Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp,hợp tác xã

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.98 KB, 16 trang )

BÀI LÀM
MỞ ĐẦU
Qua nhiều năm sửa đồi và hoàn thiện, vào năm 2004 Luật phá sản đã được Quốc
Hội khóa XI thông qua và có hiệu lực vào ngày 15 tháng 6 năm 2004. Vậy thực tiễn
thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã đã đạt được những thành tựu
như thế nào, và hạn chế của pháp luật thông qua quá trình thực hiện ra sao. Bài viết
dưới đây xin tìm hiểu đề tài : Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã.
NỘI DUNG
I.

Sự ra đời của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

1. Lý do ra đời của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị trường, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan. Tính tất yếu khách quan của hiện
tượng phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã được lý giải bằng các lý do cơ bản sau: Thứ
nhất, về thực chất doanh nghiệp, hợp tác xã cũng chỉ là thực thể xã hội và như vậy,
cũng như các thực thể khác, doanh nghiệp, hợp tác xã cũng có quá trình sinh ra, phát
triển và diệt vong. Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận luôn là mục đích tối
cao mà mọi doanh nghiệp, hợp tác xã đều hướng tới, là cơ sở cho sự tồn tại của mỗi
doanh nghiệp, hợp tác xã đồng thời là động lực cơ bản thúc đẩy để lao vào quá trình
cạnh tranh nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Do vậy cạnh tranh là một quy luật khách quan.
Khi tồn tại quyền tự do cạnh tranh, các doanh nghiệp, hợp tác xã có cơ sở pháp lý để
tham gia vào các cuộc cạnh tranh nhằm dành thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Trong
cuộc chiến trên thương trường đó, có sự phân hoá mạnh yếu, những doanh nghiệp, hợp
tác khác kinh doanh kém hiệu quả, không đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ tài chính
buộc phải chấm dứt hoạt động, rút khỏi thị trường. Thứ ba, kinh doanh là chấp nhận rủi
ro, vì trong kinh doanh rủi ro là rất lớn. Thậm chí có những doanh nghiệp, hợp tác xã
chịu sự rủi ro ngay khi mới thành lập và bị phá sản. Hơn nữa, sự đa dạng của các lý do
thất bại trong kinh doanh còn thể hiện ở việc: sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý


1


hoạt động sản xuất – kinh doanh, sự thiếu khả năng thích ứng với những biến động trên
thương trường; vi phạm các chế độ, thể lệ quản lý. Tóm lại, phá sản luôn là một hiện
tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình
cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự nhiên của nền kinh tế thị trường. Vì vậy cần có
pháp luật về phá sản doanh nghiệp hợp tác xã để điều chỉnh vấn đề đang diễn ra ngày
càng phong phú này, sự ra đời của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là
một tất yếu khách quan và cần thiết để duy trì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Vai trò của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
Phá sản là tình trạng không mong muốn của doanh nghiệp cũng như hợp tác xã
trong kinh doanh, nhưng lại là một quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị
trường. Pháp luật về phá sản có nhiệm vụ quan trọng là tạo điều kiện thuận lợi cho các
doanh nghiệp, hợp tác xã đang trong tình trạng kinh doanh khó khăn, thua lỗ có cơ hội
để tái tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc rút ra khỏi thương trường một
cách có trật tự, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Pháp luật về
phá sản bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ nợ thông qua nhiều quy định khác
nhau nhưng thể hiện rõ nhất, đặc trưng nhất là thông qua các quy định về tài sản, nghĩa
vụ về tài sản, bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
và thông qua tổ chức và hoạt động của hội nghị chủ nợ.
II.

Thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã
Năm 2004 Luật phá sản sửa đổi bổ sung có hiệu lực pháp luật, trải qua hơn 2 năm
thực thi Luật phá sản 2004 , ở 3 trung tân kinh tế, chính trị lớn là Hà Nội và TP.HCM

và Đà Nẵng đã tiếp nhận được 45 hồ sơ (TP.HCM 22 hồ sơ, Hà Nội 11 hồ sơ, Đà Nẵng
12 hồ sơ). Luật Phá sản được Quốc hội khóa XI thông qua năm 2004 có nhiều điểm
thông thoáng so với trước đây, tạo điều kiện cho các cơ quan thực thi pháp luật giải
quyết được nhanh chóng thủ tục phá sản cho doanh nghiệp, hợp tác xã.
2


Luật Phá sản năm 2004 quy định khá cụ thể về khiếu nại, kháng nghị quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Theo đó, doanh nghiệp, hợp tác xã bị
phá sản, các chủ nợ, những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản có
quyền khiếu nại; Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định
tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Thời hạn khiếu nại, kháng nghị là 20
ngày, kể từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
bị phá sản. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kháng nghị,
tòa án đã ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản phải gửi hồ sơ về
phá sản kèm theo đơn khiếu nại, quyết định kháng nghị cho tòa án cấp trên trực tiếp để
xem xét, giải quyết. Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản không bị
khiếu nại, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn khiếu nại, kháng
nghị.
2. Những hạn chế vướng mắc còn tồn tại trong việc thực hiện pháp luật về phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã
2.1.

