MỞ BÀI
Pháp luật về hợp đồng giữ vị trí khá quan trọng trong hệ thống pháp luật mỗi quốc
gia. Hợp đồng dân sự phải đáp ứng được những điều kiện nhất định, nếu vi phạm thì
hợp đồng dân sự có thể vô hiệu. Trong bài tập lớn học kì môn Luật Dân sự modul II,
em xin trình bày đề bài số 17: “Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của
hợp đồng dân sự vô hiệu”.
NỘI DUNG
A. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ
I. Khái niệm hợp đồng dân sự
Khái niệm về hợp đồng dân sự phải được xem xét ở nhiều phương diện khác nhau.
Theo phương diện khách quan, hợp đồng dân sự là do các quy phạm pháp luật của Nhà
nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch
chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo phương diện chủ quan, hợp
đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau
nhằm đi đến thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất
định.
Theo Điều 388 của BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
II. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng dân sự
- Hợp đồng là một hành vi pháp lý. Hành vi pháp lý là hành vi có ý chí của con người
làm phát sinh các hệ quả pháp lý.
- Hợp đồng là sự thống nhất ý chí giữa hai hay nhiều bên chủ thể dân sự trên cơ sở thỏa
thuận.
- Hậu quả pháp lí của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là nhằm xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Hợp đồng là căn cứ chủ yếu phát sinh nghĩa vụ dân sự, là căn cứ pháp lý quan trọng
khi giải quyết tranh chấp giữa các bên.
III. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự
Hợp đồng có giá trị pháp lí thì hợp đồng đó phải thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có
hiệu lực do pháp luật quy định. Điều 122 BLDS quy định điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự: “1) Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a. Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b. Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c. Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường
hợp pháp luật có quy định.”
1
Tại Điều 121 BLDS cũng quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi
pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”. Do vậy, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự chính là điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự. Về nguyên tắc, hợp đồng dân sự không tuân thủ các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự thì được xác định là vô hiệu, tuy nhiên cần căn cứ vào
từng trường hợp cụ thể để xem xét và giải quyết hậu quả pháp lí của hợp đồng dân sự
vô hiệu. Xuất phát từ lí do này, Khoản 1 Điều 410 BLDS quy định: “Các quy định về
giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp
dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
B. HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
I. Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2003 “vô hiệu” được hiểu là “không có hiệu lực,
không mang lại kết quả”. Vậy nên có thể hiểu hợp đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng
không có giá trị pháp lý, không mang lại kết quả. Tuy nhiên, hiểu theo cách này cũng
bộc lộ khiếm khuyết, bởi lẽ, có những trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy
định nào đó của pháp luật nhưng cả hai bên tham gia giao kết đều thừa nhận hợp đồng
đó và hợp đồng đó có nội dung, mục đích không xâm phạm lợi ích chung của cộng
đồng, nhà nước thì vẫn coi là có hiệu lực và ràng buộc các bên giao kết.
Hiện nay, pháp luật dân sự Việt Nam chưa xây dựng đươc khái niệm hợp đồng dân
sự vô hiệu. Để hiểu được khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu, ta phải đặt chúng trong
mối quan hệ với khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu. Điều 127 BLDS quy định: “Giao
dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của bộ
luật này thì vô hiệu”. Tại Điều 410 BLDS lại quy định: “Các quy định về hợp đồng
dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối
với hợp đồng vô hiệu”.
Đây không được coi là khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu theo đúng nghĩa, vì trong
khái niệm này ta chưa thấy nêu lên được bản chất, đặc điểm của hợp đồng dân sự vô
hiệu mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê các trường hợp vô hiệu. Từ đó ta có thể hiểu hợp
đồng dân sự vô hiệu là hợp đồng mà pháp luật không thừa nhận, không có giá trị ràng
buộc các bên giao kết hợp đồng. Hợp đồng dân sự vô hiệu không làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ pháp lý mà các bên đã giao kết trong hợp đồng. Thời điểm xác định sự vô
hiệu của hợp đồng được tính từ thời điểm hình thành hợp đồng.
Việc hiểu và áp dụng đúng trong việc xác định hợp đồng dân sự vô hiệu có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao lưu dân sự,
qua đó góp phần thiết lập kỉ cương xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức và nhà nước.
2
II. Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu
Phân loại hợp đồng dân sự vô hiệu là việc phân chia hợp đồng vô hiệu thành những
loại khác nhau theo các tiêu chí và mục đích nhất định. Việc phân loại hợp đồng dân sự
vô hiệu cho ta nhìn nhận một cách toàn diện về hợp đồng dân sự vô hiệu dưới những
khía cạnh và phương diện khác nhau.
1. Dựa vào tính chất vô hiệu của hợp đồng dân sự
- Hợp đồng dân sự vô hiệu tuyệt đối là những hợp đồng có nội dung xâm hại đến lợi ích
công cộng, và hợp đồng vô hiệu ngay kể từ thời điểm giao kết.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu tương đối là những hợp đồng mà nội dung chỉ xâm hại đến
lợi ích của cá nhân hoặc có sự khiếm khuyết của ý chí và sự thống nhất ý chí. Hợp đồng
có thể vô hiệu nếu có yêu cầu của bên được pháp luật bảo vệ và được Tòa án tuyên bố
vô hiệu.
2. Dựa vào phạm vi vô hiệu của hợp đồng dân sự
- Hợp đồng dân sự vô hiệu toàn bộ là khi các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bị vi
phạm làm cho toàn bộ hợp đồng không có hiệu lực, mọi điều khoản của hợp đồng
không có giá trị pháp lý.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu một phần khi chỉ có một hoặc một số thỏa thuận của hợp
đồng dân sự là vô hiệu mà điều đó không ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp
đồng. Nghĩa là hợp đồng chỉ có một phần của hợp đồng bị vô hiệu, còn các phần khác
của hợp đồng vẫn có hiệu lực.
3. Dựa vào điều kiện có hiệu lực
- Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo
- Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
- Hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn
- Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
- Hợp đồng vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của
mình
- Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
- Hợp đồng vô hiệu do đối tượng không thực hiện được
- Sự vô hiệu của hợp đồng chính và hợp đồng phụ
III. Các trường hợp hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
Theo Điều 122 khoản 1 BLDS, người xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự có thể là
cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
3
Nam. Trong trường hợp cá nhân là người xác lập hợp đồng thì cá nhân đó phải là người
có năng lực hành vi. Vì thế những hợp đồng dân sự do người mất năng lực hành vi,
người không có năng lực hành vi xác lập, những hợp đồng dân sự do người chưa thành
niên, người bị hạn chế năng lực hành vi xác lập vượt quá khả năng của mình thì vô hiệu
do những người không có năng lực hành vi dân sự cần thiết vào thời điểm giao kết. Để
đáp ứng các lợi ích của những người này trong các trường hợp nêu trên, pháp luật qui
định hợp đồng dân sự của họ phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Ngoài ra pháp luật cũng qui định cá nhân có năng lực hành vi đầy đủ có thể ủy quyền
cho người khác xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự vì lợi ích của mình (Đại diện theo
ủy quyền). Pháp nhân và các chủ thể còn lại của pháp luật dân sự xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải thông qua vai trò của người đại diện. Tuy nhiên, Điều 146 khoản
1 BLDS qui định: “Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá
phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối
với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện , …”. Như vậy, điều rõ
ràng là hợp đồng do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện sẽ vô
hiệu nhưng không phải vô hiệu do người đó không có năng lực hành vi mà do người
này không có năng lực pháp luật đối với tài sản hoặc công việc là đối tượng của hợp
đồng (không có quyền đối với tài sản hoặc công việc đó).
