Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.27 KB, 21 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
C.Mác đã từng nói: “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào
các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong
những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới
mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có
giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn
nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho
nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền
và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế
của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao
dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch vi phạm vào một
trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gọi là giao dịch dân sự
vô hiệu. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi ích liên quan
hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của việc
tuyên bố đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham
gia giao dịch. Những quy định này góp phần ổn định giao lưu dân sự đồng
thời có thể kiểm soát được các giao dịch dân sự, tránh làm thiệt hại đến lợi
ích của các chủ thể khác, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng. Do tính cấp
thiết của vấn đề nên em đã chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu
quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”.
B. GiẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Nhận thức chung về giao dịch dân sự :
1. Khái niệm giao dịch dân sự:
1.1. Định nghĩa :
Chế định giao dịch dân sự lần đầu tiên được quy định trong BLDS nước ta
ban hành ngày 28/10/1995 và có hiệu lực ngày 1/7/1996, sau đó được sửa
đổi, bổ sung trong BLDS hiện hành 2005. Trước khi BLDS 2005 ra đời, giao


dịch dân sự chưa được quy định một cách riêng rẽ, cụ thể. Với sự ra đời của
BLDS 1995, giao dịch dân sự đã chính thức được đề cập đến (khái niệm,
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu…). Sự
củng cố và bổ sung các quy định này trong BLDS 2005 đã chứng minh ý
nghĩa, vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự nước ta.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, đa số các quan hệ dân sự đều được điều
chỉnh thông qua hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương gọi chung là giao
dịch dân sự. Tại điều 121, BLDS 2005 xác định: “Giao dịch dân sự là hợp
đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo đó, chỉ những giao dịch là hành vi pháp
lý đơn phương hoặc được xác lập bằng hợp đồng thì mới là giao dịch dân sự.
Đây cũng là cách phân loại phổ biến nhất của giao dịch dân sự hiện nay.
Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự rất phổ biến trong cuộc sống
hàng ngày. Xét về bản chất, hợp đồng dân sự là cách thể hiện ý chí chủ quan
của các bên khi xác lập hợp đồng dân sự hay có thể nói nó là sự thỏa thuận ý
chí của 2 hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết, thỏa thuận hợp pháp ghi trong hợp đồng được
Nhà nước bảo hộ. Nhìn chung, hợp đồng dân sự khá đa dạng và phong phú.
Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của 1
bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Bên
chủ thể đó có thể gồm một người hoặc nhiều người (ví dụ như vợ chồng lập
di chúc chung). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên cũng
phải đáp ứng những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và cũng có
thể bị tuyên bố vô hiệu nếu không đáp ứng một trong các điều kiện đó.
Ngoài ra, bất kỳ một giao dịch dân sự nào cũng làm phát sinh hậu quả
pháp lý nhất định đó chính là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được
pháp luật bảo đảm thực hiện. Thông thường các giao dịch dân sự đó chỉ phát
sinh hiệu lực khi phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong trường hợp
ngược lại, giao dịch dân sự đó sẽ bị tuyên bố là vô hiệu và phát sinh những
hậu quả pháp lý từ việc tuyên bố đó.

