Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Hoạt động phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.07 KB, 33 trang )

NHÓM 1

Luật ngân hàng

Đề tài: HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH TIỀN

NỘI DUNG
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

BÀI LÀM
A/ ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với lịch sử
hình thành và phát triển tiền tệ, vấn đề quản lý hệ thống tiền tệ của Quốc gia cũng như chịu
trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ đòi hỏi cần phải có một cơ quan đặc trách đó là Ngân
hàng Trung ương (NHTW). Ở tất cả các Quốc gia dù lớn hay nhỏ đều có một Ngân hàng
Trung ương, phương thức tổ chức và tên gọi có thể khác nhau (Ví dụ : Việt Nam là Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, Mỹ là Cục dự trữ Liên bang) nhưng tính chất hoạt động và vai trò
của NHTW cơ bản là giống nhau. Hệ thống Ngân hàng của mỗi quốc gia được hình thành từ
khi có Ngân Hàng trung ương đây là ngân hàng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm ổn định giá trị tiền tệ góp phần đảm bảo an toàn hoạt
động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng. NHTW liên quan đến 3 chức năng cơ bản
là Phát hành tiền tệ, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng của Chính phủ. Phát
hành tiền là việc đưa thêm một lượng tiền vào lưu thông, đây là chức năng đặc biệt quan

Hoạt động phát hành tiền

1



NHÓM 1

Luật ngân hàng

trọng và độc quyền của hầu hết các NHTW trên thế giới ( Một số nước khác như Mỹ thì Cục
Dự trữ Liên bang – NHTW của Mỹ không có chức năng phát hành tiền, thay vào đó là Bộ
Tài chính đảm nhiệm).
Ở Việt Nam, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan duy nhất được giao phát
hành tiền (Khoản 3 Điều 2 và Khoản 1 Điều 17- Luật Ngân Hàng 2010).
“Khoản 1 Điều 17: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy,
tiền kim loại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Vậy tại sao quyền lực phát hành tiền lạị tập trung vào NHTW? Hoạt động phát hành
tiền diễn ra như thế nào cũng như tác động của nó đến nền kinh tê? Bài viết của Nhóm sẽ đi
sâu vào phân tích và làm rõ các vấn đề này.

B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Như đã nói ở trên hầu hết các nước trên thế giới NHTW là cơ quan độc quyền phát
hành tiền. Độc quyền phát hành tiền được hiểu là NHTW là cơ quan duy nhất được phép
phát hành tiền theo các quy định trong Luật hoặc được Chính phủ phê duyệt (mệnh giá tiền,
lọai tiền, mức phát hành…) nhằm đảm bảo thống nhất và an tòan cho hệ thống lưu thông
tiền tệ của Quốc gia. Giấy bạc và tiền kim loại là phương tiện thanh toán hợp pháp duy nhất
trong cả nước và được thanh toán không hạn chế. Đây là đồng tiền có quyền lực mạnh và là
cơ sở tạo tiền gửi của Ngân hàng trung gian do đó mà mọi họat động cung ứng tiền của
NHTW sẽ ảnh hưởng đến tổng phương tiện thanh tóan trong xã hội và ảnh hưởng đến tòan
bộ nền kinh tế. Vai trò độc quyền không chỉ đề cập đến quyền lực mà còn bao gồm cả trách
nhiệm của NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành và thời điểm phát hành
cũng như phương thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.
Hoạt động phát hành tiền tập trung vào NHTW vì các lí do sau:
+ Các Chính phủ các nước muốn kiểm soát sự biến động của lượng tiền trong lưu

thông trong phạm vi toàn quốc. Điều này cũng có thể thực hiện được nếu như Nhà nước là
người phát hành tiền, nhưng kinh nghiệm thực tế đã cho thấy rằng, khi Chính phủ phát hành
tiền thì việc kiểm soát và hạn chế khối lượng phát hành rất khó.

Hoạt động phát hành tiền

2


NHÓM 1

Luật ngân hàng

+ Lượng tiền trong lưu thông giờ đây bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi ở ngân hàng.
Sự mở rộng các hoạt động tín dụng sẽ làm tăng nhu cầu tiêu tiền mặt. Vì thế, khi nắm vai trò
độc quyền phát hành, NHTW có cơ hội để kiểm soát khả năng mở rộng tín dụng và do đó
điều chỉnh lượng tiền cần phát hành.
+ Giấy bạc do NHTW phát hành- một ngân hàng nhận được sư ưu đãi tối ưu từ
Chính phủ- sẽ có uy tín cao trong lưu thông.
+ Việc phát hành tiền mang lại lợi nhuận, vì thế tốt nhất nên được tập trung vào một
ngân hàng để tiện cho việc phân phối và sử dụng nguồn lợi đó một cách thích hợp.
Để làm rõ hơn chức năng Phát hành tiền của NHTW Nhóm sẽ đi vào phân tích cụ
thể đề tài “Hoạt động phát hành tiền của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.

I. Những vấn đề chung
Hệ thống Ngân Hàng của Việt Nam được chia thành 2 cấp: Ngân Hàng trung ương
(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) và Ngân hàng thương mại, hoạt động phát hành tiền do
NHNN thực hiện. Hoạt động này bao gồm 2 công đoạn: in tiền và cung cấp tiền cho nền
kinh tế. Trong đó, NHNN Việt Nam giữ vai trò quan trọng nhất với tư cách là cơ quan duy
nhất được Chính phủ giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện việc in tiền, chịu trách nhiệm quản lý

nhà nước nói chung với việc in, vận chuyển, phát hành tiền. Phối hợp với NHNN là Bộ
Công an chịu trách nhiệm bảo đảm An ninh và Bộ Tài chính chịu trách nhiệm kiểm tra, giám
sát chứng từ, sổ sách và việc hạch toán của NHNN. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2010 đã có những quy định về Thiết kế, in đúc, bảo quản, vận chuyển, tiêu hủy…tại Mục 2
từ Điều 16 đến Điều 23.
1.

In tiền

Trách nhiệm của NHNN trong hoạt động in tiền là ban hành các quy chế liên quan
đến in tiền (thiết kế mẫu, chế bản, tiêu chuẩn kĩ thuật, công nghệ, bảo mật, khóa mã an toàn
nguồn thiết bị, vật liệu phục vụ in đúc tiền), theo dõi quá trình in tiền và báo cáo kết quả in
tiền hàng năm cho Thủ tướng, Chính phủ, đồng gửi cho Bộ Tài chính, Bộ Công an để kết
hợp giám sát. Việc in tiền được tiến hành theo hợp đồng NHNN kí với nhà máy in tiền (Nhà

Hoạt động phát hành tiền

3


NHÓM 1

Luật ngân hàng

máy in tiền: Sau Quyết định số 1904/QĐ-NHNN ký ngày 11/8/2010 của NHNN đã đổi tên
thành Nhà máy In tiền Quốc gia (tên giao dịch quốc tế là National Banknote Printing plant),
là Công ty TNHH 1 thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu, có tư cách pháp nhân, có con
dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng theo quy định của pháp luật; tổ chức và hoạt
động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các quy định pháp luật có liên quan và Điều lệ
tổ chức và hoạt động do Thống đốc NHNN phê duyệt. Ngành nghề đăng kí kinh doanh là in

đúc tiền. Hiện trụ sở chính của Nhà máy đặt tại số 30, đường Phạm Văn Đồng, phường Dịch
Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội)
Theo quy định trong Thông tư số 23/2009/TT-NHNN của NHNN, chịu trách nhiệm
chính trong việc đề xuất, thực hiện kế hoạch in tiền là Cục Phát hành và Kho quỹ thuộc
Ngân hàng. Các nhà máy in tiền kí hợp đồng với NHNN có trách nhiệm thực hiện đúng hợp
đồng, xây dựng các quy trình công nghệ in tiền, kiểm tra kiểm soát sản phẩm, an ninh, quản
lý và sử dụng hệ thống máy tính, chế bản in. Ngoài ra còn có Vụ Kiểm toán nội bộ, Bộ Tài
chính là các cơ quan thực hiện chức năng giám sát hoạt động in tiền, kiểm tra chứng từ sổ
sách, việc hạch toán về số lượng và giá trị theo mệnh giá của các loại tiền đã được in hàng
năm.
Những hồ sơ, tài liệu liên quan tới việc in, đúc tiền như mẫu thiết kế, bản in gốc,
thông tin về các thông số kĩ thuật của tiền, quy trình công nghệ in đúc tiền, công thức pha
chế mực in tiền, tài liệu quy định kí hiệu các loại tiền, v.v. là hồ sơ bí mật của Nhà nước,
được bảo mật phù hợp với cấp độ mật theo quy định của pháp luật.
Quy trình in tiền gồm bước thứ nhất là thiết kế mẫu các loại tiền, sau đó là chế bản
in, và cuối cùng là hoạt động in tiền với số lượng lớn.
a.Thiết kế mẫu các loại tiền
Cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng đề án thiết kế mẫu tiền, xây dựng và triển khai
kế hoạch thiết kế mẫu theo đúng đề án là Cục Phát hành và Kho quỹ nghiên cứu. Nội dung
đề án bao gồm: cơ cấu mệnh giá, chất liệu, màu sắc, kích thước, trọng lượng, chủ đề, kỹ
thuật bảo an; công nghệ sản xuất, các yêu cầu kỹ thuật khác và thời gian dự kiến thực hiện
đề án. Đề án này sẽ được trình lên Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét, sau đó Thống