Điều 69 khoản 3 BLDS cũng chỉ rõ: “Các giao dịch dân sự giữa người giám hộ
với người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô
hiệu,…”. Đây cũng chính là trường hợp người xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
không có năng lực pháp luật (không có quyền đối với tài sản là đối tượng của hợp
đồng).
Cũng tương tự như vậy, đối với trường hợp hợp đồng được xác lập bởi những người
có năng lực hành vi đầy đủ nhưng nếu họ không phải là người có quyền (không có năng
lực pháp luật) đối với tài sản là đối tượng của hợp đồng thì đương nhiên hợp đồng đó sẽ
có hiệu lực pháp luật (nếu chỉ xét trên phương diện năng lực hành vi của người giao
kết). Tuy nhiên, nếu coi đây là hợp đồng có hiệu lực thì rõ ràng lại trái với nguyên tắc
cơ bản được ghi nhận tại Điều 9 khỏan 1 BLDS.
Để khắc phục điều này theo em, Điều 122 khỏan 1 BLDS cần phải được sửa lại theo
hướng “Người tham gia giao dịch dân sự phải là người có năng lực giao kết giao
dịch dân sự” bởi có như vậy thì người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
phải đáp ứng được không chỉ điều kiện về năng lực hành vi mà còn phải đáp ứng được
cả điều kiện về năng lực pháp luật.
Điều 130 BLDS 2005 qui định trường hợp người xác lập giao dịch dân sự là
“người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện” mà “theo quy định của pháp luật giao dịch
4
này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện” thì có thể vô hiệu. Như vậy,
điều luật này mới chỉ dừng lại ở qui định mang tính chất một chiều là bảo vệ những
người kể trên nhưng chưa tính đến các trường hợp cũng cần phải bảo vệ người tham gia
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng không biết và không buộc
phải biết đối tác là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự. Theo em, nên bổ sung thêm qui định cho phép bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự trong trường hợp những người này không biết và không buộc phải biết
đối tác của họ là những người nêu trên.
Theo Điều 18, Điều 19 BLDS năm 2005 người từ đủ 18 tuổi trở lên không bị mất
năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người thành niên.
Những người này được toàn quyền tham gia vào mọi giao dịch dân sự. Vấn đề đặt ra là
theo Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và
gia đình thì độ tuổi kết hôn của nữ là bước vào tuổi 18. Do vậy, trong trường hợp này
nếu xét về năng lực hành vi dân sự thì người vợ chưa phải là người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ và như vậy thì liệu vị trí của người vợ và người chồng có bình đẳng với
nhau hay không trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự cũng như trách nhiệm
pháp lý của họ đối với nhũng giao dịch loại này. Hơn nữa quyền và lợi ích của người
tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với người vợ trong trường hợp nói trên sẽ
được bảo vệ như thế nào nếu sau khi giao kết hợp đồng do tình hình thay đổi mà phía
bên kia thấy bất lợi đã nêu ra giao dịch dân sự đó vô hiệu do không đủ năng lực hành vi
dân sự. Để giải quyết vấn đề này theo em nên bổ sung thêm vào Điều 19 BLDS qui
định: “Phụ nữ bước vào tuổi 18 sau khi kết hôn cũng được xem là người có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ”.
Như vậy, hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện sẽ vô hiệu.
2. Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội
Theo Điều 128 BLDS, quy định: “Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi
pạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu”. Khi các bên chủ thể
giao kết hợp đồng có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội thì hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu tuyệt đối, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
vô hiệu là không hạn chế.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định. Ở đây không chỉ vi phạm điều cấm của pháp
5
luật dân sự mà còn được hiểu là vi phạm điều cấm của tất cả các văn bản pháp luật khác
như Luật doanh nghiệp, điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia…
Ví dụ: Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B kí kết hợp đồng mua bán có đối tượng là
vũ khí. Hợp đồng mua bán này bị vô hiệu do vũ khí là đối tượng bị cấm giao dịch.
Tuy nhiên, qui định tại Điều 122 khỏan 2 BLDS mới chỉ đề cập đến những hành vi
mà chủ thể của hợp đồng không được thực hiện chứ chưa đề cập đến các trường hợp
chủ thể xác lập hợp đồng dân sự không thực hiện những hành vi đáng lẽ phải thực hiện.
Qui định hiện nay có thể dẫn đến trường hợp các bên tham gia xác lập, thực hiện hợp
đồng mặc dù không tuân theo quy định của pháp luật nhưng không vi phạm điều cấm
của pháp luật (những việc mà pháp luật cấm thực hiện). Với logic này đương nhiên hợp
đồng nói trên vẫn có hiệu lực (hợp đồng đó không vô hiệu). Tuy nhiên, điều này lại đi
ngược lại mục đích của việc ban hành pháp luật. Ngoài ra, mặc dù Điều 122 khỏan 1b
được hiểu là qui định điều kiện chung để giao dịch dân sự có hiệu lực qui định “Mục
đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội” nhưng tại các Điều 389 khỏan 1 BLDS lại qui định “Tự do giao kết
hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” và Điều 652 khỏan 1
BLDS qui định “Nội dung di chúc không trái pháp luật,…”. Nói cách khác việc sử
dụng các thuật ngữ của BLDS liên quan đến hiệu lực của giao dịch dân sự còn thiếu
thống nhất.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong
đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Một trong những nguyên
tắc cơ bản của luật dân sự là các bên phải tuân thủ pháp luật khi xác lập và thực hiện
quyền và nghĩa vụ của mình; khi pháp luật không quy định thì các bên có thể cam kết,
thỏa thuận vào việc xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ, nhưng không được trái
với những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự. Đồng thời các bên phải bảo đảm giữ gìn
bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh
thần đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người
và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống.
Ví dụ: Theo hợp đồng mua bán nhà ở giữa anh A và anh B thì anh A đã giao nhà ở
cho anh B và anh B đã thanh toán cho anh A 10.000USD. Theo Điều 22 Pháp lệnh
ngoại hối năm 2005 quy định: “Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán,
niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện
bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán
qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác, đại lí và các trường hợp cần thiết khác do Thủ
tướng Chính phủ cho phép”. Như vậy, hợp đồng mua bán nhà ở của anh A và anh B bị
vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật do hợp đồng được thanh toán bằng ngoại tệ.