Những bất cập của pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã

Luật Phá sản được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua ngày
15/6/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/10/2004 và thay thế Luật phá sản doanh
nghiệp năm 1993. Đây là cơ sở pháp lý nhằm tạo điều kiện cho ngành Tòa án nhân dân
giải quyết hậu quả pháp lý của các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản. Tuy nhiên, khi áp dụng Luật Phá sản vào thực tiễn đã bộc lộ nhiều vướng mắc, bất

cập, làm cho công tác giải quyết các việc phá sản gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều thời
gian và gây thiệt hại tài sản của doanh nghiệp mở thủ tục phá sản như:
a. Tính khả thi của luật chưa cao
Luật Phá sản năm 2004 ra đời, đã được điều chỉnh nhiều so với Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1994, được giới doanh nhân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước lẫn
các cơ quan có thẩm quyền như toà án, các trung tâm trọng tài thương mại kỳ vọng rất
nhiều mà tình hình thực thi không cải thiện bao nhiêu so với Luật Phá sản doanh
nghiệp năm 1994. Có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân trước tiên là do tính khả
3


thi của luật không cao, không có khả năng đi vào thực tiễn đời sống hiện nay và chưa
phản ảnh được tiếng nói từ phía doanh nghiệp. Luật Phá sản quy định khi nhận thấy
doanh nghiệp của mình lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp đó phải có
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhưng nếu không nộp đơn thì chủ doanh
nghiệp cũng không có trách nhiệm gì. Vì vậy chủ doanh nghiệp, hợp tác xã cố trốn
tránh nghĩa vụ đó, còn việc ảnh hưởng như thế nào cho ai, cho nền kinh tế, cho xã hội
thì không cần biết, bởi chủ doanh nghiệp, hợp tác xã chỉ lo cho lợi ích cá nhân mình.
b. Văn bản hướng dẫn luật còn quá chậm
Luật Phá sản năm 2004 ra đời là một bước tiến mới giải quyết được nhiều vướng
mắc trước đây của Luật Phá sản năm 1993; đặc biệt là đã có những quy định mới tiếp
cận với Luật Phá sản trong khu vực. Một số quy định quan trọng không thể hoặc chưa
thể áp dụng được, đó là chưa nói đến thái độ của pháp luật coi rủi ro, thất bại trong
kinh doanh như một hành vi phạm pháp. Vì vậy, Luật Phá sản năm 2004 cần được sửa
đổi, bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực tiễn là cần thiết và bình
thường nhằm thúc đẩy việc giải quyết tuyên bố phá sản lên một bước mới, nhanh hơn
và hiệu quả hơn.
c. Những bất cập trong xử lý tài sản, vật kiến trúc của doanh nghiệp gắn liền
trên đất thuê của Nhà nước.
Nhiều doanh nghiệp được thành lập và thuê đất của Nhà nước đầu tư vốn xây dựng

trụ sở làm việc, nhà xưởng… để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trong hoạt động sản
xuất kinh doanh nếu gặp rũi ro, sẽ đưa doanh nghiệp lâm vào tình trạng thua lỗ kéo dài,
đã có nhiều phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, nhưng không khắc phục được
và các chủ nợ yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản để thu hồi
lại vốn cho vay. Trong thời gian Tòa án đang giải quyết, UBND có thẩm quyền thu hồi
lại đất cho doanh nghiệp thuê xây dựng trụ sở làm việc, nhà kho, nhà xưởng phục vụ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Chẳng hạn, Công ty Vật tư nông nghiệp tỉnh
Quảng Nam ( viết tắt là VTNN) là doanh nghiệp nhà nước, hoạt động kinh doanh
những mặt hàng phân bón, thuốc trừ sâu phục vụ nông nghiệp cho các địa phương
4


