Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

đối tượng điều chỉnh của luật dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146 KB, 23 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Bộ luật dân sự năm 2005 được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực từ ngày
01/01/2006. Đây là bộ luật lớn nhất của nước ta hiện nay. Với 777 điều luật, bộ
luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến trong đời sống của
nhân dân ta hiện nay.
Ngành luật dân sự quy định cách chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của
các chủ thể trong giao lưu dân sự nhằm bảo đảm sự ổn định và lành mạnh hoá
các quan hệ dân sự trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.Luật dân sự được coi là luật chung trong lĩnh vực luật tư bao gồm
các quy định liên quan đến quyền lợi của chủ thể và về nguyên tắc có thể thay
đổi bằng sự thoả thuận của các bên. Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ tài sản
và quan hệ nhân thân theo nghĩa rộng bao gồm các quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, trong nền kinh tế thị trường ./
Để làm rõ vấn đề đối tượng điều chỉnh của luật dân sự thì chắc bài viết sau
sẽ giúp các bạn hiểu được phần nào về vấn đề trên. Mặc dù đã cố gắng nhưng bài
viết khó tránh khỏi những khiếm khuyết , rất mong các bạn và thầy cô góp ý để
bài viết được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn./
1
Luật Dân sự Việt Nam là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
Việt Nam, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan
hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và các quan hệ nhân thân trên cơ sở
bình đẳng, độc lập của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ đó và có hiệu
lực pháp lý trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
I) Lịch sử của luật dân sự việt nam:
Trong giai đoạn nhà nước phong kiến, luật dân sự Việt Nam không được
tách ra thành một bộ luật riêng mà được tìm thấy trong các điều khoản của các
bộ luật phong kiến như Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức), Nguyễn triều hình
luật (Hoàng Việt luật lệ). Đến khi người Pháp chiếm đóng Việt Nam thì các bộ
luật dân sự được áp dụng riêng rẽ ở ba kỳ lần lượt xuất hiện. Ví dụ ở Nam Kỳ thì


bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu ra đời năm 1883, bộ dân luật Bắc Kỳ ra đời năm
1931 và tại Trung Kỳ là bộ dân luật Trung Kỳ (Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật) ra
đời năm 1936. Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, do hoàn cảnh chiến tranh với
người Pháp nên chính phủ của chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn áp dụng các bộ luật
dân sự này. Ngày 22 tháng 5 năm 1950, chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số
97/SL để "sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật" nhằm sửa đổi một số
điều trong các bộ dân luật cũ này. Tại miền bắc Việt Nam, ngày 10 tháng 7 năm
1959 tòa án tối cao ra chỉ thị số 772/TATC để "đình chỉ việc áp dụng luật pháp
cũ của phong kiến đế quốc". Từ thời điểm đó trở đi, tại miền bắc Việt Nam thiếu
hẳn bộ luật dân sự thực thụ. Một số mảng của luật dân sự được tách ra thành các
bộ luật khác như Luật hôn nhân và gia đình hay các văn bản pháp quy dưới luật
như thông tư, chỉ thị, nghị định, pháp lệnh. Tuy nhiên, nhiều lĩnh vực dân sự như
thừa kế, quyền sở hữu trí tuệ v.v. không được điều chỉnh trực tiếp. Các quy định
về nghĩa vụ dân sự được quy định chủ yếu là các vấn đề về nhà ở, vàng bạc, kim
2
khí quý và đá quý v.v. và nói chung mang nặng tính chất hành chính. Có thể liệt
kê một số văn bản pháp luật trong lĩnh vực dân sự như: Luật hôn nhân gia đình
(1986), Luật Quốc tịch (1988), Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào
Việt Nam (1988), Pháp lệnh về sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng
kinh tế (1989), Pháp lệnh về thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự
(1991), Pháp lệnh về nhà ở (1991) v.v. Tuy các pháp lệnh có nhiều nhưng đôi
khi chồng chéo và mâu thuẫn với nhau nên đã gây ra nhiều khó khăn cho việc áp
dụng pháp luật.
Năm 1995, quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Bộ
luật Dân sự (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 1996). Sau 10 năm thi hành, Bộ
luật Dân sự đã có nhiều hạn chế, bất cập như: một số quy định không phù hợp
với sự chuyển đổi nhanh của nền kinh tế thị trường, không rõ ràng hay không
đầy đủ hoặc còn mang tính hành chính. Nhiều bộ luật mới ra đời có các nội dung
liên quan đến Bộ luật Dân sự Việt Nam 1995 nhưng bộ luật này lại không điều
chỉnh, sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn giữa chúng cũng như chưa có sự tương thích