1.2. Các nguyên tắc của giao dịch dân sự:
Để có thể xác định những tư tưởng chỉ đạo chung cho các giao dịch dân
sự nhằm bảo đảm cho các giao dịch đó luôn được thực hiện trong vòng trật
tự nhất định, các nhà làm luật đã đề ra 1 số nguyên tắc của giao dịch dân sự
như sau:
• Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân.
• Nguyên tắc không trái pháp luật, đạo đức xã hội .
• Nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực trong
giao dịch dân sự .
• Nguyên tắc mọi thỏa thuận, cam kết hợp pháp trong giao dịch dân sự
có hiệu lực đều bắt buộc thi hành.
• Nguyên tắc hòa giải.
• Nguyên tắc bảo vệ quyền dân sự.
1.3. Đặc điểm của giao dịch dân sự:
Với việc tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc trên, giao dịch dân sự luôn
mang một số đặc điểm đặc thù như sau:
 Giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các chủ thể tham gia
giao dịch: việc tham gia bất kỳ một giao dịch nào của các chủ thể đều nhằm
đạt được những lợi ích vật chất và tinh thần nhất định, từ đó mới hình thành
nên sự thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch.
Cho nên có thể nói ý chí của chủ thể tham gia là cơ sở hình thành giao dịch
dân sự. Tuy nhiên muốn hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự phát sinh theo
chiều hướng các bên mong muốn thì nhất thiết phải có sự thể hiện, bày tỏ ý
chí thống nhất vơi nguyện vọng bên trong của các chủ thể.
 Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện: đó là sự thống nhất giữa ý
chí và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của các chủ thể và là sự thỏa thuận ý chí
giữa các bên tham gia giao dịch. Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc
thiết lập giao dịch
 Chế tài trong giao dịch mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất linh

hoạt: chế tài trong giao dịch dân sự là những biện pháp cưỡng chế mà pháp
luật quy định buộc các bên chủ thể tham gia phải thực hiện đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của mình nếu giao dịch đó có hiệu lực, đồng thời cũng là các biện
pháp xử lý, giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh nếu giao dịch đó vô hiệu.
 Nội dung của pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã
hội: giao dịch dân sự được xây dựng nên trên cơ sở đảm bảo quyền tự do ý
chí của các chủ thể tham gia giao dịch cho nên các chủ thể có quyền tự đặt
ra những nội dung, cam kết phù hợp với sự thỏa thuận của các bên. Tuy
nhiên, nội dung đó nhất thiết không được trái với pháp luật và đạo đức xã
hội. Quy định này không hề vi phạm tự do ý chí của các chủ thể mà nhằm
bảo đảm các nguyên tắc khác của giao dịch dân sự như bảo vệ lợi ích chung
của xã hội cũng như của chính các chủ thể tham gia giao dịch.
2. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự:
Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của của các chủ thể tham
gia giao dịch không có nghĩa là pháp luật thừa nhận tất cả các chủ thể, mục
đích, nội dung hay hình thức của giao dịch mà pháp luật cũng đặt ra một số
những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân theo gọi là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự nhằm tạo nên cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Tại Điều 122 BLDS 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự:
“ 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.”
Từ quy định trên có thể hiểu điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là
những điều kiện do pháp luật duy định mà một giao dịch dân sự muốn phát

sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa mãn các điều kiện đó. Tuy nhiên trên thực tế,
để xác định một giao dịch có phát sinh hiệu quả pháp lý hay không chúng ta
còn phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật có liên quan và các
ngành luật điều chỉnh giao dịch đó.
2.1. Điều kiện về năng lực chủ thể tham gia giao dịch dân
sự:
Theo quy định tại Điều 122 BLDS thì “người tham gia giao dịch có năng
lực hành vi dân sự”.
Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng. Theo đó, “người” ở đây
phải được hiểu là tất cả các chủ thể đó tức là cá nhân, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác và Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam, trong đó Nhà nước
nước CHXHCN Việt Nam là chủ thể đặc biệt của hầu hết các ngành luật nên
chúng ta sẽ không xét đến năng lực hành vi dân sự của chủ thể này.
2.1.1. Đối với cá nhân:
Cá nhân được coi là chủ thể thường xuyên, chủ yếu, phổ biến nhất của
giao dịch dân sự bởi ngay cả trong giao dịch có sự tham gia của pháp nhân
hay chủ thể khác thì cá nhân với tư cách là người đại diện vẫn tham gia giao
dịch đó. Tuy nhiên để giao dịch có hiệu lực thì cá nhân cũng phải chịu sự
điều chỉnh mà cụ thể là quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự
“Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự”.
Năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật là khả năng của cá
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều
17 BLDS). Giao dịch dân sự do cá nhân thiết lập chỉ có hiệu lực nếu đáp ứng
được các yêu cầu về mức độ hành vi dân sự của cá nhân. Mức độ đó được
xác lập như sau:
• Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: là những người
từ đủ 18 tuổi trở lên không thuộc trường hợp bị Tòa án tuyên bố hạn chế
năng lực hành vi dân sự hay bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Người
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch
dân sự.