trong tỉnh, nhưng việc kinh doanh của doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài và mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn cho các chủ nợ. Cuối năm 2005, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Nam mở thủ tục phá sản theo yêu cầu của các chủ nợ và Tổ quản lý, thanh lý tài sản
kiểm kê, định giá tài sản với tổng số tiền trên 2,8 tỷ đồng. Đến đầu năm 2008, UBND
tỉnh Quảng Nam ban hành quyết định thu hồi lại 648m 2 đất của Công ty VTNN thuê
xây dựng nhà làm việc, đồng thời quyết định phê duyệt giá khởi điểm nhà làm việc, vật
kiến trúc trên đất của Công ty VTNN là 875.000.000 đồng và quy định tổ chức, cá
nhân trúng đấu giá nhà, vật kiến trúc trên đất được lựa chọn hình thức giao đất nộp tiền
sử dụng đất một lần hoặc thuê đất trả tiền thuê hằng năm theo quy định của pháp luật.
Trên thực tế, UBND tỉnh Quảng Nam thu hồi lại đất cho doanh nghiệp thuê để giao
cho Trung tâm Quan trắc và phân tích môi trường thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh quản lý, sử dụng làm trụ sở làm việc. Do đó, không có tổ chức, cá nhân nào đấu
giá mua tài sản trên đất này để phải tháo dỡ lấy phế liệu. Vì vậy, giá khởi điểm tài sản
của Công ty VTNN cũng là giá mua của Sở Tài nguyên & Môi trường tỉnh từ nguồn
vốn ngân sách nhà nước địa phương. Trong khi đó, Chi nhánh Ngân hàng thương mại
cổ phần ngoại thương tỉnh Quảng Ngãi là chủ nợ chính đã nhiều lần xin mua nhà làm
việc, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng đất để trừ nợ Công ty VTNN vay
1.138.931.374 đồng và trên 258 ngàn USD (tương đương 5,272 tỷ đồng theo thời giá

năm 2008), nhưng vẫn không được UBND tỉnh Quảng Nam chấp nhận. Rõ ràng, Công
ty VTNN Quảng Nam và Chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương tỉnh
Quảng Ngãi phải gánh chịu thiệt hại vật chất khá lớn về tài sản hình hành từ vốn vay.
Hoặc, Công ty VTNN Quảng Nam thuê của UBND thành phố Đà Nẵng 13.294m 2 đất,
xây dựng nhà kho và đặt Văn phòng đại diện tại địa phương này. Sau khi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản thì UBND thành phố Đà Nẵng có Quyết định 5488/QĐUBND ngày 13/7/2007 thu hồi lại toàn bộ diện tích đất cho thuê và giao cho Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố lập thủ tục cho Công ty Cổ phần Trường Xuân thuê
lại để sản xuất kinh doanh. Đến ngày 15/01/2009, UBND thành phố Đà Nẵng có Quyết
định 580/QĐ-UBND phê duyệt giá trị đền bù, hỗ trợ thiệt hại cho Công ty VTNN
5


Quảng Nam 1.497.397.266 đồng và giao cho Công ty Quản lý – Khai thác đất thành
phố có trách nhiệm chi trả khoản tiền này cho Công ty VTNN Quảng Nam từ nguồn
vốn của Công ty Cổ phần Trường Xuân. Thế nhưng, từ đó đến nay Công ty Cổ phần
Trường Xuân không chuyển 1.497.397.266 đồng cho Công ty Quản lý – Khai thác đất
thành phố, để Công ty này thực hiện việc chi trả hỗ trợ thiệt hại cho Công ty VTNN
Quảng Nam theo quyết định của UBND thành phố Đà Nẵng. Như vậy, tài sản trên đất
thuê của Cty VTNN Quảng Nam tại thành phố Đà Nẵng được hình thành từ vốn vay,
nhưng doanh nghiệp này không có quyền định đoạt để bán đấu giá tài sản của mình và
sáu năm trôi qua, mà công tác giải quyết việc phá sản của Công ty VTNN Quảng Nam
vẫn chưa đủ điều kiện để Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam tuyên bố doanh nghiệp bị
phá sản.
d. Những bất cập về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về mua bán tài sản thanh lý
Sau khi thu được tiền bán đấu giá tài sản của Công ty Mía đường Quảng Nam, Tổ
quản lý, thanh lý tài sản chưa trừ 2.654.781.794 đồng thuế giá trị gia tăng cho Công ty
Cổ phần xây dựng thương mại Cửa Việt, mà vội vã lập phương án phân chia tài sản có
bảo đảm cho Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NHNo&PTNT) thành phố Đà Nẵng trên 33,78 tỷ đồng; Chi nhánh Ngân hàng phát
triển Quảng Nam trên 10,8 tỷ đồng. Do đó, Công ty Cổ phần xây dựng thương mại