6
3. Hợp đồng dân sự vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể tham gia giao
dịch
Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết thỏa thuận là một nguyên tắc cơ bản trong
giao lưu dân sự. BLDS quy định: “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”
(Điểm c, khoản 1, Điều 122). Cơ sở hình thành hợp đồng dân sự là ý chí của chủ thể
tham gia. Ý chí là nguyện vọng, mong muốn chủ quan bên trong của chủ thể và phải
được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định. Tuy nhiên, ý chí phải được
kiểm soát bởi lý trí của chủ thể. Ý chí phải là ý chí đích thực, là nguyện vọng mong
muốn bên trong không bị tác động bởi bất cứ yếu tố khách quan hay chủ quan nào khác
dẫn tới việc chủ thể đó không nhận thức, kiểm soát được ý chí của mình. Tự nguyện là
sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí. Để thực hiện nguyên tắc tự nguyện triệt để thì các
bên phải hoàn toàn tự nguyên, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa,
ngăn cản bên nào. Khi các bên xác lập giao dịch dân sự có sự vi phạm nguyên tắc tự do,
tự nguyên cam kết thỏa thuận thì giao dịch đó vô hiệu. Theo quy định tại Điều 19, Điều
131 và Điều 132 BLDS thì khi không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia thì hợp
đồng sẽ bị coi là vô hiệu.
Theo BLDS 2005 hợp đồng dân sự vô hiệu do không đảm bảo sự tự nguyện bao
gồm các trường hợp hợp đồng vô hiệu do giả tạo; hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn và hợp
đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa.
a. Hợp đồng vô hiệu do giả tạo
Giả tạo được hiểu là không thật, vì được tạo ra một cách không tự nhiên. Như vậy,
hợp đồng giả tạo là hợp đồng được tạo ra một cách không tự nhiên, ý chí muốn tạo nên
hợp đồng này của các bên là không có thật. Trong khoa học pháp lý, hợp đồng giả tạo
có thể hiểu là hợp đồng được các bên xác lập nhưng không nhằm mục đích là thiết lập
quyền và nghĩa vụ của các bên thông qua hợp đồng. Nội dung của hợp đồng được thiết
lập không phải bởi ý chí đích thực của các bên. Mặc dù các bên chủ thể tham gia giao
kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không đúng với ý chí
đích thực của họ nghĩa là mặc dù có sự tự nguyện nhưng không có sự thống nhất giữa ý
chí và bày tỏ ý chí. Tuy nhiên, không phải sự thể hiện ý chí giả tạo nào cũng đưa đến sự
vô hiệu của hợp đồng. Hợp đồng chỉ có thể bị tuyên vô hiệu khi mà ý chí giả tạo tồn tại
ở cả hai bên chủ thể tham gia giao kết hợp đồng trước khi kí kết hợp đồng. Nói cách
khác, ở đây phải có sự thông đồng của các chủ thể trong việc tạo ra một hợp đồng giả
tạo.
Pháp luật dân sự Việt Nam cũng ghi nhận ý chí giả tạo là một trong các yếu tố dẫn
đến sự vô hiệu của hợp đồng tại Điều 129: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một
cách giả tạo nhằm che dấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn
giao dịch bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo
7
quy định của Bộ luật này. Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.
Sự giả tạo có thể thuộc một trong hai trường hợp sau:
- Thứ nhất, hợp đồng dân sự được xác lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao
dịch khác. Các bên chủ thể xác lập hợp đồng nhằm che dấu việc thực hiện một hợp
đồng khác mà các bên thực sự mong muốn thực hiện nhưng vì một lý do nào đó mà họ
đã không muốn xác lập hợp đồng. Ở đây, hợp đồng do các bên xác lập chỉ mang tính
hình thức và nội dung do các bên thiết lập không thể hiện đúng ý chí đích thực của các
bên tham gia giao kết. Trong trường hợp này, khi xác lập hợp đồng giả tạo các bên đều
thống nhất ý chí nhưng không có sự thống nhất giữa ý chí bên trong và sự bày tỏ ý chí
ra bên ngoài. Khi đó, hợp đồng giả tạo sẽ bị vô hiệu còn giao dịch được che dấu vẫn có
hiệu lực nếu trường hợp đó đáp ứng đầy đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự.
Ví dụ: Anh A muốn tặng cho chị B cái xe máy Honda SH nhưng không muốn vợ
biết nên đã cùng với chị B xác lập hợp đồng mua bán với giá thấp hơn so với giá trị
thực của chiếc xe. Như vậy, hợp đồng mua bán giữa anh A và chị B đã không thể hiện
đúng ý chí đích thực của cả hai bên vì vậy hợp đồng mua bán này bị vô hiệu do giả tạo.
- Thứ hại, hợp đồng dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba. Ở đây,
hợp đồng giả tạo được xác lập có thể không có sự vi phạm nào về mặt nội dung, tuy
nhiên giữa ý chí đích tực của chủ thể và sự bày tỏ ý chí đó ra bên ngoài cũng có không
có sự thống nhất. Mặt khác, mục đích xác lập hợp đồng này là để một bên chủ thể
không phải thực hiện một nghĩa vụ nào đó với người khác mặc dù họ có điều kiện để
thực hiện, do đó mục đích này đã vi phạm các quy định của pháp luạt về nghĩa vụ dân
sự. Vì vậy, hợp đồng này cũng bị vô hiệu do đã vi phạm ý chí của Nhà nước. Các bên
chủ thể xác lập hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với xã hội như nghĩa vụ nộp
thuế hoặc để che dấu một hành vi bất hợp pháp.
Ví dụ: Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ đối với X, Y đã tặng cho Z (là bạn của Y) chiếc
xe má của mình. Tuy nhiên, trên thực tế quyền của Z không được phát sinh. Do đó,
trong trường hợp này, hợp đồng tặng cho giữa Y và Z bị vô hiệu do giả tạo nhằm trốn
tránh nghĩa vụ trả nợ của Y đối với X.
Ví dụ: Ông H chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho con gái là K, nhưng để trốn
tránh nghĩa vụ nộp thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của nhà nước,
ông H và chị K đã kí hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Trên thực tế, tình trạng này
vô cùng phổ biến, các chủ thể thay vì kí hợp đồng mua bán thì lại kí hợp đồng tặng cho
hoặc kí hợp đồng mua bán nhưng giá cả thể hiện trên hợp đồng thấp hơn rất nhiều so
với giá thực tế.
8
Cũng vì mục đích xác lập hợp đồng giả tạo của các bên chủ thể có thể vi phạm ý
chí của Nhà nước. Để bảo vệ lợi ích của Nhà nước và người thứ ba, pháp luật dân sự đã
có quy định nghiêm khắc với trường hợp vô hiệu này. Theo đó, hợp đồng vô hiệu do giả
tạo sẽ đương nhiên vô hiệu mà không cần phải có sự yêu cầu của chủ thể có quyền lợi
liên quan. Hơn nữa, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do giả tạo
không bị giới hạn như các trường hợp khác.
b. Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Điều 131 BLDS quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về
nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên”. Tuy nhiên, Điều 131
không đưa ra khái niệm về sự nhầm lẫn nhưng chúng ta có thể hiểu nhầm lẫn xuất phát
tù nhận thức của các bên dẫn đến sự phán đoán, hình dung sai về nội dung của hợp
đồng mà tham gia giao kết gây thiệt hại, tổn thất cho mình hoặc cho bên kia. Nghĩa là ở
đó không có sự thống nhất giữa ý muốn thật và ý trí bày tỏ ra bên ngoài của các bên chủ
thể.
