Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.21 KB, 20 trang )

A.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Công ty cổ phần (CTCP) là loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn, khả năng huy
động vốn cao. Có thể thấy, CTCP cũng được coi là một trong những loại hình doanh
nghiệp được các nhà đầu tư khá ưu thích. Sở dĩ như vậy bởi vì vốn là yếu tố quyết
định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các đối tác
bên ngoài của một doanh nghiệp, hay nói cách khác, vốn đóng vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự tồn tại, phát triển của một doanh nghiệp, trong khi đó, CTCP được
tiến hành nhiều hình thức huy động vốn để tận dụng được mọi nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân chúng phục vụ cho hoạt động tìm kiếm lợi nhuận mình cũng như để tiến
hành các dự án lớn mà các hình thức doanh nghiệp khác không thể thực hiện được.
Xuất phát từ niềm đam mê cũng như ý nghĩa lí luận và thực tiễn sâu sắc của việc
tìm hiểu về pháp luật huy động vốn của CTCP, em xin đi sâu nghiên cứu đề tài “Tìm
hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần”.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Khái niệm công ty cổ phần và vốn của công ty cổ phần
Khái niệm công ty cổ phần:
B.

I.
1.

Khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa CTCP như sau: “1. Công ty cổ
phần là doanh nghiệp, trong đó:
a)
b)

Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không



c)

hạn chế số lượng tối đa.
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của

d)

doanhh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ

2.

trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này.”
Khái niệm vốn của công ty cổ phần

Khái niệm vốn nói chung được các ngành khoa học tiếp cận theo nhiều phương
diện và phạm vi khác nhau. Từ phương diện khoa học tài chính, vốn của công ty được
quan niệm là vốn kinh doanh và là cơ sở vật chất cho hoạt động của công ty. Ở mức
độ khái quát, có thể hiểu vốn của công ty là giá trị của toàn bộ tài sản (đại lượng
bằng tiền) được đầu tư vào hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích sinh lợi.


II.

Huy động vốn trong công ty cổ phần
1. Vai trò của vốn đối với tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần

CTCP không thể được thành lập và hoạt động nếu không có vốn. Vốn là yếu tố
quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động, quan hệ nội bộ cũng như quan hệ với các

đối tác bên ngoài của công ty.
Vốn của CTCP có ảnh hưởng cơ bản đến cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lí của CTCP.
Việc sở hữu, nắm giữ phần lớn số vốn trong công ty sẽ là cội nguồn quyền lực, là cơ
sở xác định cơ chế quản lí, điều hành, quyết định vận mệnh của công ty và nó cũng là
cơ sở phân chia lợi ích giữa những người sở hữu vốn.
Không chỉ có vai trò đối với tổ chức nội bộ của công ty, vốn còn đóng vai quan
trọng trong việc xác lập các mối quan hệ bên ngoài CTCP. Cụ thể là độ tin cậy trong
quan hệ của công ty đối với các đối tác khác thể hiện trước hết là ở cơ cấu vốn của
công ty. Ngân hàng và các công ty tài chính chỉ cho vay đối với doanh nghiệp có bề
dày về tài chính đáng tin tưởng, doanh nghiệp có đủ khả năng hoàn trả vốn. Mặt
khác, khi một người muốn cho công ty vay hoặc mua trái phiếu, họ thường quan tâm
xem công ty có khả năng trả nợ gốc và lãi khi đáo hạn không. Ngoài ra, cơ cấu vốn
của công ty cũng là động lực thu hút sự chú ý của các đối tác bên ngoài khi muốn đầu
tư vào công ty.
Bên cạnh đó, vốn còn đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất, kinh
doanh của CTCP. Khi tiến hành sản xuất, kinh doanh thì vốn là yếu tố không thể thiếu
đối với mọi chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, đối với CTCP là loại hình công ty đối vốn
điển hình và việc thành lập nó của các nhà đầu tư cũng vì mục đích tiến hành được
nhiều hình thức huy động vốn để tận dụng được mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
chúng phục vụ cho hoạt động tìm kiếm lợi nhuận của mình cũng như để tiến hành các
dự án lớn mà các hình thức doanh nghiệp khác không thể thực hiện được.
2. Các phương thức huy động vốn của công ty cổ phần
2.1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 85 LDN 2005, có thể hiểu cổ phiếu là chứng chỉ do
CTCP phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận một hoặc một số cổ phần của công ty