với các Điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế.
Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự
sửa đổi. Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005 có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm
2006.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng nâng cao tính thực thi của
các văn bản pháp luật,tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảng và nhà nước
ta chủ trương xây dựng một hệ thống ngày càng hoàn chỉnh phản ánh tốt hơn
đường lối của đảng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với mục tiêu, động lực chính của sự phát
triển là vì con người ,do con người , đặt con người vào vị trí trung tâm,giải
3
phóng sức sản xuất,khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân,mỗi tập thể lao
động và của cả cộng đồng dân tộc; động viên và tạo điều kiện cho mọi người
Việt Nam phát huy ý chí tự lực,tự cường,cần kiện xây dựng tổ quốc,ra sức làm
giàu cho mình và cho đất nước. Trong đó, mọi người được tự do kinh doanh theo
pháp luật, được bảo hộ quyền sở và thu nhập hợp pháp.
Hệ thống pháp luật của nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao
gồm nhiều nghành luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội đa dạng ,phức tạp.Trong
đó ,mỗi nghành luật điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội nhất định. Những
nhóm quan hệ xã hội do một nghành luật điều chỉnh được gọi là đối tượng điều
chỉnh của ngành luật đó. Để điều chỉnh các quan hệ xã hội,nhà nước sử dụng các
biện pháp tác động khác nhau,hướng cho các quan hệ xã hội phát sinh,thay
đổi,chấm dứt phù hợp với ý chí nhà nước. Phương pháp tác động của nhà nước
lên các quan hệ xã hội có những đặc thù khác nhau phụ thuộc vào các quan hệ xã
hội cần điều chỉnh bằng pháp luật.
II) Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự việt nam
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự Việt Nam là những nhóm quan hệ về
nhân thân và tài sản trong quan hệ dân sự ,hôn nhân và gia đình ,kinh doanh
,thương mại ,lao động (Điều 1 BLDS năm 2005)
Các quan hệ dân sự là những quan hệ xã hội phát sinh một cách khách quan.

Chúng tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội loại
người . Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý của nhà nước thực hiện chức năng
điều chỉnh các quan hệ dân sự, nó ra đời và tồn tại cùng với nhà nước và là một
phạm trù lịch sử. Trong từng thời kỳ nó có thể chỉ là các quy định về dân sự giản
4
đơn chưa thành một nghành luật độc lập nhưng đã có vị trí , vai trò tích cực trong
việc điều chỉnh , bảo vệ quan hệ sở hữu, quan hệ tài sản tồn tại khách quan trong
xã hội.
1) Quan hệ tài sản :
Nhóm quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự .Quan
hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản dưới dạng tư
liệu sản xuất hoặc tư liệu tiêu dùng hay giao dịch chuyển quyền chiếm hữu ,sử
dụng tài sản đó trong quá trình sản xuất ,phân phối lưu thông .Quan hệ tài sản
bao giờ cũng gắn liền với một tài sản và khái niệm quan hệ tài sản có liên quan
chặt chẽ với khái niệm tài sản.Trong luật dân sự,tài sản không chỉ bao gồm các
đồ vật nằm trong sở hữu ,trong sự quản lí hay sử dụng của một người nào đó mà
còn bao gồm cả quyền yêu cầu mang nội dung tài sản,như quyền yêu cầu trả nợ
chuyển giao đồ vật đã bán ... các quan hệ tài sản bao giờ cũng phát sinh và tồn
tại trong mối liên hệ với tài sản nhất định hoặc với việc chuyển giao các quyền
lợi về tài sản từ người này sang người kia.
Tài sản và quyền sở hữu tài sản là một trong những tiền đề vật chất quan
trọng cho sự phát triển của kinh tế xã hội .Các quan hệ tài sản và sở hữu được
điều chỉnh bằng nhiều văn bản pháp luật thuộc các nghành luật khác nhau : Hiến
pháp ,luật đất đai ,luật dân sự ...Trong luật dân sự, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ tài sản và sở hữu giữ vị trí trung tâm .Tuy nhiên ,ngoài nghĩa
là đối tượng ( hay khách thể của quyền sở hữu ).Tiền đề vật chất quan trọng làm
phát sinh các quan hệ tài sản trng giao lưu dân sự ( hợp đồng, thừa kế,... ).Khái
niệm tài sản được xác định rõ tại điều 172 BLDS : “ tài sản bao gồm vật có
thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền về tài sản ”.Như vậy , khái
niệm tài sản theo quy định của bộ luật dân sự khái quát và mở rộng phù hợp với