Theo quy định trên thì sự nhầm lẫn được ghi nhận là yếu tố chủ thể dẫn đến sự vô
hiệu của hợp đồng ở đây phải là sự nhầm lẫn do “lỗi vô ý”. Đây là yếu tố cơ bản để xác
định hợp đồng bị vô hiệu do nhầm lẫn hay do bị lừa dối. Xác định hợp đồng bị vô hiệu
do nhầm lẫn thì nhất thiết phải là do “lỗi vô ý” tức là khi tham gia giao kết một bên chủ
thể không ý thức được, không biết được đã có sự nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng;
ngược lại, nếu sự nhầm lẫn này là do lỗi cố ý của họ thì hợp đồng sẽ có thể bị tuyên vô
hiệu do lừa dối.
Tòa án có thể tuyên một hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn nếu thỏa mãn các điều kiện
sau:
- Một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung hợp đồng (về đối tượng, số
lượng, chất lượng);
- Bên bị nhầm lẫn đã yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng nhưng bên kia
không chấp nhận;
- Bên bị nhầm lẫn có yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Ta thấy BLDS mới chỉ ghi nhận sự nhầm lẫn đơn phương (lỗi vô ý của một bên chủ
thể trong hợp đồng) mà không thừa nhận sự nhầm lẫn đến từ cả hai bên. Tuy nhiên, xác
định yếu tố nhầm lẫn trong giao kết hợp đồng là một vấn đề không đơn giản. Các yếu tố
dẫn đến nhầm lẫn phổ biến nhất là do cách diễn đạt khi soạn thảo hợp đồng, do sự khác
biệt nhau về ngôn ngữ, sự khác biệt nhau về các tiêu chuẩn kĩ thuật… Thực tế, có nhiều
trường hợp mà trong đó một hoặc cả hai bên bị nhầm lẫn ngay từ khi giao kết hợp đồng
nhưng không phải bất cứ nhầm lẫn nào cũng đầu dẫn đến khả năng vô hiệu hợp đồng.
Sự nhầm lẫn được coi là nguyên nhân làm cho hợp đồng có thể bị tuyên vô hiệu chỉ đặt
ra với những nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng. Như vậy, BLDS chưa nhấn mạnh vào
9
mức độ nghiêm trọng của nhầm lẫn dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng nhằm tránh các
trường hợp người bị nhầm lẫn cẩu thả nghiêm trọng trong xác lập hợp đồng. Nói cách
khác qui định về nhầm lẫn trong Điều 131 BLDS 2005 chưa có cái nhìn mang tính chất
khách quan về việc xem xét lỗi đối với các bên xác lập hợp đồng dẫn tới hậu quả pháp
lý có thể không công bằng đối với các bên. Mặt khác, theo Điều 131 BLDS qui định thì
chỉ cần “một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân
sự mà xác lập giao dịch” thì giao dịch đó đã có thể bị xem xét tính có hiệu lực. Tuy
nhiên, nội dung của hợp đồng dân sự gồm rất nhiều các điều khỏan khác nhau trong đó
có những điều khỏan không mang tính chất quyết định đến việc các bên xác lập, thực
hiện giao dịch vì thế nếu chỉ qui định chung chung như vậy thì điều luật này có thể
được hiểu là nếu nhầm lẫn về bất cứ nội dung nào cũng có thể dẫn đến hợp đồng vô
hiệu. Điều này đương nhiên là không bảo đảm cho các bên sự an toàn khi tham gia xác
lập, thực hiện hợp đồng cũng như thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển. Để một nhầm lẫn
được coi là chính đáng, người ta phải dựa vào các tiêu chuẩn khách quan và chủ quan
sau:
Thứ nhất, phải xem xét sự nhầm lẫn quan trọng tới mức một người bình thường
trong cùng hoàn cảnh sẽ chỉ giao kết hợp đồng với những điều khoản khác hoặc không
khi nào giao kết hợp đồng đó nếu biết được sự thực.
Thứ hai, phải xem xét các điều kiện có liên quan đến các bên hợp đồng.
Bên nhầm lẫn có thể hủy bỏ hợp đồng chỉ khi rơi vào một trong các trường hợp. Một là,
cả hai bên đều cùng nhầm lẫn và sự nhầm lẫn này chỉ liên quan đến sự việc vào thời
điểm giao kết hợp đồng. Hai là, sự nhầm lẫn của bên nhầm lẫn phải do bên kia gây ra
do vô tình, bất cẩn hoặc trình bày sai. Xung quanh vấn đề lỗi của các bên trong trường
hợp hợp đồng giao kết do nhầm lẫn, trong lý luận còn tồn tại hai cách giải quyết ngược
nhau.
- Cách thứ nhất cho rằng hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu do nhầm lẫn bất kể do
lỗi của bên nào gây ra (Điều 141 BLDS năm 1995).
- Cách thứ hai cho rằng hợp đồng chỉ bị tuyên bố vô hiệu nếu sự nhầm lẫn xảy ra do
lỗi vô ý của bên đối tác (Điều 131 BLDS năm 2005). Còn nếu như chính bên bị nhầm
lẫn có lỗi thì hợp đồng không bị vô hiệu, các bên vẫn tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Theo em, cách giải quyết thứ nhất là hợp lý hơn, bởi lẽ chỉ cần có sự nhầm lẫn xảy
ra là hợp đồng đã không đáp ứng được yêu cầu về sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí,
do vậy hợp đồng đã xác lập có thể bị tuyên vô hiệu. Còn việc xác định lỗi thuộc về ai là
chỉ nhằm giải quyết vấn đề hậu quả phát sinh khi hợp đồng vô hiệu (Bồi thường thiệt
hại) mà thôi. Vấn đề này có thể áp dụng nguyên tắc chung về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng để giải quyết (Điểm c Khoản 1 Điều 122). Với logic này em cho rằng nên giữ
lại qui định về nội dung chủ yếu của hợp đồng của BLDS 1995.
10
Ví dụ: A bán cho B 5 gói thuốc trừ sâu, vì nghĩ là B biết cách sử dụng và cũng
không thấy B hỏi gì nên A không hướng dẫn B cách sử dụng, liều lượng thuốc trừ sâu.
Khi B mang 5 gói thuốc ra đồng phun cho 1 sào lúa đang bị bệnh thì hai ngày sau cả
ruộng lúa bị chết hết. B đến đòi A bồi thường thì A bảo trong hướng dẫn có ghi rõ liều
lượng dùng là 1 gói thuốc/sào. Trường hợp này ta thấy trên thực tế, B là nông dân đi
mua thuốc trừ sâu thì nghĩ rằng A bán cho mình 5 gói thuốc thì sẽ sử dụng cho 1 sào lúa
bị bệnh và hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Trung Quốc nên B không biết. Còn A thì nghĩ
B biết nên cũng không hướng dẫn B cách sử dụng. Như vậy, A đã có lỗi vô ý trong việc
không hướng dẫn cho B về liều lượng sử dụng khiến cho ruộng lúa của B bị chết. Hợp
đồng được lập giữa A và B vô hiệu do sự nhầm lẫn của B.
Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là 2 năm,
kể từ ngày xác lập hợp đồng (Điều 136). Tuy nhiên, nếu hết thời hiệu này mà các bên bị
nhầm lẫn không yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì vấn đề tranh chấp về
hiệu lực của hợp đồng không còn tồn tại nữa và hợp đồng đã giao kết phát sinh hiệu lực
từ thời điểm giao kết.
c. Hợp đồng vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa theo quy định tại Điều
132 BLDS: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì
có quyền yếu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự là vô hiệu”. Lừa dối ở đây được
hiểu là: “Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.