Hoạt động phát hành tiền

4


NHÓM 1


Luật ngân hàng

đốc sẽ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Sau khi được duyệt, Cục sẽ bắt đầu triển khai
kế hoạch thiết kế mẫu tiền: kế hoạch phải xác định cụ thể tiến độ thời gian, nội dung công
việc đối với từng mẫu tiền.
Mẫu các loại tiền được thiết kế phải đáp ứng những yêu cầu sau:
+Có tính thẩm mỹ và khả năng chống giả cao, phù hợp với bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam;
+Dễ nhận biết, thuận tiện trong sử dụng, bảo quản và phù hợp với việc xử lý tiền
bằng máy;
+Phù hợp với công nghệ, kỹ thuật và trang thiết bị của nhà máy in tiền; tăng cường
ứng dụng kỹ thuật tiên tiến trên thế giới về thiết kế mẫu, chế bản in để nâng cao chất lượng,
khả năng chống giả và độ bền của đồng tiền.
Yêu cầu về thiết kế của mẫu tiền nhìn chung ổn định, không có nhiều thay đổi. Nội
dung quy chế năm 2007 và thông tư năm 2009 về những tiêu chuẩn cho thiết kế về cơ bản là
tương tự nhau. Sau khi hoàn thành việc thiết kế mẫu tiền theo đề án đã được phê duyệt, Cục
Phát hành và Kho quỹ chuẩn bị hồ sơ trình Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trình Thủ tướng
Chính phủ duyệt mẫu thiết kế đồng tiền.
b. Chế bản in
Việc chế bản in gốc được thực hiện tại nhà máy in tiền trên cơ sở mẫu thiết kế chính
thức. Trong quá trình chế bản in gốc Cục Phát hành và Kho quỹ có trách nhiệm phối hợp
với nhà máy in tiền về mỹ thuật, kỹ thuật và công nghệ. Yêu cầu đối với bản in gốc là phải
thể hiện trung thực về hình thức, nội dung của mẫu thiết kế chính thức và đáp ứng yêu cầu
đề án thiết kế đã được phê duyệt. Số lượng bản in sản xuất phải phù hợp với số lượng tiền
cần in; con số này được quy định trong hợp đồng của nhà máy in tiền với Ngân hàng Nhà
nước (Cục Phát hành và Kho quỹ).
Trước khi cho chế bản in gốc chính thức, nhà máy in tiền phải thực hiện in thử
nhằm xác định mẫu in có chất lượng cao nhất. Việc này được thực hiện bằng cách in thử
đơn hình theo mẫu thiết kế chính thức; in thử đa hình trên tờ giấy in nguyên khổ theo mẫu in
chuẩn đơn hình.


Hoạt động phát hành tiền

5


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Mỗi mẫu tiền phải có một khóa an toàn. Khóa an toàn này và hình thức cài đặt khóa
an toàn do Cục trưởng Cục Phát hành và Kho quỹ quyết định, trực tiếp quản lý và báo cáo
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Thông tin về khóa an toàn được xếp vào danh mục tài liệu
mật của NHNN. Người cài đặt khóa an toàn này được Cục trưởng Cục Phát hành và Kho
quỹ chỉ định, phải chịu trách nhiệm bảo vệ bí mật về khóa an toàn theo quy định bảo vệ bí
mật Nhà nước.
Sau khi việc in thử đã hoàn thành, Nhà máy in tiền sẽ lập hồ sơ trình duyệt mẫu in
thử và nghiệm thu bản in gốc để Cục trưởng Cục Phát hành và Kho quỹ trình thẩm định và
đánh giá, sau đó trình lên Thông đốc NHNN để được phê duyệt.
c. In tiền
Dựa trên hồ sơ trình duyệt ở trên, Cục Phát hành và Kho quỹ chủ trì, phối hợp với
nhà máy in, đúc tiền xây dựng hồ sơ tiêu chuẩn kỹ thuật của từng mẫu tiền trình Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước phê duyệt. Sau khi được phê duyệt, ban hành, tiêu chuẩn kỹ thuật
đồng tiền là cơ sở pháp lý trong việc quản lý chất lượng tiền in, đúc.
Việc in tiền chính thức được thực hiện trên cơ sở hợp đồng in tiền được ký giữa
Ngân hàng Nhà nước (Cục Phát hành và Kho quỹ) và nhà máy in tiền, mẫu in chuẩn đa hình
cho tiền giấy cùng tiêu chuẩn kỹ thuật đồng tiền.
Trong quá trình sản xuất, nhà máy in tiền phải tuân thủ quy trình công nghệ in tiền
và quy trình kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm, đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn kỹ
thuật do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cục Phát hành và Kho quỹ có nhiệm vụ kiểm tra,

giám sát quá trình này; việc kiểm tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm, kiểm soát an ninh
trong các công đoạn sản xuất, bảo đảm chất lượng nguyên, vật liệu in tiền được đặc biệt chú
trọng. Cục cũng chịu trách nhiệm giám định lại chất lượng tiền trước khi nhà máy giao sản
phẩm cho NHNN. Những biến cố như sản phẩm không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc thừa,
thiếu về số lượng trong số sản phẩm do Nhà máy in đúc tiền chịu trách nhiệm.
2. Bảo quản và vận chuyển tiền
a. Bảo quản tiền

Hoạt động phát hành tiền

6


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Việc bảo quản tiền mới in, đúc có ý nghĩa rât quan trọng vì tiền sau khi đã được in,
đúc trở thành vật có giá trị, nếu bảo quản không an toàn, bị thất thoát thì tiền mới sẽ lọt ra
ngoài, như vậy sẽ rất nguy hiểm không khác gì in và lưu hành tiền giả. Việc bảo quản tiền
phải được đảm bảo tuyệt đối an toàn, bí mật. Kho tiền tại đơn vị phải được trang bị những
phương tiện, thiết bị bảo đảm an toàn, áp dụng các biện pháp cần thiế tnhằm chống mất mát,
nhầm lẫn, đề phòng trộm cướp, hỏa hoạn, ngập lụt, ẩm ướt, mối mọt và các nguyên nhân
khác nhằm đảm bảo chất lượng các loại tiền - tài sản.
Đối với tiền mới in mà các nhà máy chưa chuyển giao cho NHNN thì các nhà máy
in tiền chịu trách nhiệm bảo quản tại kho của nhà máy đó. Với tiền mới in (tiền thành phẩm)
đã được các nhà máy chuyển giao cho NHNN (tiền chưa công bố lưu hành), các loại tiền
mẫu, tiền lưu niệm, tiền đã đình chỉ lưu hành, tiền đang lưu hành (kể cả loại rách, không đủ
tiêu chuẩn lưu hành) đều thuộc trách nhiệm bảo quản của Ngân hàng. Đối với các loại tiền
thuộc tài sản của các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng (tiền mặt thuộc quỹ

nghiệp vụ) thì các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng chịu trách nhiệm bảo quản theo
chế độ quy định.
Kho tiền là nơi chưa các loại tiền (mới in, mới đúc, tiền nằm trong hệ thống phát
hành). Kho tiền của mỗi quốc gia bao gồm: kho tiền Trung ương (tổng kho) và kho tiền đặt
tại các chi nhánh tỉnh, thành phố (chi kho) và hệ thống kho trong các nhà máy in đúc tiền
các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng do các đơn vị đó trực tiếp quản lý. Các kho tiền
trung ương, các kho tiền tại các chi nhánh và kho tiền trong các nhà máy in tiền đều do Bộ
Công an chịu trách nhiệm và bảo vệ an toàn. Ủy ban Nhân dân các cấp tạo điều kiện thuận
lợi cho công tác bảo vệ kho tiền của hệ thống ngân hàng.
b. Vận chuyển tiền
Vận chuyển tiền là công tác chuyển dịch vị trí tồn tại của các loại tiền bằng những
phương tiện chuyên dùng theo những nguyên tắc nhất định.
NHNN chịu trách nhiệm tổ chức vận chuyển trong các trường hợp sau:
+ Vận chuyển tiền từ kho các nhà máy in tiền từ sân bay, bến cảng (nếu tiền in từ
nước ngoài) về đến các kho trung ương (tổng kho) và ngược lại.