đó. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên, tùy theo quy định của pháp luật hay
Điều lệ của công ty quy định. Về mặt nội dụng, cổ phiếu phải có các nội dung cơ bản
như sau:

a)
b)
c)
d)

Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty;
Số và ngày cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh;
Số lượng cổ phần và loại cổ phần;
Mệnh giá mỗi cổ phần và tổng mệnh giá số cổ phần ghi trên cổ phiếu;

đ) Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, số Giấy chứng minh nhân dân, Hộ chiếu
hoặc giấy chứng thực cá nhân hợp pháp khác của cổ đông là cá nhân; tên, địa chỉ
thường trú , quốc tịch, số quyết định thành lập hoặc số đăng kí kinh doanh của cổ
đông là tổ chức đối với cổ phiếu có ghi tên;
e) Tóm tắt về thủ tục chuyển nhượng cổ phần;
g) Chữ kí mẫu của người đại diện theo pháp luật và dấu của công ty;
h) Số đăng kí tại sổ đăng kí cổ đông của công ty và ngày phát hành cổ phiếu;
i) Các nội dung khác theo quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của luật này đối với
cổ phiếu của cổ phần ưu đãi.
2.1.1. Phương thức phát hành cổ phiếu
LDN 2005 quy định hai phương thức phát hành cổ phiếu đó là: phát hành cổ phiếu
ra công chúng và phát hành cổ phiếu riêng lẻ.


Phát hành cổ phiếu ra công chúng

Theo quy định tại Khoản 12 Điều 6 Luật Chứng khoán (LCK) năm 2006 thì phát
hành cổ phiếu ra công chúng được hiểu là phương thức phát hành cổ phiếu mà cổ
phiếu được chào bán rộng rãi ra công chúng theo một trong các phương thức sau
đây:

a, Thông qua phương tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet;
b, Chào bán chứng khoán cho một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp;
c, Chào bán cho một số lượng nhà đầu tư không xác định.
CTCP khi thực hiện phát hành cổ phiếu theo phương thức này phải chịu sự ràng
buộc của pháp luật về chứng khoán. CTCP phải thực hiện chế độ báo cáo, công bố


thông tin và chịu sự giám sát chặt chẽ của pháp luật. Về hình thức thì phát hành cổ
phiếu ra công chúng được pháp luật phân biệt giữa phát hành cổ phiếu lần đầu và
phát hành them cổ phiếu.


Phát hành cổ phiếu riêng lẻ

Hiện nay, việc chào bán cổ phần riêng lẻ không còn bó hẹp trong phạm vi những
cổ đông trong CTCP mà còn mở rộng ra các nhà đầu tư bên ngoài. Đáp ứng nhu cầu
này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2010/NĐ-CP quy định về chào bán cổ
phần riêng lẻ.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 4 của Nghị định có thể hiểu phát hành cổ phiếu
riêng lẻ là hình thức phát hành cổ phiếu trong đó cổ phần được chào bán hoặc quyền
mua cổ phần một cách trực tiếp và không sử dụng các phương tiện thông tin đại
chúng cho một trong các đối tượng sau:
a, Các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
b, Dưới 100 nhà đầu tư không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
2.1.2. Điều kiện phát hành cổ phiếu


Đối với cổ phần phổ thông


LDN 2005 quy định: “các cổ đông sáng lập phải cùng nhau đăng kí mua ít nhất
20% tổng số cổ phần phổ thông được quyền chào bán và phải thanh toán đủ số cổ
phần đã đăng kí mua trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày công ty được cấp giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh”. Quy định này được đặt ra nhằm đề cao trách nhiệm
của các cổ đông sáng lập trong giai đoạn đầu thành lập CTCP.