5
nền kinh tế thị trường . Đối với mỗi loại tài sản , điều kiện để cho chúng trở
thành đối tượng của quyền sở hữu và là cơ sở làm phát sinh quan hệ tài sản trong
giao lưu dân sự cũng rất khác nhau. vật có thực là những vật nhìn thấy ,sờ thấy
được (trong dân luật la mã gọi là tài sản hữu hình ), chúng có sẵn trong tự nhiên
hoặc do con người sáng tạo ra, vật đó phải có ích và con người có thể chiếm giữ
được làm của mình. Tiền , giấy tờ trị giá được bằng tiền ( séc, tín phiếu , kỳ
phiếu,công trái ,... ) cũng là một loại tài sản có giá trị trao đổi, lưu thông kinh tế .
Khi chủ sở hữu thực hiện các quyền năng pháp lý đối với loại tài sản này phải
tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của nhà nước. Các quyền tài sản ( sản phẩm
sáng tạo trí tuệ, quyền đòi nợ ... )cũng trị giá được bằng tiền và được phép
chuyển dịch trong giao lưu dân sự .
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường ,khái niệm tài sản trong giao lưu dân sự,
kinh tế được mở rộng hơn. Để xây dựng chế độ pháp lý đối với mỗi loại tài sản
nhằm hướng dẫn hành vị xử sự của các chủ thể tham gia quan hệ tài sản , luật
dân sự phân loại tài sản theo thông lệ quốc tế thành bất động sản và động sản. Ở
các nước khác nhau , phạm vị tài sản đưa vào giao lưu dân sự được pháp luật quy
định khác nhau phụ thuộc vào quan niệm của nhà nước đó về tài sản và quyền sở
hữu . Các tài sản được đưa và giao lưu dân sự phải luôn luôn thuộc về chủ sở
hữu nào đó ( cá nhân, tổ chức... )
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa con người với con người về một tài sản nào đó
,chứ không phải là quan hệ giữa con người với đồ vật.Các quan hệ tài sản rất đa
dạng ,phong phú và các chủ thể tham gia vào các quan hệ này cũng rất khác nhau
( có thể là cá nhân hay tổ chức ) nhằm thoả mãn nhu cầu sinh hoạt,tiêu dùng , sản
xuất – kinh doanh ... Trong nhiều trường hợp chủ thể tham gia vào quan hệ tài
sản còn chính là nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với tư cách là
6
đại diện chủ sở hữu đối với các tài sản thuộc sở hữu toàn dân (điều 206 bộ luật
dân sự ).
Các quan hệ tài sản là những quan hệ kinh tế cụ thể được phát sinh giữa người

với người trong quá trình sản xuất ,phân phối ,lưu thông tư liệu sản xuất ,tư liệu
tiêu dùng và cung ứng dịch vụ trong xã hội . Điều đó có nghĩa là , các quan hệ tài
sản có liên quan trực tiếp với quan hệ sản xuất và phù hợp với phương thức sản
xuất thuộc hạ tầng cơ sở của xã hội. Bên cạnh đó cũng có ý kiến cho rằng , các
quan hệ tài sản nói chung không liên quan gì tới quan hệ sản xuất.
Mối liên hệ qua lại giữa các quan hệ tài sản và quan hệ sản xuất đặc biệt quan
trọng và rất phức tạp . Vấn đề này C.MÁC viết “...trong sản xuất xã hội của cuộc
sống ,con người tham vào các quan hệ nhất định và cần thiết không phụ thuộc
vào ý chí con người –các quan hệ sản xuất mà chúng phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của lực lượng sản xuất nhất định ...”. Suy ra các quan hệ sản xuất xã
hội là những quan hệ mang tính khách quan không phụ thuộc vào ý chí con
người . Tính độc lập của các quan hệ sản xuất đối với ý chí con người được đặc
trưng ở 3 yếu tố .
Thứ nhất, khi được sinh ra con người đã đứng trước một giai đoan phát triển
của quan hệ sản xuất nhất định, phù hợp với mức độ phát triển của lực lượng sản
xuất . Tất nhiên con người đó phải tham gianvào một hệ thống các mối quan hệ
sản xuất đang tồn tại và không thể thay đổi hệ thống đó theo ý mình .
Thứ hai, do đặc điểm xã hội của sản xuất và phân công lao động, để đảm bảo
cuộc sống và lao động ,con người phải tham gia vào các quan hệ giữa họ với
nhau ,phải trao đổi kết quả lao động của mình và chính điều đó đã thu hút con
người vào hệ thống các mối quan hệ sản xuất – xã hội đang tồn tại .
7
Thứ ba, sự tồn tại độc lập của các quan hệ sản xuất xã hội đối với ý chí con
người còn được thể hiện chỗ, khi tham gia vào các quan hệ với người khác , trao
đổi thành quả lao động, con người không ý thức đầy đủ được tất cả sự đa dạng
và phức tạp của các quan hệ sản xuất xã hội mà họ tham gia. Tuy nhiên trong
khuôn khổ của sự cần thiết đó con người đã thể hiện ý chí ,tức là hành động có
suy nghĩ và có ý thức để đạt được những mục đích đặt ra và cuối cùng, quan hệ
sản xuất là kết quả của hoạt động có ý thức của con người trong quá trình sản
xuất ,phân phối, trao đổi và tiêu dùng các tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động.