Cửa Việt yêu cầu hoàn trả lại thuế giá trị gia tăng trong lô hàng mua đấu giá nêu trên.
Tổ Thẩm phán – TAND tỉnh Quảng Nam có Quyết định số 01/2009/QĐ-TTP ngày
09/11/2009 giải quyết: Chấp nhận yêu cầu của Công ty Cổ phần xây dựng thương mại
Cửa Việt; buộc Chi nhánh NHNo&PTNT thành phố Đà Nẵng hoàn trả số tiền
909.377.410 đồng; Chi nhánh Ngân hàng phát triển Quảng Nam hoàn trả số tiền
727.651.003 đồng cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản Công ty Mía đường Quảng Nam, để
hoàn trả thuế giá trị gia tăng cho Công ty Cổ phần xây dựng thương mại Cửa Việt. Tuy
nhiên, việc hoàn thuế giá trị gia tăng có nhiều quan điểm khác nhau: Về phía Ngân
hàng cho rằng tài sản hình thành từ vốn vay, khi thanh lý bán tài sản đó để thu hồi lại
vốn thì không phải chịu thuế giá trị gia tăng. Ngược lại, về phía doanh nghiệp mua đấu
6


giá tài sản bao gồm cả thuế giá trị gia tăng. Do đó, người trúng đấu giá tài sản yêu cầu
phải hoàn thuế giá trị gia tăng đã nộp cho Nhà nước. Sự việc mãi dằng co từ cuối năm
2009 đến nay vẫn chưa ngã ngũ, nên Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam chưa thể tuyên
bố phá sản đối với Công ty Mía đường Quảng Nam.
e. Những bất cập công tác thu hồi nợ đối với doanh nghiệp bị mở thủ tục phá
sản
Khi doanh nghiệp được thành lập luôn tạo nhiều mối quan hệ liên doanh, liên kết,
hợp đồng mua bán, trao đổi hàng hóa qua lại ở nhiều địa phương trong cả nước. Trong
mối quan hệ thương mại, các doanh nghiệp, cá nhân có thể là chủ nợ hoặc con nợ của
nhau. Nếu doanh nghiệp, cá nhân là chủ nợ thì họ có quyền và trách nhiệm báo cáo cho
Tổ quản lý, thanh lý tài sản biết liệt kê vốn vào danh sách chủ nợ và chờ khi có phương
án phân chia tài sản để được nhận lại toàn bộ hoặc một phần tài sản mà doanh nghiệp,
cá nhân đã đầu tư vào doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản. Ngược lại, nếu con
nợ là doanh nghiệp thì công tác thu hồi nợ gặp nhiều khó khăn, bởi các con nợ thường
tìm mọi cách tránh công nợ phải trả như là Giám đốc Công ty đi công tác xa không biết
khi nào về, hoặc doanh nghiệp đang đầu tư vào các dự án lớn, nên chưa tính đến việc
thanh toán nợ phải trả, v.v.. Đối với con nợ là cá nhân làm đại lý và chủ yếu là cán bộ,

công nhân viên của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, họ phải tự đi tìm kế sinh
nhai ở nhiều địa phương khác nhau và không có địa chỉ rõ ràng, cho nên công tác thu
hồi nợ đối với cá nhân lại càng khó khăn và phức tạp hơn
Nguyên nhân của những vướng mắc trên là do:
-

Sự chồng chéo, thiếu đồng bộ giữa Luật Phá sản với Luật Thi hành án dân sự và

các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành như: Luật Phá sản quy định chung cho Thẩm
phán có nhiệm vụ, quyền hạn giám sát, tiến hành thủ tục phá sản. Nếu phát hiện có dấu
hiệu tội phạm thì cung cấp tài liệu cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp để xem xét
việc khởi tố về hình sự và vẫn tiến hành thủ tục phá sản theo quy định của Luật này
(Điều 8), nhưng thẩm quyền của Thẩm phán giải quyết việc phá sản đến đâu chưa được
Luật Phá sản quy định rõ ràng cụ thể. Nhất là các quyết định ngoại lệ trong quá trình
7


giải quyết khiếu nại; áp dụng biện pháp chế tài để thực hiện các quyết định của mình
về thủ tục phá sản. Đối với Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản được Luật Phá sản
quy định chức năng nhiệm vụ và tổ chức thi hành quyết định của Thẩm phán theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự. Trong khi đó, Luật Thi hành án dân sự
không cho phép Thủ trưởng Cơ quan thi án án dân sự ra các quyết định thi hành án đối
với các quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản, kể cả quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 138). Như vậy, Chấp hành viên làm Tổ trưởng Tổ
quản lý, thanh lý tài sản đứng cửa giữa đành bó tay, không thể tổ chức thi hành quyết
định của Thẩm phán trong phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ hướng dẫn việc áp
dụng Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý,
thanh lý tài sản. Qua đó, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ có quyền đề nghị
Thẩm phán ra các quyết định tuyên bố giao dịch mà doanh nghiệp, hợp tác xã thực