• Đối với những người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ
15 tuổi đến dưới 18 tuổi: ở lứa tuổi này, chủ thể đã có thể xác lập và thực
hiện một số giao dịch dân sự nhất định. Quy định này cũng hoàn toàn hợp lý
với điều kiện về độ tuổi lao động trong Bộ luật Lao động: người lao động là
người có thể từ đủ 15 tuổi trở lên và có tham gia giao kết hợp đồng lao động.
• Đối với người có năng lực hành vi dân sự 1 phần từ đủ 6 tuổi đến
dưới 15 tuổi, người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Theo Điều 20 BLDS thì người từ đủ 6 tuổi đến 15 tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý trừ các giao dịch
phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngay phù hợp với lứa tuổi. Quy định
này là hoàn toàn hợp lý bởi những người thuộc độ tuổi này sự nhận thức và
làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ. Còn đối với những người bị
Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì trong các giao dịch do
người này tham gia phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ
giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày.
• Đối với người dưới 6 tuổi, người bị tòa án tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự thì không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, mọi giao
dịch dân sự của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực
hiện.
2.1.2. Đối với các chủ thể khác:
Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có thể trở thành chủ thể của các
giao dịch dân sự nhưng pháp luật cũng quy định cho những đối tượng này
những quy định nhất định như đối với chủ thể là cá nhân. Các chủ thể này
chỉ có thể tham gia giao dịch dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật
của họ hoặc do họ ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đó. Tuy
nhiên pháp luật cũng quy định rõ pháp nhân chỉ được tham gia các giao dịch
dân sự thuộc chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân; hộ gia đình chỉ được tham
gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh
khác theo quy định pháp luật; còn tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch

dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định
trong hợp đồng hợp tác. Nếu tham gia vào các giao dịch dân sự không thuộc
lĩnh vực hoạt động đã được pháp luật quy định như trên, pháp nhân, hộ gia
đình, tổ hợp tác đều coi là đã vi phạm 1 trong các điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự, tất nhiên giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu.
2.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự:
“Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong
muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó” (Điều 123 BLDS 2005). Trong bất
kỳ một giao dịch nào, các bên tham gia đều hướng đến một mục đích nhất
định, từ đó sẽ có sự xác lập quyền và nghĩa vụ (tức là nội dung của giao
dịch) nhằm hiện thực hóa mục đích đó. Như vậy mục đích và nội dung của
giao dịch có quan hệ chặt chẽ 2 chiều với nhau.
Mục đích và nội dung là một trong những yếu tố chủ yếu tạo thành một
giao dịch dân sự, do vậy điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch
cũng là những điều kiện cần thiết cho một giao dịch dân sự hợp pháp: “Mục
đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội”. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy
định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất
định. Việc quy định cụ thể những điều cấm của pháp luật là để đảm bảo lợi
ích công cộng và của các chủ thể. Còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng. Tuy nhiên trong thực tế, căn cứ để xác định mục
đích và nội dung của giao dịch dân sự trái với đạo đức xã hội khá phức tạp
vì đó là những chuẩn mực ứng xử do cộng đồng xã hội tự đặt ra và thừa
nhận nó như những quy tắc chung chứ không được quy định cụ thể, rõ ràng
trong các văn bản pháp luật như các điều cấm của pháp luật.
2.3. Điều kiện về ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự:
Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí
tức là các chủ thể tham gia giao dịch phải có sự tự nguyện. Đây cũng là một
trong các điều kiện tiên quyết để 1 giao dịch dân sự có hiệu lực “Người

tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”.
Khi tham gia giao dịch dân sự, mỗi chủ thế đều có những nguyện vọng,
mong muốn để tạo cơ sở cho việc xác lập các quyền và nghĩa vụ trong giao
dịch đó. Nhưng để có thể đạt được mục đích của giao dịch, các chủ thể phải
có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Nếu không thỏa mãn điều này
tức là các chủ thể đã vi phạm điều kiện về sự tự nguyện trong giao dịch đồng
nghĩa với việc giao dịch dân sự được xác lập sẽ bị coi là vô hiệu. Pháp luật
cũng quy định một số trường hợp cụ thể mà giao dịch dân sự được thiết lập
không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia giao dịch: giao dịch dân sự
được xác lập bởi sự giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay giao dịch xác lập
vào thời điểm mà người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình. Tất nhiên, những giao dịch được xác lập bởi những yếu tố kể trên tức
là đã vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu.
2.4. Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự:
Hình thức giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới 1
hình thức nhất định của các bên tham gia giao dịch. Theo quy định của pháp
luật hiện hành thì “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Như vậy hình thức của
giao dịch chỉ trở thành điều kiện có hiệu lực trong một số trường hợp được
pháp luật quy định. Đây là điểm mới trong BLDS 2005 so với bộ luật cũ. Tại
Điều 131 BLDS 1995 thì hình thức của giao dịch được quy định là một
trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và bất cứ giao dịch nào vi
phạm quy định về hình thức đều bị coi là vô hiệu chứ không chỉ trong một
số trường hợp như pháp luật hiện hành.
Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không quy định hình thức bắt
buộc thì giao dịch đó có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào chẳng
hạn như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể:
+ Hình thức miệng (bằng lời nói) : đây được coi là hình thức phổ biến nhất
trong xã hội hiện nay dù đó cũng là hình thức có độ xác thực thấp nhất. Hình
thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và

chấm dứt ngay sau đó hoặc giữa các chủ thể có mối quan hệ thân tín, tin cậy.
+ Hình thức văn bản: thể theo sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao
dịch hoặc do pháp luật quy định, các bên xác lập giao dịch bằng hình thức
văn bản, trên đó phải có chữ ký xác nhận của chủ thể nhằm xác minh sự
tham gia giao dịch của các chủ thể. Ngoài ra, có một số trường hợp các bên
thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch bắt buộc phải lập thành văn
bản có chứng nhận chứng thực, đăng ký hoặc xin phép mà thông thường là
đối với các giao dịch dân sự có đối tượng Nhà nước cần phải kiểm soát trong
lưu thông dân sự hoặc đối tượng của giao dịch dân sự có giá trị lớn ( đất đai,
nhà cửa…). Trong các trương hợp đó, các chủ thể buộc phải tuân theo quy
định của pháp luật về hình thức để có thể đảm bảo giao dịch dân sự phát sinh
hiệu lực.
+ Hình thức bằng hành vi: chẳng hạn như rút tiền từ trạm ATM, gọi điện
thoại ở bốt công cộng, mua nước bằng máy tự động... Đây cũng là hình thức
giản tiện nhất của giao dịch do không cần thiết phải có sự hiện diện của tất
cả các bên tham gia giao dịch.
Giao dịch dân sự là một chế định rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn.
Những quy định về giao dịch dân sự là sự cần thiết cấp bách không thể thiếu
trong việc điều chỉnh mối quan hệ cơ bản của pháp luật dân sự. Tuy nhiên để
có thể bảo đảm trọn vẹn quyền lợi của các chủ thể tham gia giao dịch, pháp
luật cũng đề ra các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự hợp pháp,
từ đó xác định những giao dịch nào vi phạm các điều kiện đó sẽ bị coi là vô
hiệu, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu đó. Vậy cụ thể, giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Hậu quả

×