
Nhóm 02 – Lớp N05. TL4