Hoạt động phát hành tiền

7


NHÓM 1

Luật ngân hàng

+ Vận chuyển tiền giữa các kho tiền trung ương.
+ Vận chuyển tiền từ kho tiền trung ương đến các kho tiền chi nhánh NHNN tỉnh,
thành phố.
+ Vận chuyển tiền giữa các kho tiền chi nhánh.
Về nguyên tắc, việc vận chuyển phải đảm bảo:

+ Phải có lệnh điều chuyển của các cấp có thẩm quyền.
+ Phải vận chuyển bằng xe chuyên dùng hoặc phương tiện vận chuyển chuyên dùng.
+ Bố trí đủ nhân lực áp tải, bảo vệ trong các chuyến vận chuyển.
+ Giữ bí mật hành trình vận chuyển.
+ Việc vận chuyển phải được thực hiện bằng các phương tiện (đội xe) chuyên dùng
(có đủ tiêu chuẩn) theo đúng quyết định của NHNN.
Để ngăn chặn hành trình đánh cướp, đánh tráo hoặc bất kì hành vi nào làm thất
thoát, hư hỏng… tiền vận chuyển thì việc bảo vệ vận chuyển là công việc cực kì quan trọng.
Khi có yêu cầu của NHNN, Bộ Công an có trách nhiệm tổ chức lực lượng bảo vệ. Các
phương tiện vận chuyển tiền được cấp giấy phép ưu tiên, nghiêm cấm các trạm kiểm soát,
cac đội tuần tra cơ động khám xét dọc đường đối với phương tiện vận chuyển tiền. Ủy ban
Nhân dân có trách nhiệm phối hợp xử lý những sự cố xảy ra trong các chuyến vận chuyển
tiền xảy ra trên địa bàn.
3. Thu hồi, thay thế tiền
Để điều hòa lưu thông tiền mặt, NHNN Việt Nam vừa thực hiện phát hành vào lưu
thông vừa có nhiệm vụ thu hồi tiền từ lưu thông về thông qua dịch vụ ngân quỹ, thanh toán
và các nghiệp vụ khác của ngân hàng. Trong quá trình lưu thông, có nhiều đồng tiền có thể
bị hư hỏng, rách nát, trở thành đồng tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông và được thu hồi,
thay thế bằng một khối lượng tiền mới cho nền kinh tế.
Việc thu hồi, đổi tiền được quy định như sau:
+ Tiền rách nát, hư hỏng do quá trình lưu thông của các tổ chức, cá nhân được đổi
hoặc nộp vào tài khoản tại Sở giao dịch NHNN Việt Nam và các chi nhánh NHNN Việt

Hoạt động phát hành tiền

8


NHÓM 1


Luật ngân hàng

Nam, các tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước một cách thuận tiện, không hạn chế số lượng,
không phân biệt nơi cư trú, không cần một thủ tục giấy tờ nào và không phải nộp lệ phí.
+ Tiền rách nát, hu hỏng do bị cháy, mục, mối xông, chuột cắn thì người có tiền phải
làm đơn trình bày rõ lý do để NHNN Việt Nam, tổ chức tín dụng, kho bạc Nhà nước xét đổi
theo quy định của NHNN Việt Nam. Người có tiền được đổi phải nộp lệ phí và các phi theo
quy định.
Với tiền hư hỏng do viết, vẽ, cắt, xé hoặc làm biến dạng: Nếu xét thấy không do
hành vi hủy hoại thì được xét đổi tiền mới và phải nộp lệ phí theo quy định. Nếu xét thấy
nghi ngờ về đồng tiền rách, nát do hành hủy hoạt thì NHNN Việt Nam, tổ chức tín dụng,
kho bạc Nhà nước tạm thu giữ và phối hợp với các cơ quan chức năng để điều tra xử lý.
Bên cạnh việc thu hồi, thay thế tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông, khi có quyết
định của Thủ tướng Chính phủ về loại tiền đình chỉ lưu thông, NHNN cần phải thực hiện
việc thu hồi và thy thế tiền đình chỉ lưu hành, công bố rộng rãi trên các phương tiện thông
tin đại chúng về việc lưu hành đồng tiến mới trên các phương diện sau đây:
+ Thông báo về chủ trương của chính phủ thay thế một phần hay toàn bộ các loại
tiền đang lưu hành.
+ Thông báo về hình thức, thủ tục, thời gian phát hành các loại tiền, thời hạn thu hồi
các loại tiền đình chỉ lưu hành thống nhất trong cả nước và tỉ lệ đổi tiền mới (nếu có).
+ Thông báo về đặc điểm, mệnh giá, màu sắc, kích thước, trọng lượng của từng loại
tiền phát hành kèm theo mẫu tiền.
Tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông và tiền đình chỉ lưu hành khi thu hồi về sẽ được
quản lý tại quỹ dự trữ phát hành của NHNN. Số tiền này sẽ được tiêu hủy theo quy định.

4. Tiêu hủy tiền
Tiền được sử dụng trong lưu thông qua năm tháng sẽ bị rách nát, hao mòn, làm cho
việc giao dịch thanh toán gặp khó khăn, trở ngại. Những đồng tiền như vậy được thu hồi và
phải được tiêu hủy, Thống đốc NHNN chịu trách nhiệm ban hành quy chế tiêu hủy tiền và
thành lập bộ máy chuyên trách để tiêu hủy tiền. Bộ Tài chính là bên chủ trì, phối hợp với Bộ


Hoạt động phát hành tiền

9


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Công an và NHNN xây dựng quy chế giám sát đồng thời gửi cán bộ trực tiếp giám sát quá
trình tiêu hủy tiền và xác nhận kết quả tiêu hủy tiền của NHNN. Hàng năm, Bộ tài chính
thực hiện kiểm tra chứng từ, sổ sách hạch toán của NHNN về tiêu hủy tiền.
a. Tiêu hủy tiền
Các loại tiền được tiêu hủy gồm: tiền giấy, tiền kim loại không đủ tiêu chuẩn lưu
thông theo quy định của NHNN (tiền rách nát, bị phai mờ, bị méo mó, bị ô xi hóa,..), các
loại tiền đã bị đình chỉ lưu hành.
Việc tiêu hủy tiền được tiến hành hàng năm hoặc từng thời kì do thống đốc NHNN
quyết định tùy theo diễn biến của số lượng và giá trị của từng loại tiền phải tiêu hủy sao cho
hợp lý, nếu tiêu hủy tiền với số lượng nhỏ sẽ gây tốn kém chi phí không cần thiết, ngược lại
tiêu hủy với số lượng tiền tích lũy quá lớn sẽ gây trở ngại cho quá trình lưu thông. Tiền
không đủ tiêu chuẩn sẽ được tập hợp từ các NHTM, các tổ chức tín dụng và sẽ được thu đổi
tại kho tiền chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Các kho tiền chi nhánh sẽ chuyển về kho tiền
trung ương (tổng kho, là kho tiền NHTW I và II) để tiêu hủy tập trung theo cơ chế tiêu hủy
tiền được thống đốc NHNN quy định, dưới sự chỉ đạo và giám sát của hội đồng tiêu hủy.
Nguyên tắc tiêu hủy tiền là phải đảm bảo tuyệt đối tài sản và bí mật của Nhà nước,
tiền sau khi tiêu hủy sẽ không thể sử dụng trở lại, số tiền tiêu hủy thực tế phải đúng với lệnh
xuất tiền khi tổ chức lưu thông để tiêu hủy (trừ tiền đình chỉ lưu hành).
Hoạt động tiêu hủy tiền được tiến hành trực tiếp bở hội đồng tiêu hủy. Hội đồng tiêu
hủy tiền NHNN do Thống đốc NHNN quyết định thành lập theo đề nghị của Cục trưởng