Khi tham gia vào các quan hệ với nhau bằng cách đó con người bị thu hút vào hệ
thống các quan hệ sản xuất – xã hội đang tồn tại . Nhận xét về điểm này Lê nin
viết : “khi trao đổi các sản phẩm lao động con người đã tham gia vào các quan hệ
sản xuất ,thậm chí cả khi chưa ý thức được rằng ở đấy có quan hệ sản xuất xã
hội”.
Sự liên hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và quan hệ tài sản thể hiện ở chỗ
một mặt các quan hệ tài sản ( quan hệ kinh tế cụ thể ) chỉ là hình thức biểu hiện
của quan hệ sản xuất , nhưng mặt khác ,các quan hệ sản xuất – xã hội suy cho
cùng chính là sự liên kết chặt chẽ , phức tạp thành quả của nhiều loại hoạt động
khác nhau của con người trong quá trình sản xuất ,phân phối trao đổi, tiêu dùng
sản phẩm lao động . Hay nói cách khác, quan hệ tài sản là mặt chủ quan của
quan hệ sản xuất .
Pháp luật điều chỉnh hành vi xử sự của con người . Nó chỉ có khả năng tác
động đối với các quan hệ có ý chí . Chỉ có các quan hệ kinh tế cụ thể ,tức là các
quan hệ giữa những người cụ thể về việc chiếm hữu hoặc chuyển giao các phục
lợi vật chất mới là quan hệ tài sản biểu lộ ý chí của các bên tham gia quan hệ
.thông qua các quy phạm pháp luật ,nhà nước tác động lên các quan hệ tài sản ,
tức là các quan hệ có ý chí mang nội dụng kinh tế ,hướng cho các quan hệ đó
8
phát sinh, phát triển phù hợp với ý chí nhà nước . Vì vậy, sự tác động này nếu
phù hợp với những quy luật khách quan sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại. Có thể nói rằng , quan hệ tài sản là
sự biểu hiện về ý thức của chủ thể , của nhà nước về quan hệ sản xuất trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu và nhiều loại hình kinh doanh,
việc xác định đúng các quan hệ tài sản phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ thúc
đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế .
Như đã phân tích ở trên các quan hệ tài sản rất đa dạng , phong phú và là đối
tượng điều chỉnh của nhiều ngành luật : luật nhà nước ,luật hành chính ,luật tài
chính , luật đất đai, luật dân sự... Mỗi ngành luật điều chỉnh các quan hệ này ở

một phạm vi, mức độ và giới hạn nhất định , bằng phương pháp đặc thù của
mình . Luật dâ sự chỉ điều chỉnh những quan hệ tài sản có những tính chất và đặc
điểm sau đây :
Về tính chất quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh là quan hệ xã hội giữa
người này với người khác đối với một tài sản nhất định . Đó không phải là quan
hệ giữa người với vật, hoặc giữa vật với vật quan hệ tài sản là quan hệ có ý chí
( thể hiện ý chí của các bên tham gia ). Chính nhờ có yếu tố ý chí mà các quan hệ
này mới chịu sự tác động của pháp luật. Các quan hệ tài sản luôn gắn liền với tài
sản ( nhờ có tài sản mới có thể cá thể hoá được các quan hệ xã hội tức là mới có
thể phân biệt được quan hệ tài sản này với quan hệ tài sản khác ). Ví dụ : cùng là
quan hệ mua bán nhưng quan hệ mua bán nhà ở khác với quan hệ mua bán xe
máy , xe đạp ... Đối với mỗi loại tài sản nhà nước quy định một chế độ pháp lý
khác nhau . khi tham gia vào các quan hệ cụ thể , các chủ thể phải căn cứ vào các
quy định của pháp luật để xử sự cho phù hợp .
9

×