hiện vô hiệu; doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải thực hiện hoặc
không thực hiện những hành vi nhằm bảo toàn tài sản; thu hồi tài sản hay phần chênh
lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý tài sản. Tổ
trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản chỉ được phép quyết định áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án theo quy định pháp luật về thi hành án dân sự, nhưng Luật Thi
hành án dân sự không cho phép Chấp hành viên ra các quyết định về thi hành án. Do
đó, Chấp hành viên làm Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản không thể tự mình thực
hiện công vụ ngoài phạm vi pháp luật cho phép.
-

Trong thực tiễn, cá nhân, doanh nghiệp trước khi vay tiền của các tổ chức tín

dụng, đã thế chấp bất động sản là nhà ở, đất ở, máy móc, thiết bị…Khi doanh nghiệp,
cá nhân kinh doanh thua lỗ, không trả được nợ cho Ngân hàng và xảy ra tranh chấp
phải đệ đơn hầu Tòa giải quyết. Đến lúc này mới thấy nhiều tổ chức tín dụng “lách
luật” bằng cách xác định giá trị tài sản thế chấp tăng gấp nhiều lần so với thực tế, để
cho khách hàng vay vốn không vượt quá 70% giá trị tài sản thế chấp, cho nên việc kê
biên tài sản bán đấu giá để thi hành án thu hồi nợ cho chủ nợ đã gặp nhiều khó khăn.
8


Thế nhưng, Bộ Luật dân sự năm 2005 (Điều 342) và Luật Kinh doanh bất động sản
(Điều 7) quy định “Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai”,
bao gồm: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ hợp
pháp chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định của pháp luật đối với
nhà, công trình đã có sẵn; giấy phép xây dựng hoặc hồ sơ dự án và thiết kế, bản vẽ thi
công đã được phê duyệt đối với nhà, công trình xây dựng… Do đó, các doanh nghiệp,
cá nhân đem những loại giấy tờ này thế chấp cho các tổ chức tín dụng để vay vốn,
nhưng đằng sau việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp, cá nhân có đúng mục đích
theo giấy tờ thế chấp hay không là một vấn đề nan giải.

- Điều không kém phần quan trọng về công tác kiểm tra giám sát thủ tục giải
quyết việc phá sản doanh nghiêp, hợp tác xã, Luật Phá sản quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân còn mang tính chung chung như: “Viện
kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành thủ tục
phá sản theo quy định của Luật này và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (Điều
12). Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp chỉ có quyền kháng nghị đối với hai
loại quyết định là quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản (Điều 83) và quyết định tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản (Điều 91), nhưng Luật không quy định Tổ
Thẩm phán hoặc Tổ quản lý, thanh lý tài sản chuyển hồ sơ việc phá sản cho Viện kiểm
sát cùng cấp nghiên cứu, xác định tính hợp pháp về các quyết định của Tổ Thẩm phán
ban hành, để đảm bảo cho việc kháng nghị của Viện kiểm sát đúng pháp luật. Hoặc,
Luật Phá sản cũng không quy định Viện kiểm sát cùng cấp được quyền tiếp cận, xem
xét hồ sơ do Tổ Thẩm phán hoặc Tổ quản lý, thanh lý tài sản xác lập như: Việc xác
định công nợ của các chủ nợ, con nợ; kiểm kê, định giá, bán đấu giá tài sản; lập
phương án phân chia tài sản, thanh toán cho các chủ nợ có vô tư khách quan hay
không? Và điều quan trọng là giám sát việc lập hồ sơ miễn, giảm để xóa nợ cho con nợ
không có điều kiện thi hành án có đúng đối tượng thuộc diện chính sách hay không?
Viện kiểm sát nhân dân chỉ xem xét các quyết định về thủ tục phá sản của Tổ Thẩm
phán gửi đến (Điều 29 LPS), thì không thể nắm vững nguyên nhân, điều kiện vi phạm
9


pháp luật và tiến độ giải quyết việc phá sản để kháng nghị hoặc kiến nghị khắc phục,
sửa chữa những tồn tại trong việc giải quyết phá sản.
-