Cục Nghiệp vụ phát hành và Kho quỹ, thành phần gồm: Chủ tịch là Phó Thống đốc NHNN,
Phó Chủ tịch Thường trực là Cục trưởng Cục Nghiệp vụ phát hành và Kho quỹ, 2 Phó chủ
tịch là Phó cục trưởng Cục Nghiệp vụ phát hành và Kho quỹ phụ trách kho tiền I & II, Phó
vụ trưởng Vụ Kế toán Tài chính. Ủy viên thư kí là Trưởng phòng Kế toán – Thống kê của
Cục Phát hành và Kho quỹ. Các ủy viên là Giám đốc kho tiền I, kho tiền II, Trưởng phòng
tiêu hủy.
Bộ phận trực tiếp thực hiện công tác tiêu hủy tiền gồm toàn bộ các bộ, nhân viên
thuộc phòng tiêu hủy của kho tiền I và II. Khi cần thiết, chủ tịch hội đồng tiêu hủy hoặc

Hoạt động phát hành tiền

10


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Thống đốc NHNN tuyển thêm lao động hợp đồng hoặc tuyển dụng 1 số cán bộ ở các vụ, các
đơn vị trực thuộc NHNN.
Tiêu hủy tiền có thể được tiến hành bằng nhiều cách, nhưng phải làm cho tiền được
tiêu hủy trở thành phế liệu và do đó không thể tiếp tục được sử dụng dưới bất kì hình thức
nào. Các phương pháp thường được sử dụng là đốt thành tro (trước đây thường làm nhưng
không thu hồi được phế liệu), cắt nhỏ, xé vụn, phân hủy bằng dung dịch hóa chất. Hai cách
sau được áp dụng vì thu hồi được phế liệu. Phế liệu được bán cho các nhà máy nguyên liệu
giấy và đây là khoản thu nghiệp vụ của NHNN.
b. Giám sát tiêu hủy tiền
Bên cạnh Hội đồng tiêu hủy, còn có Hội đồng giám sát tiêu hủy để đảm bảo cho việc
tiêu hủy tiền được thực hiện theo đúng các quy định của Nhà nước và đảm bảo an toàn về
tài sản trong quá trình tiêu hủy tiền, đồng thời thông qua giám sát sẽ kiến nghị với NHNN

hoàn thiện các quy định vê tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông và các quy chế tiêu hủy tiền
để đảm bảo tiêu hủy tiền an toàn và đúng quy định.
Hội đồng giám sát do Bộ trưởng Bộ Tài chính tổ chức ra quyết định thành lập sau
khi thống nhất với Bộ Công an và NHNN. Thành phần bao gồm: Chủ tịch Hội đồng là 1 thứ
trưởng Bộ Tài chính, các thành viên Hội đồng là các cán bộ cáp vụ, cục của Bộ Tài chính,
Bộ Công an và NHNN. Việc giám sát được thực hiện từ khâu giao nhận tiền để tiêu hủy cho
đến khi tiền được tiêu hủy thành phế phẩm để bán cho các nhà máy.
Bước đầu là giám sát khâu giao, nhận tiền, bao gồm:
+ Giám sát, kiểm tra tính hợp pháp của các lệnh xuât stieenf không dudr tiêu chuẩn
lưu thông và tiền đã đình chỉ lưu hành khi đem tiêu hủy.
+ Kiểm tra tính đúng đắn và cân đối giữa số lượng, cơ cấu tiêu hủy ghi trong quyết
định tiêu hủy của Thống đốc NHNN với số tiền thực tế được xuất ra từ quỹ dự trữ phat
shanhf tại kho tiền NHTW cho hội đồng tiêu hủy.
+ Giám sát việc xuất tiền tiêu hủy cho bộ phận làm công tác tiêu hủy, giám sát quá
trình giao nhận tiền, kiểm tra tính cân đối giữa số tiền nhập vào và số tiền xuất ra để tiêu
hủy.
Sau đó là giám sát khâu kiểm, đếm tiền.

Hoạt động phát hành tiền

11


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Giám sát việc nhận tiền hàng ngày từ kho của hội đồng tiêu hủy để kiếm đếm.
Giám sát việc chấp hành nội quy, quy trình kiểm đém, phân loại tiền không đủ tiêu
chuẩn lưu thông.

Giám sát việc giao nhận tiền đã được kiểm đém cho bộ phận tiêu hủy và việc chuyển
giao gửi lại kho của hội đồng tiêu hủy trong trường hợp trong ngày không tiêu hủy hết số
tiền đã nhận từ kho.
Trong quá trình giám sát, nếu thấy cần thiết, cán bộ trực tiếp giám sát có quyền yêu
cầu kiểm tra đếm lại. Nếu kết quả kiểm đếm thừa, thiếu, lẫn loại…thì phải lập biên bản và
đề nghị NHNN xử lý sau khi kết thúc đợt tiêu hủy.
Cuối cùng là giám sát khâu tiêu hủy tại máy cắt tiền, đảm bảo tiền được cắt thành
những mảnh nhỏ theo đúng quy định để không thể lợi dụng chắp nối, dán các mảnh đã cắt
thành tờ bạc để tiếp tục lưu thông. Sau đó, Hội đồng kiểm tra công tác kế toán tiêu hủy tiền,
kiểm tra, theo dõi việc ghi chép số liệu tiêu hủy của hội đồng tiêu hủy, sự chính xác cân đối
giữa số liệu trên sổ kế toán và số liệu tiêu hủy trên thực tế.
Chi phí in, đúc, bảo quản, vận chuyển và tiêu hủy tiền
Các chi phí in đúc tiền mới chưa công bố lưu hành, thay thế cơ cấu tiền trong lưu
thông được hạch toán riêng theo dự án “in đúc tiền mới” được Chính phủ phê duyệt. Thống
đóc NHNN thực hiện việc quản lý kiểm tra theo chế độ bảo mật, chịu trách nhiệm và báo
cáo Thủ tướng (đồng gửi Bộ Tài chính) về nội dung và tính chất các khoản phí. Bộ Tài chính
giúp Chính phủ kiểm tra các chi phi liên quan.
Chi phí in đúc tiền mới là những chi phí rất lớn, được quản lý chặt chẽ để tránh thất
thoát, lãng phí cho ngân sách nhà nước, đồng thời ngăn chặn các hiện tượng móc ngoặc,
tham ô. Các chi phí phát sinh hường xuyên hàng năm có liên quan đến in đúc, bảo quản, vận
chuyển tiêu hủy tiền được thực hiện quản lý theo chế độ tài chính của NHNN.

II/ Phát hành tiền
Phát hành tiền là đưa tiền in sẵn từ trong kho vào lưu thông để đáp ứng các nhu cầu
tiền mặt của nền kinh tế - xã hội. Để việc phát hành tiền được thực hiện 1 cách kịp thời, đáp