Dễ dàng nhận thấy, trong nhầm lẫn và lừa dối đều có sự hiểu sai lệch của một bên
chủ thể về tính chất của đối tượng, nội dung…nên đã xác lập hợp đồng. Nhưng lừa dối
khác nhầm lẫn ở chỗ, sự nhầm lẫn vốn do người kí kết hợp đồng tự mình không tìm
hiểu hoặc hiểu sai sự thật. Còn sự lừa dối lại là sự hiểu sai do đối tác gây ra. Việc một
bên tạo lập cho bên kia một sự nhầm lẫn hoặc lãm dụng sự nhầm lẫn đã tồn tại của bên
kia để đưa đến việc giao kết hợp đồng sẽ được coi là lừa dối. Sự phân biệt giữa lừa dối
và nhầm lẫn được xác định bởi tính chất, mục đích của việc trình bày gian lận của một
bên. Sự lừa dối có được thông qua những hành vi tích cực như: cung cấp thông tin sai
lệch, cung cấp giấy tờ chứng nhận giả mạo cũng có thể thông qua cả sự không hành
động.
Ví dụ: Anh Nguyễn Văn A là người bán hàng, anh A biết về khuyết tật của hàng
hóa mà không cung cấp cho người mua là chị B. Như vậy, hợp đồng mua bán giữa anh
A và chị B vô hiệu. Do anh A đã có sự lừa dối thông qua việc không cung cấp các
thông tin về sản phẩm cho chị B. Việc lừa dối này thể hiện qua hành vi không hành
động của anh A.
11
“Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho
bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của
mình”. So với Điều 142 BLDS 1995, Điều 132 BLDS 2005 đã cụ thể hóa “người
thân thích” thành: “cha, mẹ, vợ, chồng, con” của người bị đe dọa. Việc sửa đổi này đã
thu hẹp phạm vi người được bảo vệ do bị đe dọa. Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp
người bị đe dọa mặc dù không thuộc nhóm đối tượng trên, nhưng lại là người có vị trí
đặc biệt quan trọng với người xác lập hợp đồng và vì vậy người xác lập hợp đồng đã
buộc phải xác lập trái với mong muốn của mình. Hoặc người tham gia xác lập, thực
hiện hợp đồng mặc dù không có quan hệ gì với một người nhưng do lo sợ thiệt hại có
thể xảy ra ngay lập tức cho người đó mà đã xác lập hợp đồng trái với mong muốn của
mình. Nếu căn cứ vào ngôn từ của Điều 132 BLDS, trong cả hai trường hợp trên người
đã xác lập hợp đồng trái với mong muốn của mình sẽ không có quyền yêu cầu tuyên
hợp đồng vô hiệu. Điều này dường như đi ngược lại với qui định của Điều 122 khỏan 1
điểm c BLDS 2005 “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện” và hơn nữa với
qui định này dường như đi ngược lại với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta và
nếu hành vi đe dọa này nghiêm trọng đến mức người bị đe dọa đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng thì việc người từ chối không xác lập hợp đồng dân sự liệu có
bị xem là coi thường sinh mệnh của người khác và phải chịu trách nhiệm hình sự hay
không. Theo em, pháp luật chỉ nên qui định: “Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý
của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm
tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình
hoặc của người khác”.
4. Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân khi tham gia vào các quan hệ hợp đồng,
BLDS quy định tại Điều 133: “Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập
giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó vô hiệu”.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng hành động của chính chủ thể để
tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ (Điều 17). Pháp luật quy định cho
cá nhân nếu có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền tham gia vào mọi quan hệ
dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách nhiệm về hành vi do mình thực
hiện trừ trường hợp bị tuyên bố mất nằng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực
hành vi dân sự.
Trường hợp này chỉ áp dụng đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Bởi
người này mới có điều kiện về ý chí cũng như lý trí để tham gia vào mọi quan hệ pháp
12
luật dân sự. Tuy nhiên, trên thực tế có thể do bệnh lí hoặc sự tác động từ các yếu tố bên
ngoài mà có những thời điểm họ không có đủ lý trí để nhận thức và điều khiển được
hành vi của chính mình. Lợi dụng điều này, các chủ thể khác có thể giao kết hợp đồng
với họ với những nội dung có lợi cho mình. Để pháp luật được nghiêm minh cũng như
bảo vệ lợi ích chính đáng của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng, pháp luật dân sự quy
định cho người bị rơi vào tình trạng không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu.
Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, qua quá trình phân tích tình hình thực tiễn
hiện nay cũng như việc khảo sát tỏng số vụ án thụ lí tại Tòa án thuộc Thành phố Hà Nội
trong những năm gần đây, em thấy là trên thực tế không xảy ra vụ án nào Tòa án tuyên
bố hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình.
5. Hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức của hợp đồng
Hình thức của hợp đồng dân sự được ghi nhận tại Điều 401 BLDS 2005. Hợp đồng
dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Trong
trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công
chứng hoặc chứng thực, phải đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân thủ theo quy định đó.
Hơn nữa, Điều 401 khoản 2 đoạn 2 còn qui định: “Hợp đồng không bị vô hiệu trong
trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Qui định này có thể dẫn đến hiểu lầm là trừ trường hợp pháp luật có quy định một cách
minh thị một hợp đồng cụ thể nào đó vi phạm về hình thức sẽ dẫn tới giao dịch dân sự
đó là vô hiệu còn các hợp đồng khác nếu vi phạm điều kiện về hình thức cũng sẽ không
thể bị xem xét vô hiệu. Tuy nhiên các qui định của BLDS về hình thức của các hợp
đồng dân sự thông dụng, các biện pháp bảo đảm, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
chỉ qui định các loại hợp đồng này phải tuân theo hình thức nào chứ không qui định cụ
thể các hợp đồng này nếu không tuân theo hình thức bắt buộc thì sẽ vô hiệu. Do vậy có
thể hiểu các loại hợp đồng nói trên nếu không tuân theo hình thức luật định thì cũng sẽ
không vô hiệu do pháp luật không có qui định cụ thể. Tuy nhiên, cách hiểu này lại mâu
thuẫn với chính Điều 122 khỏan 2 BLDS: “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Bởi với ngôn từ của
điều luật này thì chỉ cần trong trường hợp pháp luật có quy định giao dịch dân sự (hợp
đồng) phải tuân theo hình thức thể hiện nào thì hợp đồng phải tuân theo hình thức đó và
nếu không tuân theo (vi phạm) thì hợp đồng đó sẽ có thể bị xem xét hiệu lực của nó.
Điều 134 quy định trong trường hợp pháp luật quy định hình thức là điều kiện có hiệu
lực của giao dịch mà các bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một hoặc các bên
Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc các bên thực hiện quy định về hình
13
thức của giao dịch trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch
vô hiệu.
6. Hợp đồng vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được
Điều 411 BLDS quy định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể
thực hiện được. Trong trường hợp ngay từ khi kí kết, hợp đồng có đối tượng không thực
hiện được vì lí do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu. Ví dụ do sự kiện bất khả
kháng làm đối tượng của hợp đồng không còn như sóng thần, lũ cuốn trôi tài sản là đối
tượng của hợp đồng.
Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo cho bên kia biết
nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường
hợp bên kia biết hoặc phải biết về vệc hợp đồng có đối tượng không thực hiện được.
Trong trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện
được thì phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lí.
Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có thể bị vô hiệu với lí do đối tượng không thể thực hiện
được nếu đáp ứng đủ hai điều kiện: Ngay từ khi kí kết và vì lí do khách quan. Vậy,
ngay từ khi kí kết được hiểu như thế nào? Cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào hướng
dẫn cụ thể, theo em nghĩ “ngay từ khi kí kết” là từ thời điểm giao kết hợp đồng. Một
vấn đề nữa đó là nguyên nhân làm cho đối tượngc ủa hợp đồng không thực hiện được
phải là “lí do khách quan”. Lí do khách quan là những tác động bên ngoài, hoàn toàn
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên chủ thể.
Ví dụ: A cam kết sẽ sản xuất để bán cho B một loại thuốc có thể chữa được bệnh
tim mạch, B tin tưởng rằng có thể bán cho mình loại thuốc đó nên đã giao kết hợp đồng
với A nhưng vì lí do khách quan A không thể sản xuất được loại thuốc đó và A cũng
biết rằng mình sẽ không thể ggiao cho B loại thuốc đó nhưng lại không thông báo cho B
biết. Trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu và A phải bồi thường cho B.
7. Sự vô hiệu của hợp đồng chính – hợp đồng phụ
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 406: “Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực
không phụ thuộc vào hợp đồng phụ”. Khi hợp đồng chính thỏa mãn đầy đủ các điều
kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật thì hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp lý.
Việc xác định hợp đồng chính chỉ có ý nghĩa trong mối quan hệ với hợp đồng phụ. Còn
“Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính”. Trên nguyên
tắc hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính nên sự vô
hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng phụ, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính.
Quy định hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu không áp dụng đối
với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Điều đó có nghĩa là hợp đồng
14
chính vô hiệu nhưng các biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị thi hành. Điều 15 của Nghị
định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm quy định:
Hiệu lực của các biện pháp bảo đảm phụ thuộc vào hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm
vô hiệu đã thực hiện trên thực tế chưa. Nếu hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vô
hiệu nhưng các bên chủ thể chưa thực hiện hợp đồng đó; tuy nhiên nếu hợp đồng có
nghĩa vụ được bảo đảm đã được các bên thực hiện toàn bộ hay một phần hợp đồng rồi,
sau đó mới bị Tòa án tuyên bố vô hiệu thì các biện pháp bảo đảm vẫn có hiệu lực. Đối
với hợp đồng vô hiệu thì hậu quả pháp lí là các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả những
gì đã nhận, bên có lỗi phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ví dụ khi hợp đồng
vay bị tuyên bố vô hiệu nhưng tiền vay đã chuyển thì bên vay phải trả lại tiền vay đó.
Khi đó các biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị và tài sản bảo đảm được xử lí để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ hoàn trả đó của bên có nghĩa vụ.
Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp
các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
IV. Hậu quả pháp lí của hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Hậu quả chung
Trong quá trình kí kết và thực hiện hợp đồng dân sự, các bên chủ thể tham gia kí kết
đều mong muốn đảm bảo giá trị pháp lý và thực hiện một cách đầy đủ các thỏa thuận
của mình đã được quy định trong hợp đồng đã kí kết. Tuy nhiên, trong những trường
hợp nhất định, vì mục đích cá nhân nào đó mà chủ thể tham gia giao kết đã vi phạm các
quy định của pháp luật làm cho hợp đồng bị vô hiệu. Bên cạnh ý nghĩa của việc tuyên
hợp đồng vô hiệu để đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền va lợi ích hợp pháp của công
dân thì việc hợp đồng bị tuyên vô hiệu cũng gây không ít khó khăn cho các bên chủ thể.
Vấn đề đặt ra ở đây là việc xử lý và hạn chế những hậu quả gây ra cho các bên tham gia
khi hợp đồng bị vô hiệu.
Theo Điều 137 Khoản 2 BLDS sự vô hiệu của hợp đồng dẫn đến hậu quả là không
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm
xác lập. Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu được quy định tại Điều 137
BLDS 2005 bao gồm:
“1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạn ban đầu, hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.
Quy định mang tính nguyên tắc của Điều 137 BLDS về mặt ngôn từ là rõ ràng.
15
Thứ nhất, hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên. Nếu hợp đồng chưa được thực hiện thì các bên không
được thực hiện hợp đồng nữa. Trong trường hợp, hợp đồng đang được các bên thực
hiện thì các bên phải dừng ngay việc thực hiện, không được tiếp tục thực hiện hợp đồng
đó nữa.
Đối với hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo thì hợp đồng này sẽ đương nhiên bị vô
hiệu từ thời điểm giao kết và do đó hợp đồng sẽ không phát sinh hậu quả pháp lý.
Đối với hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa hay do người không
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì sẽ xảy ra hai trường hợp sau:
- Nếu người bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa hay do người không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình mà xác lập hợp đồng có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng đó là vô hiệu trong thời gian luật định và Tòa án ra quyết định tuyên bố
hợp đồng do các bên kí kết vô hiệu thì lúc này hợp đồng mới trở lên vô hiệu. Khi đó,
hợp đồng sẽ vô hiệu từ thời điểm các bên giao kết và do đó sẽ không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên.
- Trong trường hợp
người bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa hay do người không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình mà xác lập hợp đồng nhưng họ không khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng đó là vô hiệu hoặc hết thời hiệu khởi kiện thì hợp đồng do các bên kí kết
không trở nên vô hiệu. Hợp đồng đó vẫn được pháp luật thừa nhận hiệu lực pháp lý và
các bên chủ thể vẫn tiếp tục thực hiện theo các điều khoản đã được thỏa thuận trong
hợp đồng. Nói cách khác, trong trường hợp này hợp đồng vẫn phát sịnh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên tham gia giao kết.
Thứ hai, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền. Theo Từ điển
tiếng Việt, viện ngôn ngữ học, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 1994 thì “tình trạng” là “tổng
thể nói chung những hiện tượng không hoặc ít thay đổi, tồn tại trong mọt thời gian
tương đối dài, xét về mặt bất lợi đối với đời sống hoặn những hoạt động nào đó của
con người”. Một hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh hiệu lực của các điều
khoản mà các bên chủ thể đã thỏa thuận trong hợp đồng. Vì thế nếu như các bên đã thực
hiện hợp đồng và chuyển giao tài sản cho nhau thì họ phải khôi phục lại tình trạng ban
đầu. Bên cạnh đó họ cũng phải hoàn trả lại cho nhau tất cả những gì đã nhận được từ
việc thực hiện hợp đồng. Việc hoàn trả lại có thể được thực hiện theo trình tự sau đây:
Trước hết các bên phải có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau tài sản bằng hiện vật mà trên thực
tế đã nhận được. Trong trường hợp tài sản bằng hiện vật không còn tồn tại trên thực tế
như đã tiêu dùng hết hoặc chế biến thành thành phẩm mà không thể tách riêng ra được
thì phải hoàn trả bằng tiền tương đương với giá trị tài sản theo giá thị trường. N hưng
việc các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu” không phải trong trường hợp nào cũng có
16
thể thực hiện được bởi đối tượng của hợp đồng là tài sản không còn giữ được tình trạng
như ban đầu hay đối tượng của hợp đồng là công việc (dịch vụ) đã được thực hiện…nên
việc qui định “các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” không phải là đơn giản.