Thẩm phán và Chấp hành viên được phân công giải quyết việc phá sản chưa có

kinh nghiệm, do đó luôn bị động lúng túng nên đã dẫn đến những sai sót nhất định khi
áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Mặt khác, Thẩm phán và Chấp hành viên ngại vướng

trách nhiệm cá nhân, phải bồi thường thiệt hại khi thực hiện các biện pháp giải quyết
việc phá sản. Hơn nữa, thành viên trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản là những người đại
diện cho chủ nợ, đại diện cho doanh nghiệp bị mở thủ tục phá sản thực hiện nhiệm vụ
kiêm nhiệm theo sự phân công của người quản lý trực tiếp, nhưng công việc kiêm
nhiệm không phải là nhiệm vụ chuyên môn chính của họ, nên sự phối hợp tham gia của
những thành viên này thiếu nhiệt tình cùng Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong công tác
thu hồi giải quyết công nợ. Và suy cho cùng, hậu quả kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá
sản không phải bản thân của những người đại diện gây ra, mà do nhiều nguyên nhân
“tế nhị” trong hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ doanh nghiệp đẻ ra.
- Ngoài ra, Kinh phí hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản chủ yếu sử dụng từ
nguồn kinh phí của cơ quan thi hành án dân sự, nhưng công tác thu hồi nợ của con nợ
quá nhiều và nằm rải rác ở nhiều tỉnh, thành khác nhau, do đó nguồn kinh phí của cơ
quan thi hành án dân sự không thể đáp ứng yêu cầu phục vụ cho Tổ quản lý, thanh lý
tài sản. Và chế độ thù lao cho những người làm công tác này quá khiêm tốn, cho nên
công tác đi thu hồi nợ còn nhiều hạn chế nhất định.
Vì vậy Quốc hội cần quan tâm sửa đổi, bổ sung Luật Phá sản năm 2004, nhằm khắc
phục sự chồng chéo, bất cập giữa các văn bản pháp luật, tạo sự đồng bộ giữa các quy
định của Luật Phá sản, Luật Thi hành án dân sự và những văn bản pháp luật khác liên
quan đến lĩnh vực phá sản. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các ngành, tổ chức, cá
nhân phối hợp giải quyết tốt việc phá sản của các doanh nghiệp, hợp tác xã.
2.2.

Những hạn trong việc thực hiện pháp luật về phá sản từ phía doanh
nghiệp, hợp tác xã

10


Do quy định của pháp luật còn thiếu tính khả thi nên tỷ lệ doanh nghiệp, hợp tác xã
được tuyên bố phá sản theo đúng quy định của pháp luật còn chiếm tỷ lệ rất thấp so với

thực tế các doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản mà chưa được làm thủ tục phá sản.
Tình hình này không phản ánh đúng thực tế đời sống kinh doanh của doanh nghiệp,
hợp tác xã trong giai đoạn hiện nay hiện nay.
III.

Những kiến nghị sửa đổi các quy định của pháp luật về phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã để hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã
1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản
Trong quá trình thực hiệc các quy định về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản tại Điều 49 Luật Phá sản năm 2004 đã bộc lộ nhiều thiếu sót. Do
đó, cần sửa đổi, bổ sung một số quy định như sau:
-

Việc quy định về tài sản phá sản và cách xử lý đối với tài sản phá sản như tại

Điều 49 là chưa hợp lý, chưa đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Toàn bộ tài sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã có
được từ thời điểm có Quyết định của Toà án về việc thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá
sản hợp thành một khối thống nhất và duy nhất được gọi là tài sản phá sản. Việc xác
định phạm vi của khối tài sản này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó không chỉ ảnh
hưởng đến quyền lợi của các chủ nợ mà còn có ý nghĩa lớn trong việc quyết định
phương hướng giải quyết một vụ việc phá sản cụ thể. Nếu Toà án xác định được rằng,
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã không còn hoặc còn nhưng rất không đáng kể thì
Toà án có thể tuyên bố ngay họ bị phá sản và chấm dứt vụ việc mà không cần phải
tiến hành bất cứ một thủ tục pháp lý nào khác. Do vậy, cần bổ sung thêm quy định
Toà án ra quyết định thanh lý tài sản và tuyên bố doanh nghiệp phá sản ngay khi xác
định được rằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã không còn hoặc còn nhưng rất

không đáng kể. Có như vậy thủ tục tiến hành "khai tử" một doanh nghiệp, hợp tác xã