Hoạt động phát hành tiền

12



NHÓM 1

Luật ngân hàng

ứng nhu cầu và điều hòa lưu thông tiền mặt trên lãnh thổ Việt Nam, NHNN thực hiện việc
lập quỹ phát hành gồm quỹ dự trữ phát hành và quỹ nghiệp vụ phát hành.
Quỹ dự trữ phát hành là nơi dự trữ các loại tiền (tiền mới in, đúc nhập từ các nhà
máy in, đúc tiền; tiền nhập từ Quỹ dự trữ phát hành tại các kho tiền Chi nhánh; tiền nhập từ
Quỹ nghiệp vụ phát hành tại kho tiền Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước) đặt tại các kho tiền
trung ương và kho tiền chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quỹ dự trữ
phát hành tại các kho tiền trung ương được nhập tiền mới sản xuât từ nhà máy in tiền, đồng
thời thực hiện việc xuất tiền, nhập tiền với quỹ dự trữ phát hành tại kho tiền trung ương
khác, kho tiền chi nhánh, quỹ nghiệp vụ phát hành tại Sở giao dịch NHNN và các kho tiền
chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Quỹ dự trữ phát hành tại kho tiền chi nhánh NHNN được
xuất tiền, nhập tiền trực tiếp với quỹ nghiệp vụ phát hành do chi nhánh đó quản lý, đồng
thời xuất nhập tiền với quỹ dự trữ phát hành tại kho tiền trung ương và kho tiền các chi
nhánh NHNN khác. Về mặt danh nghĩa, quỹ dự trữ phát hành chưa nằm trong cân đối tài
sản, là tiền nằm ngoài lưu thông. Việc xuất quỹ dự trữ phát hành được kiểm soát nghiêm
ngặt.
Quỹ nghiệp vụ phát hành là quỹ tiền mặt để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tiền mặt của
nền kinh tế thông qua hệ thống ngân hàng trung gian và hệ thống kho bạc nhà nước. Tiền có
trong quỹ nghiệp vụ phát hành gồm tiền nhập từ Quỹ dự trữ phát hành và tiền thu hồi từ lưu
thông, kể cả tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông, tiền đình chỉ lưu hành. Việc xuất quỹ
nghiệp vụ phát hành sẽ làm gia tăng trực tiếp lượng tiền mặt cung ứng cho nền kinh tế. Quỹ
nghiệp vụ phát hành được quản lý và bảo quản tại Sở giao dịch NHNN và tại các chi nhánh
NHNN tỉnh, thành phố và được định mức tồn quỹ. Nếu tồn quỹ thực tế thấp hơn định mức,
tiền từ quỹ dự trữ phát hành sẽ được xuất ra để nhập vào quỹ nghiệp vụ phát hành. Trường
hợp ngược lại, tồn quỹ nghiệp vụ phát hành lớn hơn định mức thì sẽ nhập tiền vào quỹ dự
trữ phát hành số chênh lệch thừa.

Có thể tóm tắt hoạt động này bằng sơ đồ sau:

Hoạt động phát hành tiền

Quỹ dự trữ phát hành
trung ương

13


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Quỹ dự trữ phát hành chi
nhánh (chi kho)

Quỹ nghiệp vụ phát hành
(quỹ nghiệp vụ)

Quỹ tiền mặt của hệ thống
Ngân hàng thương mại, tổ
chức tín dụng và kho bạc
nhà nước

Tiền mặt đang lưu hành

Một trong những điều kiện để thực hiện tốt nghiệp vụ phát hành là thực hiện tốt việc
điều hòa tiền mặt. Thông qua nghiệp vụ điều hòa tiền mặt, tiền được đưa từ nơi thừa sang
nơi thiếu trong toàn hệ thống, khắc phục được tình trạng mất cân đối cục bộ, đáp ứng nhu

cầu thanh toán cho nền kinh tế.
Để thực hiện việc điều hòa tiền mặt cho hệ thống, NHNN phải dựa trên cơ sở tình
hình tiền mặt của các chi nhánh và kho tiền trong hệ thống: thông tin về số dư tồn quỹ tiền
mặt, cơ cấu các loại tiền, chi tiết các loại tiền, tình hình thu tiền mặt, định mức ngân quỹ dự
trữ phát hành, định mức tồn quỹ nghiệp vụ phát hành. Các định mức này do Thống đốc
NHNN quy định trên cơ sở đề nghị của Vụ trưởng Vụ nghiệp vụ phát hành và kho quỹ. Việc
xây dựng định mức được căn cứ vào tình hình chu chuyển tiền mặt của cá chi nhánh, khả
năng chứa và độ an toàn của các kho tiền tại Sở giao dịch và các chi nhánh NHNN.

Hoạt động phát hành tiền

14


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Sau khi biết được tình hình số liệu tồn quỹ tiền mặt của từng chi nhánh và dự kiến
nhu cầu thời gian tới, NHNN tổ chức điều hòa tiền từ kho tiền NHTW hoặc từ chi nhánh
NHNN có số dư tiền mặt cao, chưa có nhu cầu sử dụng đến chi nhánh có sơ dư tiền mặt thấp
và dự kiến có nhu cầu sử dụng. Cụ thể:
Tại NHNN: định kì 1-2 ngày hoặc đột xuất, Cục nghiệp vụ phát hành và Kho quỹ
tiến hành nắm tình hình tiền mặt tại các chi nhánh và kho tiền trung ương. Đối chiếu với số
liệu tồn quỹ dự trữ phát hành thực tế với định mức đã được Thống đốc phê duyệt, nếu thiếu
thì Vụ trưởng Vụ Nghiệp vụ phát hành và Kho quỹ sẽ kí lệnh điều chuyển tiền để bù đắp sự
thiếu hụt đó. Khi có lệnh điều chuyển, các kho tiền trung ương thực hiện thủ tục xuất kho
tiền để điều chuyển cho các chi nhánh NHNN được tiếp quỹ.
Tại các chi nhánh NHNN: trên cơ sở định mức tồn quỹ nghiệp vụ phát hành đã được
Thống đốc phê duyệt và tồn quỹ thực tế tại chi nhánh, hàng ngày trưởng phòng tiền tệ các

chi nhánh lập trờ trình trình Giám đốc NHNN phê duyệt mức xuất quỹ dự trữ phát hành,
nhập quỹ nghiệp vụ phát hành để đảm bảo đúng định mức để đáp ứng cho nhu cầu tiền mặt
của các tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nướ
Sơ đồ tổ chức phát hành và điều hòa tiền mặt trong hệ thống NHNN Việt Nam

Nhà máy in tiền
quốc gia

(1)
Kho tiền TWII
(Quỹ dự trữ phát
hành)

(2a)

Kho tiền TWI
(Quỹ dự trữ phát
hành)

(5d)

(3a)

(5c)

(3b)
(5a)

Các chi nhánh
NHNN phía

Nam:
Quỹ dự trữ phát
nh. phát hành tiền
Hoạthàđộng
Quỹ nghiệp vụ
phát hành.

Kho tiền TWIII
(Quỹ dự trữ phát
hành)

(2b)

Các chi nhánh
NHNN phía
Bắc:
Quỹ dự trữ phát
hành.
Quỹ nghiệp vụ
phát hành.

(3c)
(5b)
Các chi nhánh
NHNN miền
Trung và Tây
Nguyên:
Quỹ dự trữ phát 15
hành. Quỹ
nghiệp vụ phát

hành.


NHÓM 1

Luật ngân hàng

(4)

(4)

(4)

(4)

Các tổ chức tín dụng và kho bạc Nhà nước.

Chú thích:
(1) Tiền được in, đúc tại nhà máy in tiền quốc gia nhập về quỹ dự trữ phát hành vào
kho tiền NHTW I tại Hà Nội.
(2a), (2b) tiền được chuyển từ quỹ dự trữ phát hành kho tiền TWI đến nhập quỹ dự
trữ phát hành kho tiền TWII (TP. Hồ Chí Minh) và kho tiền TWIII (Quy Nhơn).
(3a) tiền được chuyển từ kho tiền TWII đến nhập quỹ dự trữ phát hành kho tiền các
hi nhánh NHNN phía Nam.
(3b) tiền được chuyển từ kho tiền TWI đến nhập quỹ dự trữ phát hành kho tiền các
chi nhánh NHNN phía Bắc.
(3c) tiền được chuyển từ kho tiền NHTW III đến nhập quỹ dự trữ phát hành kho tiền
các chi nhánh NHNN miền Trung và Tây Nguyên,
Tại các kho tiền chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, tiền được chuyển từ quỹ dự trữ
phát hành sang quỹ nghiệp vụ phát hành.

(4) tiền từ quỹ nghiệp vụ phát hành sẽ được cấp đến các tổ chức tín dụng và kho bạc.
(5a) (5b) (5c) (5d) tùy tình hình cụ thể (trong những trường hợp đặc biệt cần thiết)
tiền có thể sẽ được điều chuyển trực tiếp đến nơi này hay nơi khác theo lệnh chuyển tiền của
NHNN.