Trong trường hợp này nếu áp dụng “nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải
hoàn trả bằng tiền” thì quả thật qui định về việc không công nhận quyền và nghĩa vụ
của các bên không có ý nghĩa. Thực tế, tài sản được hoàn trả không phải lúc nào cũng
còn nguyên giá trị tại thời điểm kí kết, thông thường nó bị biến đổi do tác động của các
yếu tố tự nhiên, xã hội: Tài sản bị tác động của tự nhiên làm hao mòn hoặc xấu đi so với
lúc ban đầu giao kết; Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của con
người; Tài sản có thể bị giảm giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của quy luật khinh tế
thị trường: quy luật cung cầu, quy luật giá trị; Khi quản lí tài sản các đương sự có thể
khai thác một số lợi ích trong đó và cũng có thể đầu tư công sức tiền bạc làm tăng giá
trị, giữ gìn và bảo quản tài sản.
Thứ ba, Nhà nước sẽ tiến hành tịch thu tài sản trong một số trường hợp theo quy
định của pháp luật. Pháp luật dân sự là ngành luật luôn đề cao sự tự do, tự nguyện của
các chủ thể. Tuy nhiên, nếu các bên chủ thể lợi dụng tính tự do của mình quá mức mà
xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng và lợi ích của người thứ ba thì họ
sẽ phải chịu những chế tài mà pháp luật đã dự liệu từ trước. Và tịch thu tài sản là một
chế tài nghiêm khắc nhất mà pháp luật dân sự quy định đối với hợp đồng dân sự vô
hiệu. Tài sản bị tịch thu là tài sản trong hợp đồng và có thể là hoa lợi, lợi tức thu được
từ hợp đồng. Trên thực tế, hợp đồng có đối tượng là vũ khí quân dụng, ma túy, cổ vật…
sẽ bị tịch thu.
Thứ tư, bên nào có lỗi gây thiệt hại sẽ phải bồi thường. Vấn đề bồi thường chỉ được
đặt ra khi có thiệt hại xảy ra trong thực tế do hợp đồng dân sự vô hiệu. Lỗi của các bên
chủ thể có thể là lỗi cố ý hoặc vô ý. Trên thực tế, việc xác định được thiệt hại rất khó
khăn. So với Điều 142 BLDS 1995, Điều 132 BLDS 2005 đã bổ sung thêm trường hợp
hành vi lừa dối đe dọa có thể do người thứ ba thực hiện. Đây là điểm tiến bộ đáng ghi
nhận vì nó bảo vệ hiệu quả hơn chủ thể của hợp đồng trước hành vi cố ý dẫn dắt họ xác
lập hợp đồng trái với ý muốn đích thực của mình. Tuy nhiên, BLDS chưa có điều khỏan
nào bảo vệ quyền và lợi ích của người đã tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
với người bị đe dọa hoặc bị lừa dối nhưng không biết và không buộc phải biết người
tham gia xác lập, thực hiện giao dịch với mình là bị đe dọa, lừa dối. Quyền lợi của
người này có thể được bảo vệ bởi qui định tại Điều 137 BLDS: “Bên có lỗi gây thiệt
hại phải bồi thường” nhưng cụm từ “Bên có lỗi” có thể gây ra sự hiểu nhầm là việc bồi
thường thiệt hại chỉ do một trong các bên xác lập, thực hiện hợp đồng phải gánh chịu
bởi người thứ ba không phải là một bên trong hợp đồng.
2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng dân sự vô hiệu.
17
Điều 138 BLDS quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vô hiệu. Khi giao dịch dân sự bị Tòa án tuyên vô hiệu thì không phát sinh
quyền và nghĩa vụ đối với các bên từ thời điểm xác lập. Trước khi người thứ ba tham
gia vào giao dịch dân sự trước được thực hiện nhưng giao dịch đó vô hiệu. Người thứ
ba xác lập giao dịch dân sự phải ngay tình. Tức là trong trường hợp này người thứ ba
không biết hoặc không thể biết rằng mình tham gia giao dịch dân sự với người không có
quyền định đoạt tài sản, hoặc đối tượng của giao dịch liên quan đến gioa dịch trước đó.
Tài sản giao dịch là được phép lưu thông. Bởi nếu là tài sản cấm lưu thông, thì người
thứ ba buộc phải biết mình xác lập giao dịch dân sự bất hợp pháp. Người thứ ba phải có
yêu cầu được hưởng tài sản hoặc được bồi thường thiệt hại khi tài sản giao dịch bị tịch
thu sung quỹ Nhà nước, hoặc bị trả lại cho chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp.
C. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ.
I. Nguyên nhân dẫn đến hợp đồng dân sự vô hiệu.
Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dân đến hợp đồng dân sự bị vô hiệu, như:
- Đời sống xã hội rất đa dạng, phức tạp nên khi ban hành BLDS nhà làm luật không thể
dự liệu hết các tình huống xảy ra. Do đó nhiều vụ việc xảy ra mà không có quy phạm
pháp luật điều chỉnh.
- Trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ Thẩm phán chưa đồng đều dẫn đến việc hiểu và áp
dụng pháp luật về hợp đồng dân sự có nhiều bất cập, không có sự thống nhất, mỗi nơi
một cách xét xử khác nhau.
- Sự khó khăn do hiểu biết pháp luật, thái độ hợp tác của các bên tranh chấp.
II. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Về việc xác định hợp đồng dân sự vô hiệu
* Việc xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm về điều kiện chủ thể.
Điều 131 BLDS quy định: “Người tham gia giao dịch dân sự có năng lực hành vi
dân sự”. Khái niệm “người” ở đây được hiểu chung cho cá nhân, pháp nhân và chủ thể
khác. Nhưng quy định của pháp luật chỉ nhắc đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân
mà không đề cập đến pháp nhân. Theo khoản 1 Điều 86 BLDS: “Năng lực pháp luật
dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự phù
hợp với mục đích hoạt động của mình”. Như vậy, khi pháp nhân xác lập hợp đồng
không phù hợp mục đích hoạt động là vi phạm điều kiện về năng lực pháp luật dân sự,
vi phạm ý chí của Nhà nước nên trường hợp này hợp đồng sẽ bị vô hiệu tuyệt đối.
* Cách hiểu “điều cấm của pháp luật”
Ví dụ thực tế cho thấy, việc một công ty thực hiện hoạt động kinh doanh không theo
đúng ngành nghề ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh là vi phạm điều cấm
của pháp luật. Quan điểm khác lại cho rằng, hành vi này không phải là vi phạm “điều
18
cấm của pháp luật” mà điều cấm nếu có trong trường hợp này phải là Điều 11 Luật
doanh nghiệp năm 2005 quy định các hành vi bị cấm. Vậy “điều cấm của pháp luật”
phải được hiểu là vi phạm quy định pháp luật dân sự hay vi phạm quy định của bất kì
ngành luật nào khác như Luật hình sự, Luật Doanh nghiệp… Theo em, nên hiểu vi
phạm điều cấm của pháp luật là vi phạm bất kì quy định nào của pháp luật.