11


mới có thể tiến hành nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các đương sự, cơ
quan tiến hành tố tụng cũng như cho cả xã hội.
- Bổ sung một số loại tài sản, quyền tài sản vào tài sản phá sản của doanh nghiệp
mắc nợ như: Tàisản và quyền tài sản được thu hồi từ các giao dịch không công bằng
của doanh nghiệp; Tài sản và quyền tài sản có được do thu hồi từ các giao dịch vô hiệu
của doanh nghiệp; Tài sản và quyền tài sản có được do chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc
thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thừa kế; Tài sản và quyền tài sản có được
sau ngày mở thủ tục phá sản.
Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 thì sau khi mở thủ tục phá sản, hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp vẫn có thể được tiến hành một cách bình thường. Vì vậy,
việc doanh nghiệp có thêm tài sản và quyền tài sản sau ngày bắt đầu vụ kiện là điều
hoàn toàn có thể xảy ra. Do đó, việc đưa tài sản và quyền tài sản mà doanh nghiệp có
được sau ngày mở thủ tục phá sản vào tài sản phá sản là cần thiết.
- Bổ sung quy định về tài sản phá sản của doanh nghiệp những tài sản như: Tài
sản và quyền tài sản do chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh trong
trong công ty hợp danh được tặng cho, thừa kế riêng.
- Bổ sung vào Điều 49 Luật Phá sản năm 2004 khoản 3, trong đó quy định về các
loại tài sản được miễn trừ khỏi tài sản phá sản. Hiện nay, theo quan điểm nhân đạo,
nhiều nước trên thế giới đã cho phép người mắc nợ là cá nhân được giữ lại một số tài
sản, chủ yếu là những đồ dùng sinh hoạt thiết yếu hàng ngày nếu họ không có hành vi
vi phạm pháp luật hoặc không có hành vi gian lận trong quá trình quản lý, điều hành
doanh nghiệp. Theo thông lệ của các nước thì các tài sản, quyền về tài sản được miễn
trừ bao gồm: các đồ vật phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày mang tính chất tối thiểu của
người mắc nợ và các khoản trợ cấp cho người mắc nợ do không còn khả năng lao
động, do bệnh tật, do mất việc làm; tiền lương hưu, các khoản nhận được từ hợp đồng

bảo hiểm nhân thọ, các khoản cấp dưỡng sau khi ly hôn, tiền bồi thường do sức khoẻ bị
tổn hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác gây ra.

12


2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định về nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (Điều 33 Luật Phá sản năm 2004)
Như trên đã phân tích, nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản trong một số trường hợp đặc biệt vẫn phát sinh sau ngày Toà án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Do đó, cần sửa đổi Điều 33 Luật Phá sản năm 2004
theo hướng thừa nhận các khoản nợ mới phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản.
Có nghĩa là nghĩa vụ về tài sản phát sinh sau ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản cũng phải được xác định là nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản. Vì khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản được áp dụng thủ tục phục hồi sẽ có thể dẫn tới phát sinh các khoản nợ mới. Nếu
không quy định nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong qúa trình tiến hành
thủ tục phục hồi thì sẽ không có doanh nghiệp nào muốn làm ăn đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
3. Kiến nghị sửa đổi các quy định về thu hồi và quản lý tài sản phá sản
Nghiên cứu việc tăng quyền cho Thẩm phán, nhất là trong việc xử lý những khoản
nợ nhỏ mà chi phí cho việc đòi nợ bằng hoặc ít hơn khoản nợ không nhiều, thì Thẩm
phán có quyền xem xét miễn đòi. Riêng những khoản nợ khó đòi cần quy định điều
kiện để Thẩm phán xem xét trình Hội nghị chủ nợ giảm nợ. Có như vậy mới có lối
thoát cho những khoản nợ nhỏ không đáng gì và những khoản nợ khó đòi đã kéo dài
nhiều năm. Bổ sung quy định của Luật Phá sản năm 2004 về xử lý tài sản phá sản ở
nước ngoài. Hiện nay, trên thế giới có hai khuynh hướng quy định về vấn đề này:
Một là không công nhận phán quyết giải quyết vụ phá sản của toà án nước ngoài
hoặc không thừa nhận quyền thu hồi tài sản ở lãnh thổ nước sở tại của người quản lý
tài sản của một nước khác ngoại trừ trường hợp điều ước quốc tế có quy định riêng.

Hai là, công nhận một phần hoặc toàn bộ các phán quyết của Toà án nước ngoài
như: công nhận ngay lập tức mà không cần thực hiện bất kỳ một thủ tục tư pháp hay
hành chính nào; thủ tục công nhận trên cơ sở có đi có lại (Pháp, Hy Lạp, Ý); thủ tục