III/ Nguyên tắc phát hành tiền

Hoạt động phát hành tiền

16


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Hoạt động phát hành tiền có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế do đó việc phát hành
phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
1. Nguyên tắc trữ kim
Nguyên tắc này được áp dụng trong thời kì lưu thông tiền vàng (thời kì bản vị vàng).
Việc phát hành tiền giấy ràng buộc chặt chẽ bởi quý kim. Việc tăng hay giảm số lượng tiền
giấy tuỳ thuộc vào số lượng quý kim dự trữ của ngân hàng. Việc phát hành tiền giấy chỉ
được thực hiện khi nào có một lượng quý kim được nhập vào kho. Tuy nhiên có thể chấp
nhận một lượng nhất định vượt mức của khối tiền phát hành đối đối với số quý kim dự trữ,
phần vượt đó phải thật thấp và cố định.Việc đảm bảo bằng vàng có thể được thực hiện bằng
một trong các hình thức sau:
+ Nhà nước quy định một hạn mức phát hành giấy bạc ngân hàng: nếu khối lượng
giấy bạc ngân hàng nằm trong hạn mức thì không cần phải có kim loại quí (vàng) làm đảm
bảo, nhưng nếu vượt quá hạn mức đó thì đòi hỏi cần phải có 100% vàng làm đảm bảo.
+ Nhà nước quy định mức dự trữ vàng tối thiểu cho khối lượng giấy bạc phát hành,

phần còn lại phải được đảm bảo bằng các chứng từ có giá như thương phiếu, chứng khoán
chính phủ và các tài sản Có khác của NHNN.
Phát hành tiền có đảm bảo bằng vàng được quy định cụ thể cho từng thời gian tùy
thuộc vào mục tiêu ổn định tiền tệ và khả năng dự trữ vàng.
Ưu điểm: một mặt khống chế mức phát hành giấy bạc tăng giảm theo khối lượng dự
trữ kim loại hiện có, tránh sự lạm dụng quyền phát hành tiền để phát hành một lượng tiền
vào lưu thông vượt quá nhu cầu của nền kinh tế, dễ gây ra lạm phát. Mặt khác, dự trữ vàng
làm đảm bảo còn làm cơ sở cho việc chuyển đổi giấy bạc ngân hàng ra vàng; thông qua
chuyển đổi mà điều tiết lượng giấy bạc trong lưu thông phù hợp với giá trị mà nó thay thế,
đảm bảo giá trị danh nghĩa (mệnh giá) của giấy bạc phù hợp với giá trị thực tế (vàng) mà nó
đại diện
Nhược điểm: là sự thiếu linh hoạt của khối lượng tiền phát hành và phần nào tách
rời khối lượng tiền phát hành khỏi nhu cầu lưu thông hàng hóa, đặt sự ổn định của lưu thông
giấy bạc ngân hàng phụ thuộc vào dự trữ vàng. Nếu khối lượng hàng hóa lưu thông tăng khi

Hoạt động phát hành tiền

17


NHÓM 1

Luật ngân hàng

số lượng vàng dự trữ có hạn sẽ ảnh hưởng đến lưu thông tiền tệ. Hiện nay việc phát hành
tiền tại NHNN không áp dụng nguyên tắc này.
Như vậy trong thời kì vàng còn đóng vai trò là tiền tệ thì cơ sở đảm bảo cho phát
hành tiền của NHNN là một trọng lượng vàng dự trữ làm căn cứ cho việc phát hành tiền và
khả năng dự trữ điều tiết của tiền vàng đã dự trữ cho tiền tệ được ổn định.
2. Nguyên tắc hàng hóa

Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa khối lượng hàng hóa sản xuất ngày
càng gia tăng, đòi hỏi phải đưa nhiều tiền vào lưu thông để đáp ứng cho nhu cầu trao đổi
hàng hóa và dịch vụ, mặt khác để đáp ứng cho nhu cầu chi tiêu chính phủ ngày càng tăng,
nguyên tắc phát hành tiền dựa vào dự trữ kim loại quí gần như chấm dứt. Thay vào đó phát
hành tiền được đảm bảo bằng hàng hóa. Quá trình lưu thông tiền tệ đã làm xuất hiện nhận
thức mới về tiền, thế giới đã phải tiền tệ hóa vai trò của vàng, các loại tiền dấu hiệu ra đời
thay thế cho tiền vàng trong lưu thông.
Theo nguyên tắc này giấy bạc ngân hàng được phát hành không còn bị cột chặt vào
dự trữ vàng hay bất kì một loại hàng hoá cố định nào khác mà hoàn toàn dựa vào nhu cầu
của nền kinh tế. NHNN chỉ phát hành phát hành thêm tiền vào lưu thông khi có sản phẩm
hàng hoá, dịch vụ tăng thêm trong nền kinh tế. Ngược lại nếu số lượng sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ tạo ra ít hơn trước thì NHNN phải rút bớt tiền về. Như vậy, theo cơ chế phát hành
này NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt khối lượng tiền phát hành phù hợp với sự biến động
của nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế trong từng thời kỳ và đảm bảo lưu thông tiền tệ ổn định.
Tuy nhiên, nếu dựa trên cớ chế phát hành này, nếu NHNN không căn cứ vào tình hình kinh
tế hay nhu cầu tiền tệ trên thị trường, phát hành ra một lượng tiền lớn hơn số lượng hàng
hóa dịch vụ trong nền kinh tế, gây mất cân bằng về tỷ lệ giữa hàng và tiền, sẽ rất dễ dàng
gây ra lạm phát.
Ngày nay, hầu hết NHNN các quốc gia đều thực hiện phát hành tiền theo nguyên tắc
này. Việt Nam áp dụng theo nguyên tắc Hàng hóa.Lượng tiền cung ứng bổ sung cho lưu
thông hàng năm ở VN được chính phủ phê duyệt chủ yếu căn cứ vào tốc độ tăng tăng
trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát dự kiến, tốc độ chu chuyển tiền tệ, tiền mặt tồn quỹ và nghiệp
vụ thanh toán…

Hoạt động phát hành tiền

18


NHÓM 1


Luật ngân hàng

IV. Các kênh phát hành tiền
NHNN có bốn đối tượng giao dịch chính, đó là Chính phủ, các Ngân hàng thương
mại, Thị trường mở và Thị trường ngoại hối, và NHNN thực hiện phát hành tiền qua 4 kênh
chính:
1. Phát hành qua kênh ngân sách nhà nước
Nếu đối với đất nước và cộng đồng, chính phủ là định chế quản lý hành chính và
bảo vệ sự toàn vẹn của cộng đồng, thì trong nền kinh tế Chính phủ là một đơn vị kinh tế có
thu và có chi bình thường như các đơn vị kinh tế khác. Quản thủ việc thu chi của Chính phủ
là Bộ tài chính. Giữ tiền cho Chính phủ là Kho bạc nhà nước. Một cách đơn giản, Bộ tài
chính và Kho bạc giống như Kế toán trưởng và Thủ quỹ của một đơn vị kinh doanh là
Chính phủ. Để bù đắp thâm hụt ngân sách Nhà nước, Chính phủ có thể thực hiện biện pháp
vay nợ hoặc phát hành thêm tiền để chi tiêu. NHNN vay ngắn hạn để xử lý thiếu hụt tạm
thời quỹ Ngân sách Nhà nước.
Tình trạng thu chi của Chính phủ được thể hiện qua cái gọi là Ngân sách nhà nước.
Ngân sách phải cân đối giữa tổng thu tài chính và tổng chi tài chính nhưng trong thực tế
Ngân sách nhà nước thường rơi vào một trong 3 trạng thái: ngân sách bội thu nếu tổng thu
lớn hơn tổng chi. Ngân sách thăng bằng nếu tổng thu bằng tổng chi. Khi ngân sách bội thu
hoặc thăng bằng thì hoạt động của ngân sách không ảnh hưởng đến hoạt động của NHNN.
Nhưng khi ngân sách bội chi tức là khi tổng thu nhỏ hơn tổng chi thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động của chính sách tiền tệ. Bởi lẽ chính phủ với tư cách là chủ thể kinh tế như mọi chủ thể
kinh tế khác khi thiếu tiền chi tiêu sẽ phải đi vay tiền để bù đắp thiếu hụt, chính phủ sẽ xử lí
bằng cách:
+ Vay của công chúng thông qua việc phát hành trái phiếu chính phủ dưới các hình
thức: tính phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, công trái nhà nước. Với cách này sẽ không ảnh
hưởng đến mức cung ứng tiền của NHNN. Bởi vì khi chính phủ phát hành các công cụ nợ,
công chúng bỏ tiền ra mua các công cụ đó tức là đã cho chính phủ vay. Chính phủ dùng
chính số tiền ấy để chi tiêu và tiền lại ra thị trường. Lượng tiền mặt ở ngoài lưu thông hầu