* Việc xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn
Điều 131 BLDS chỉ đề cập đến sự nhầm lẫn từ một phía, sự nhầm lẫn đơn phương
mà không ghi nhận sự nhầm lẫn song phương, đến từ cả hai bên chủ thể do trên thực tế
hoàn toàn có thể xảy ra. Ví dụ: A bán cho B một chiếc bình cổ đời nhà Thanh giá 1000
USD. Nhưng khi C là một chuyên gia về đồ cổ nhiều kinh nghiệm tới chơi, B mới phát
hiện chiếc bình cổ này có từ đời nhà Minh và giá trị lên đến 5000 USD. A yêu cầu Tòa
án tuyên hợp đồng mua bán vô hiệu do nhầm lẫn. Nhưng A và B không hề có lỗi trong
việc gây ra nhầm lẫn, sự nhầm lẫn xuất phát từ hai phía. Như vậy, không thể tuyên hợp
đồng vô hiệu được. Điều này cần được các nhà làm luật quy định cụ thể hơn.
* Việc xác định hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Điều 132 BLDS đã thu hẹp phạm vi những người bị đe dọa “cha, mẹ, vợ, chồng,
con của họ”. Như vậy, trên thực tế có những sự đe dọa nếu như không giao kết hợp
đồng sẽ nguy hiểm đến tính mạng của ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột… thì
liệu hợp đồng đã kí kết có bị tuyên vô hiệu hay không?
* Việc xác định hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức
Điều 134 quy định về hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức. Đây là
vấn đề đang nảy sinh nhiều bất cập và bị lợi dụng. Điển hình như trong hợp đồng mua
bán nhà, nhà đã giao, tiền đã nhận nhưng chưa kịp làm thủ tục công chứng, đăng kí. Vì
giá nhà tăng cao, bên bán có ý định đòi lại nhà nên yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng
vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức. Như vậy, quyền lợi của bên không có lỗi
không được bảo đảm còn người không trung thực lại được hưởng lợi. Như vậy, pháp
luật cần có phương hướng giải quyết để bảo vệ quyền lợi của công dân.
2. Về việc xác định hậu quả pháp lí của hợp đồng dân sự vô hiệu
* Nhiều Tòa án khi xét xử các tranh chấp về hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn thường ra
quyết định hủy hợp đồng thay vì quyết định tuyên bố hợp đồng vô hiệu, điều này là
không chính xác. Cần có sự chính xác trong cách sử dụng thuật ngữ là “tuyên bố hợp
đồng vô hiệu” chứ không phải là “hủy hợp đồng”.
* Việc các bên khôi phục tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Như
thế nào là khôi phục lại tình trạng ban đầu? Ví dụ như đối tượng của hợp đồng là công
việc đã thực hiện trước đó thì việc hoàn trả là gần như không thể, vậy cần có quy định
như thế nào cho phù hợp với thực tiễn cần được các nhà làm luật nghiên cứu.
19
Ví dụ: A chuyển nhượng cho B một diện tích đất ở, khi hợp đồng bị tuyên là vô
hiệu thì B phải đất cho A, A phải trả tiền cho B. Thực tế cho thấy, đối với bên chuyển
nhượng, việc lấy lại đất là thỏa đáng nhưng với bên được chuyển nhượng, việc trả lại
đất cho bên bán là một thất rất to lớn đối với họ. Cho dù được nhận lại số tiền đã bỏ ra
trước đây, họ cũng không bao giờ mua được diện tích đất như vậy nữa vì những năm
qua giá trị quyền sử dụng đất ở nước ta tăng nhanh chóng mặt, nhất là trong thời kì lạm
phát cao, “tấc đất tấc vàng”. Trong trường hợp bên chuyển nhượng có lỗi trong việc
xác lập hợp đồng này, bên nhận chuyển nhượng được bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên,
khoản bồi thường này cũng không bù đắp được mất mát thực tế của họ do hợp đồng bị
tuyên vô hiệu.
* Việc xử lí hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu càng trở lên phức tạp hơn trong
trường hợp bên nhận tài sản đã cải tạo, sửa chữa tài sản đó hay nói cách khác là làm
tăng giá trị của tài sản. Nếu bên chuyển giao tài sản phản đối hoặc cơ quan có thẩm
quyền không cho phép nhưng bên nhận tài sản vẫn làm tăng giá trị tài sản , bên nhận tài
sản phải chịu phần tăng giá trị này khi hoàn trả tài sản. Tuy nhiên, nếu bên nhận tài sản
không có lỗi thì giải quyết thế nào nếu bên giao tài sản đã giao nhưng bên nhận tài sản
không chịu nhận tài sản mới hoặc có nhận nhưng không thanh toán phần giá trị tăng
thêm? Hiện nay vẫn chưa có quy định về vấn đề này. Trong thực tế một số Tòa án đã
yêu cầu mỗi bên chịu một nửa giá trị tài sản phát sinh trên đất. Theo em, giải quyết như
vậy cũng thỏa đáng.
* Quy định tính thành tiền để hoàn trả bằng vật thật sự cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề
quan trọng là tính giá hiện vật tại thời điểm nào? Thời điểm xác lập hợp đồng hay thời
điểm hoàn trả tài sản. Đối với những tài sản không thay đổi về giá trị tài sản, thời điểm
xác lập hợp đồng hay thời điểm hoàn trả tài sản, vấn đề tính giá trị tài sản vào thời điểm
nào không quan trọng. Song, với những tài sản có sự biến đổi về giá (có thể tăng hoặc
giảm). Việc xác định giá tài sản để tính thành tiền là mấu chốt vì nó ảnh hưởng đến lợi
ích của các bên. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND
tối cao hướng dẫn pháp luật trong việc giải quyết các vụ dân sự, hôn nhân và gia đình
mới tháo gỡ được phần nào một số vướng mắc kể trên về hậu quả pháp lí của hợp đồng
dân sự vô hiệu. “Nếu trong thời gian quản lí, bên mua đã cải tạo, sửa chữa nhà làm
tăng giá trị nhà gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất thì khi nhận lại nhà bên bán phải
thanh toán cho bên mua phần giá trị tăng thêm đó, trừ trường hợp bên bán có phản đối
hoặc cơ quan có thẩm quyền không cho phếp mà bên mua vẫn cố tình cải tạo, sửa
chữa. Nếu các đương sự không thỏa thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị
thiệt hại, thì tòa án yêu cầu cơ quan chuyên môn đinh giá hoặc ra quyết định thành lập
hội đồng định giá giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển
nhượng tại địa phương nơi đất tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ
20
thẩm.” Tuy nhiên, điều đáng tiếc là các hướng dẫn rất tịch cực này của Nghị quyết lại
chỉ áp dụng đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
KẾT LUẬN
Hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu là nội
dung quan trọng của luật dân sự. Các quy định của BLDS năm 2005 đã quy định khá cụ
thể, chi tiết về vấn đề này. Song, do thực tiễn cuộc sống phong phú, đa dạng nên có
những trường hợp mà các nhà làm luật chưa dự liệu đến. Vì vậy, cần có sự sửa đổi, bổ
sung kịp thời để BLDS được hoàn hiện và đáp ứng được yêu cầu củ cuộc sống hơn.
21