13


công nhận trên cơ sở không có đi có lại (Mêhicô, Panama và Côlômbia) và việc công
nhận chỉ giới hạn trong việc thu hồi tài sản (Hà Lan, Thuỵ Điển).
4. Sửa đổi quy định về tạm đình chỉ và đình chỉ thi hành án dân sự hoặc giải
quyết vụ án (Điều 27 và Điều 57 Luật Phá sản năm 2004)
Việc quy định cần phải tạm đình chỉ thi hành tất cả các bản án đã có hiệu lực pháp
luật từ ngày Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là cứng nhắc, không bảo
đảm lợi ích chính đáng của một số chủ nợ có liên quan đến việc giải quyết phá sản.
Theo khoản 1 Điều 27 thì kể từ thời điểm Toà án thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản,
tất cả các bản án mà theo đó doanh nghiệp mắc nợ có nghĩa vụ thi hành đều bị tạm
đình chỉ. Quy định như vậy, về cơ bản là đúng nhưng còn cứng nhắc, không hợp lý
trong một số trường hợp, không phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam cũng như
thông lệ của pháp luật nhiều nước trên thế giới. Xuất phát từ địa vị pháp lý, khả năng
kinh tế cũng như nhu cầu phải có sự ứng xử một cách đặc biệt đối với một số chủ nợ
nên Luật Phá sản năm 2004 của nhiều nước đều có quy định, theo đó, đối với một số
bản án, nhất là các bản án mà người được thi hành là các cá nhân bị doanh nghiệp mắc
nợ gây thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng, danh dự; các bản án Toà án yêu cầu doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ phải trả lại tài sản cho người khác do tài sản này đã bị
doanh nghiệp mắc nợ chiếm hữu một cách bất hợp pháp… đều được thi hành mà
không bị tạm đình chỉ. Quy định này cũng rất phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam, vì
vậy, rất đáng được xem xét, tiếp thu.
5. Kiến nghị bổ sung quy định về giải quyết tranh chấp có liên quan đến nghĩa
vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Luật Phá sản năm 2004 thì kể từ ngày Toà

án ra quyết định mở thủ tục phá sản, việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ tài
sản mà doanh nghiệp, hợp tác xã là một bên đương sự trong vụ án đó phải bị đình chỉ.
Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án phải chuyển hồ sơ vụ án đó cho
Toà án đang tiến hành thủ tục phá sản để giải quyết. Như vậy, Toà án đang giải quyết
vụ phá sản phải giải quyết cả các tranh chấp có liên quan đến nghĩa vụ của doanh
14


nghiệp, hợp tác xã để xác định nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp hợp tác xã theo
quy định tại Điều 33 Luật Phá sản năm 2004 trước khi tiến hành thủ tục thanh lý tài
sản. Quy định như vậy vô hình trung đã tạo thêm nghĩa vụ giải quyết vụ tranh chấp cho
Thẩm phán đang phụ trách giải quyết vụ phá sản. Tuy nhiên, các quy định về các vấn
đề liên quan đến vụ tranh chấp cũng như hậu quả pháp lý của việc giải quyết của Thẩm
phán tiến hành giải quyết vụ tranh chấp lại không được quy định cụ thể trong Luật Phá
sản năm 2004. Thiết nghĩ trong thời gian tới, khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật Phá
sản năm 2004 cần nghiên cứu để bổ sung các quy định về trường hợp này để đảm bảo
giá trị pháp lý của việc giải quyết của Thẩm phán. Theo quy định tại Điều 77 của Luật
Phá sản năm 2004, việc ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt dộng kinh doanh
dẫn đến một hậu qủa pháp lý rất quan trọng là doanh nghiệp đó được coi không còn
lâm vào tình trạng phá sản. Sau khi doanh nghiệp thoát khỏi lâm vào tình trạng phá
sản, nếu việc thi hành án dân sự chưa được thi hành thì doanh nghiệp sẽ tiếp tục phải
thực hiện những nghĩa vụ thi hành án dân sự bị đình chỉ do áp dụng thủ tục phục hồi.
Mặt khác, việc giải quyết những vụ án bị đình chỉ theo Điều 57 của Luật Phá sản năm
2004 mà chưa được giải quyết thì ngay sau khi ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc giải quyết vụ án lại được tiếp tục và
doanh nghiệp lại tiếp tục là đương sự của vụ án đó.
KẾT LUẬN
Qua phân tích về thực tiễn thực hiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
đã cho thấy được những hạn chế vướng mắc của pháp luật về phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã. Mặt khác cũng cho thấy được sự cần thiết cần phải sửa đổi, bổ sung để

hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã để đáp ứng được nhu cầu của
nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế và thu hút vốn
đầu tư nước ngoài.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thương mại 1 – Trường đại học Luật Hà Nội
2. Luật phá sản năm 2004
3. Luật doanh nghiệp năm 2005
4. Luật dân sự năm 2005
5. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 của Chính phủ
6. Trang web:
- Sinhvienluat.vn
-
-
-

16



×