Hoạt động phát hành tiền

19


NHÓM 1

Luật ngân hàng

như vẫn không đổi. Khi đến kì hạn, chính phủ thu được thuế, có tiền để trả lại cho công
chúng, Kho bạc lại thu các công cụ nợ về. Như vậy, NHNN thực chất không phải phát hành
thêm tiền.
+ Vay của nước ngoài: Lượng tiền vay được thông thường dưới hình thức hàng hóa,
vàng hoặc ngoại tệ các loại. Những loại tài sản này khi đem về nước thường phải kí quĩ ở
NHTW để chuyển đổi thành tiền mặt, có nghĩa là NHNN sẽ phải phát hành thêm tiền dưới
dạng cho Chính phủ vay.
+ Vay của NHNN: Khi Chính phủ vay của NHNN, lượng tiền mặt trong lưu thông
sẽ tăng lên thông qua chi tiêu của Chính phủ. Để NHNN luôn đảm bảo được nguyên lý phát
hành tiền có tài sản ký quỹ, Chính phủ muốn vay cũng phải đem tài sản đến thế chấp mới
được vay y hệt như các đối tượng xin vay khác (NHTG, tổ chức nước ngoài,…)
Vay của NHNN và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng nhanh khối tiền
tệ, gây áp lực lạm phát tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của các Ngân hàng thương mại
trong nước, nguy cơ làm tăng khối tiền tệ nhẹ hơn. Áp lực lạm phát ở các nước đang phát
triển mạnh hơn so với các nước có thu nhập cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện
pháp vay NHNN bằng cách phát hành tiền trực tiếp và nợ nước ngoài. Hành vi cung ứng
tiền cho Ngân sách Nhà nước chi tiêu (dù có đảm bảo) sẽ làm yếu năng lực kiểm soát tiền tệ
của NHTW và chứa đựng nguy cơ lạm phát tiềm năng. Vì thế kênh phát hành này ngày càng
ít được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới.
2. Phát hành tiền qua kênh ngân hàng thương mại

Căn cứ vào nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, và lượng tiền cung ứng thêm trong
năm kế hoạch, dựa vào mục tiêu của chính sách tiền tệ và nhu cầu vay vốn của các tổ chức
tín dụng, NHNN phát hành tiền bằng cách cho các tổ chức tín dụng vay ngắn hạng dưới
hình thức tái cấp vốn như:
- Cho vay đảm bảo bằng các chứng từ có giá
- Chiết khấu, tái chiết khấu các chứng từ có giá…
Tái cấp vốn là cách để NHNN đưa tiền ra lưu thông, đồng thời khống chế về số
lượng và chất lượng tín dụng của các NHTG, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được

Hoạt động phát hành tiền

20


NHÓM 1

Luật ngân hàng

không chế để kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Tái cấp vốn được coi
là hình thức phát triển lành mạnh, vì nó dựa trên thương phiếu là một loại giấy tờ có giá
tượng trưng cho những món nợ về thương mại và đằng sau nó có vật tư hàng hóa. Qua việc
cấp tín dụng NHNN đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy toàn bộ hệ thống NHTG tạo ra tiền, cũng
như khai thông được năng lực thanh toán cho họ bởi vì không phải lúc nào hoạt động của
các NHTG cũng diễn ra trôi chảy thuận lợi, cũng có lúc, nhu cầu rút tiền lớn, NH trung gian
lâm vào tình trạng thiếu vốn. Đối với các NHTG, với tư cách là người “đi vay vốn để cho
vay”, khi vốn khả dụng bị đe dọa, NHNN là chỗ dựa, là cứu tinh của họ, vì họ có khả năng
điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng sẵn sàng thanh toán bằng tiền trung ương
vừa được cung ứng.
NHNN điều tiết hoạt động cho vay của các NHTG thông qua lãi suất tín dụng.
Thông thường lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều: khi lãi suất tiền gửi được

nâng lên thì lãi suất cho vay cũng được nâng lên và ngược lại, làm sao dung hòa được 2 yêu
cầu: nâng lãi suất huy động để thu hút được nguồn vốn và kìm chế lạm phát. Hạ lãi suất tiền
gửi để hạ lãi suất cho vay, nâng đỡ sản xuất. Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, NHNN
tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gửi và tiền vay của NHTG bằng lãi suất tái chiết khấu của
mình, nhằm điều tiết cung cầu tín dụng. Để bành trướng hay thu hẹp khối tiền tệ, NHNN áp
dụng một lãi suất tái chiết khấu khích lệ hay làm nản lòng các NHTG trong việc đi vay vốn
NHNN, khi cần mở rộng tín dụng, NHNN hạ thấp lãi suất tái chiết khấu, làm “rẻ” tín dụng
để kích thích đầu tư. Ngược lại khi cần thắt chặt tín dụng, NHTW sẽ nâng lãi suất tái chiết
khấu lên, làm “đắt” tín dụng để hạn chế đầu tư.
Tóm lại khi NHNN cho các tổ chức tín dụng vay sẽ đẫn đến tăng tiền nghĩa là một
khối lượng tiền được đưa vào lưu thông và khoảng tín dụng mà các NHTM nhận được đã
trở thành nguồn vốn nhằm mở rộng cho hoạt động đầu tư, cho vay đối với nền kinh tế.
3. Phát hành tiền qua kênh nghiệp vụ thị trường mở (open market)
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá do
NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ thông qua hoạt động mua bán các giấy tờ có giá,

Hoạt động phát hành tiền

21


NHÓM 1

Luật ngân hàng

NHNN tác động trực tiếp đến dữ trữ của hệ thống các tổ chức tín dụng đến lượng tiền cơ
bản và tác động gián tiếp đến lượng tiền cung ứng.
Thị trường mở là một trong các cửa ngõ để NHNN phát hành tiền vào guồng máy
kinh tế, hoặc rút bớt khối tiền tệ lưu thông trong đó bằng cách mua hay bán các loại giấy tờ
có giá ngắn hạn thông qua các nghiệp vụ của thị trường mở, tức là thông qua thị trường tiền

tệ do NHNN tổ chức và chi phối.
Thị trường mở là một kênh phát hành tiền hiệu quả và linh hoạt của NHNN. Thông
qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN có thể điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các tổ chức
tín dụng. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chủ yếu của các Ngân hàng Trung ương ở các
nước trên thế giới sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, NHNN mua các chứng từ có giá trên thị trường
tiền tệ như: tín phiếu kho bạc, chứng từ có giá ngắn hạn khác. Khi NHNN thực hiện nghiệp
vụ mua là NHNN đã đưa một lượng tiền vào lưu thông, các chứng từ có giá được NHNN
nắm giữ trở thành tài sản Có của NHNN, tương ứng với nó là sự tăng lên một lượng tiền dự
trữ của các NHTM hoặc lượng tiền mặt, làm tăng khối tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy
đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, bằng cách bán các loại tín phiếu có giá ngắn hạn
NHNN có thể thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
Phát hành tiền bằng việc mua các chứng khoán có giá ngắn hạn trên thị trường mở cũng
được xem là một nghiệp vụ phát hành có đảm bảo, bởi lẽ tiền tăng thêm trong lưu thông đã
được cân đối bởi một lượng chứng khoán.
Nếu không có sự tham gia mua bán của NHNN trên thị trường tiền tệ mà chỉ có việc
mua bán tín phiếu giữa các NHTG với nhau, thì khối tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi.
Bởi vì một NHTM này bán tín phiếu cho các NHTM khác, thì trong toàn cục chỉ là sự
chuyển dịch trái phiếu và sự di chuyển ngược lại của một phần dự trữ đang thừa từ NHTM
này qua NHTM khác đang thiếu mà thôi.
Phat hành tiền bằng nghiệp vụ mua trên thị trường mở cũng được xem là một nghiệp
vụ phát hành thanh khiết bởi vì tiền tăng thêm trong lưu thông đã được cân đối bởi lượng
chứng khoán, một dạng của hàng hóa, sản vật tăng thêm trong tài sản có của NHNN. Đây là

Hoạt động phát hành tiền

22


NHÓM 1


Luật ngân hàng

kênh phát hành hiện nay đang được sử dụng phổ biến ở các nước có thị trường tiền tệ phát
triển vì có hiệu quả hơn rất nhiều so với các kênh khác.
4. Phát hành tiền qua kênh thị trường ngoại hối
Mỗi quốc gia trên thế giới đều có dự trữ vàng và ngoại tệ nhất định. Dự trữ chính
thức nằm trong Kho bạc của Chính phủ dưới dạng dự trữ quốc gia. Dự trữ này không phải
để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi của công chúng cũng không phải để bảo đảm giá trị tiền tệ
phát hành, mà chúng nhằm thực hiện công dụng chính, đó là một công cụ để NHNN can
thiệp vào thị trường vàng và ngoại tê.
Bên cạnh dự trữ chính thức là dự trữ không chính thức, dự trữ không chính thức
nằm rải rác ở các NHTG, các tổ chức kinh tế và trong tay của nhân dân,…Dự trữ không
chính thức hình thành một thị trường mua bán diễn biến rất sôi động, giá cả trên thị trường
này hết sức nhạy bén và có ảnh hưởng sâu sắc đến giá cả thị trường hàng hóa cũng như họat
động chung của toàn bộ nền kinh tế. Chính vì thế, NHNN với tư cách là định chế tài chính
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước phải can thiệp vào thị trường này khi cần thiết, thực
hiên các nghiệp vụ mua hoặc bán trên thị trường này bằng việc tung ra một lượng tiền mặt
nhất định vào thị trường để mua ngoại tệ và vàng, hoạt động này một mặt làm tăng dự trữ
quốc gia, mặt khác làm gia tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế, và đây chính là
phương thức phát hành tiền qua kênh thị trường ngoại hối.
Thông qua hoạt động mua bán trên thị trường ngoại hối, NHNN cũng tác động trực
tiếp đến cơ số tiền và tác động gián tiếp đến lượng tiền cung ứng.
Hoạt động phát hành tiền và lưu thông qua thị trường ngoại hối bị giới hạn bởi
lượng dự trữ của Nhà nước, mặt khác việc can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại hối sẽ
có tác động đến tỷ giá, đến hoạt đông xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế. Do đó, hàng
năm NHNN phải căn cứ vào tình trạng của cán cân thanh toán ngoại tệ, nhu cầu ngoại tệ của
các tổ chức tín dụng và chính sách quản lý ngoại hối để xác định lượng tiền cơ bản thông
qua kênh này.


Hoạt động phát hành tiền

23


NHÓM 1

Luật ngân hàng

Phát hành tiền thông qua kênh thị trường ngoại hối không chỉ có ý nghĩa tăng tiền
mà còn giúp NHNN thực hiện chính sách tỷ giá và sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối có hiệu quả
hơn.
Như vậy tùy theo từng điều kiện nhất định mà NHNN sử dụng các kênh phát hành
tiền cho phù hợp. Mặc dù tiền được phát hành theo kênh nào thì cũng nhằm thưc hiện các
mục tiêu chính sách tiền tệ.

V. Tác động của hoạt động phát hành tiền đến nền kinh tế
Một trong những chức năng cơ bản của NHNN là phát hành tiền.Về nguyên tắc, việc
phát hành tiền trong lưu thông được thực hiện thông qua nghiệp vụ cung ứng tiền trung
ương cho nền kinh tế, bản chất của việc phát hành tiền là đưa vào lưu thông giấy bạc ngân
hàng mang nội dung tiền tín dụng, tính chất tín dụng của giấy bạc Ngân hàng thể hiện tập
trung ở nghiệp vụ tái cấp vốn dưới hình thức chủ yếu là tái chiết khấu thương phiếu hoặc
các khỏan tín dụng ngắn hạn của các NHTM cho các khách hàng của mình. Lượng tiền mà
NHNN phát hành ra lưu thông tùy vào số lượng ít hay nhiều mà có ảnh hưởng tích cực hay
tiêu cực đối với nền kinh tế. Khi NHNN xác định đúng lượng tiền cần thiết phát hành vào
trong lưu thông sẽ làm kích thích tiêu dùng, đầu tư và sản xuất.
Thông qua kênh ngân sách Nhà nước, một lượng tìền mới phát hành sẽ được đưa
vào lưu thông qua con đường chi tiêu của Chính phủ, góp phần giải quyết tình hình bội chi
của Chính phủ, tuy nhiên nếu lạm dụng cách phát hành này và nếu ngân sách Nhà nước cứ
tiếp tục bội chi và NHTW cứ tiếp tục phát hành tiền cho Chính phủ vay sẽ dẫn đến nguy cơ

lạm phát tiềm tàng về sau. Từ năm 1992, NHNN Việt Nam đã không phát hành tiền để bù
dắp thâm hụt ngân sách, tuy nhiên theo luật NHNN thì NHNN sẽ tạm ứng cho ngân sách để
xử lý thiếu hụt tạm thời của ngân sách (hay nói cách khác là cho NN vay tiền). Như vậy để
xử lý bội chi Nhà nước có thể vay từ NHNN. Kết quả của việc NHNN cho nhà nước vay
tiền để bù dắp bội chi sẽ làm cho lượng tiền cơ bản đi vào lưu thông tăng lên đáp ứng cho
nhu cầu chi tiêu của Chính phủ vào đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các
ngành kinh tế trọng điểm, thực hiện an sinh xã hội hay các nhu cầu chi tiêu cần thiết khi mà
thu từ ngân sách không đủ bù đấp kịp thời. Tuy nhiên giải pháp này cũng có hai mặt, nó có

Hoạt động phát hành tiền

24


NHÓM 1

Luật ngân hàng

thể gây ra lạm phát nếu Nhà nước vay quá nhiều tiền để chi tiêu, đặc biệt khi nguyên nhân
gây thiếu hụt là do thiếu các nguồn vốn đối ứng để đầu tư phát triển gây tăng trưởng nóng
và không cân đối với khả năng tài chính quốc gia.
Thông qua kênh NHTG, việc phát hành tiền ra lưu thông qua con đường cấp tín
dụng cho các NHTG góp phần đáp ứng phương tiện thanh tóan cho nền kinh tế phù hợp với
việc mở rộng hay thu hẹp thị trường hàng hóa, dịch vụ, đồng thời giúp cho hoạt động của
ngân hàng thương mại diễn ra một cách trôi chảy thuận lợi. Qua kênh NHTG, NHNN là
người cho vay sau cùng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kiềm chế
lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế suy thoái thì NHNN có thể
tăng lượng tiền cung ứng bằng cách giảm lãi suất tái chiết khấu và tăng hạn mức tín dụng từ
đó sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, thúc dẩy đầu tư phát triển sản xuất. Ngược lại khi nền
kinh tế lạm phát, NHNN có thể tăng lãi suất tái chiết khấu và giảm hạn mức tín dụng từ đó

làm giảm lượng tiền cho vay của các NHTG dẫn đến giảm lượng tiền trong lưu thông.
Việc đưa tiền ra lưu thông thông qua kênh thị trường ngoại hối, nếu không có sự
điều tiết thích hợp cũng dễ dàng dẫn đến nguy cơ lạm phát. Như ta đã biết, do giá lương
thực - thực phẩm và giá dầu lửa thế giới biến động dẫn đến tình trạng lạm phát ở Việt Nam
vào năm 2007 lên đến hai con số. Nhưng tại sao cùng chịu sự ảnh hưởng của biến động giá
đó mà 2 nước trong khu vực như Thái Lan và Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức một con
số? Sự khác biệt rõ rệt nhất giữa Việt Nam và các quốc gia đó là ở vấn đề cung tiền. Cung
tiền ở VN tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào tăng đột biến, từ đó
buộc NHNN đóng vai trò là người mua ngọai tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu
thông. Tuy nhiên thông qua kênh này, NHNN có thể góp phần điều chỉnh bình ổn lại thị
trường ngoại tệ, bằng cách thực hiện các nghiệp vụ mua bán trên thị trường này, bằng việc
tung ra một lượng tiền mặt nhất định vào thị trường để mua ngoại tệ và vàng, từ đó làm tăng
dự trữ quốc gia, mặt khác làm gia tăng lưu lượng tiền mặt trong nền kinh tế. Bên cạnh sự
ảnh hưởng từ các kênh dẫn tiền vào lưu thông, thì việc đổi tiền, một trong các nghiệp vụ
phát hành tiền, nếu thực hiện không đúng thời điểm và dựa vào tình hình phát triển kinh tế
và nhu cầu về tiền tệ để xác định đúng khối lượng tiền cần phát hành cũng sẽ dẫn đến hậu
quả tiêu cực cho sự phát triển kinh tế. Điển hình như lần đổi tiền thứ tư của Nhà nước vào

Hoạt động phát hành tiền

25


×