Về giá chào bán cổ phần

LDN 2005 quy định: “Giá chào bán cổ phần không được thấp hơn giá thị trường
tại thời điểm chào bán hoặc giá được ghi trong sổ sách của cổ phần tại thời điểm gần
nhất”. Việc LDN 2005 đưa ra quy định như vậy nhằm đảm bảo việc chào bán cổ phiếu
của CTCP cho các cổ đông được thực hiện một cách công bằng và hạn chế việc CTCP
tạo ra các ưu thế co các cổ đông có ưu đãi và những bất lợi cho các cổ đông khác.
Bên cạnh đó, LDN 2005 cũng đưa ra một số ngoại lệ cho CTCP được chào bán cổ
phần với giá thấp hơn quy định, đó là các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 87.


Quy định này tạo điều kiện cho CTCP có thể tiến hành thành công đợt phát hành cổ
phiếu của mình cũng như đảm bảo được quyền ưu tiên cho các cổ đông và các đối
tượng ưu tiên khác của công ty khi CTCP thực hiện phát hành cổ phiếu riêng lẻ.


Đối với cổ phần riêng lẻ

LDN 2005 yêu cầu CTCP phải dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành cho
các cổ đông hiện hữu trong công ty theo tỉ lệ cổ phần hiện có của họ tại công ty. Sở dĩ
LDN 2005 có quy định như vậy là nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi và địa vị của các
cổ đông cũng như cơ cấu tổ chức trong CTCP không bị thay đổi nhiều khi công ty tiến
hành phát hành cổ phiếu theo phương thức này. Bên cạnh đó, LDN 2005 cho phép

nếu cổ đông của công ty không có nhu cầu thực hiện quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới
phát hành của công ty thì các cổ đông này được chuyển quyền ưu tiên mua của mình
cho người khác.


Đối với cổ phiếu phát hành lần đầu

Khoản 4 Điều 84 LDN 2005 quy định: “Trường hợp các cổ đông sáng lập không
đăng kí mua hết số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn lại phải được
chào bán và bán hết trong thời hạn ba năm, kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng
nhận đăng kí kinh doanh”. Quy định này được đặt ra nhằm yêu cầu CTCP đã tiến
hành chào bán cổ phiếu thì phải thực hiện đến cùng để huy động được số vốn điều lệ
như đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh, đồng thời nhằm gắn trách nhiệm của
cổ đông sáng lập đối với công chúng đầu tư cũng như đối với CTCP trong giai đoạn
đầu thành lập.


Đối với phát hành cổ phiếu ra công chúng

- Thứ nhất, CTCP muốn chào bán cổ phiếu phải có tiềm lực tài chính. Điều ấy được
thể hiện ở mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng kí chào bán cổ phiếu. Theo quy
định của LCK 2006 thì mức vốn điều lệ CTCP phải đáp ứng được là 10 tỉ đồng Việt
Nam, tính theo sổ sách ghi trên sổ kế toán.
- Thứ hai, CTCP phát hành cổ phiếu ra công chúng phải đáp ứng điều kiện là công
ty kinh doanh hiệu quả. Điều ấy được thể hiện ở kết quả kinh doanh của công ty đó
vào năm liền trước năm đăng kí chào bán cổ phiếu. Cụ thể là: năm liền trước đó CTCP


phải kinh doanh có lãi và công ty không có lỗ lũy kể tính đến năm đăng kí chào bán cổ
phiếu.

- Thứ ba, CTCP muốn phát hành cổ phiếu ra công chúng phải đáp ứng được sự
chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông về phương án phát hành và phương án sử dụng
vốn huy động được từ đợt chào bán. Điều kiện này được đặt ra nhằm đảm bảo quyền
quyết định cao nhất của Đại hội đồng cổ đông với định hướng phát triển của CTCP.


Chào bán cổ phần riêng lẻ

CTCP muốn chào bán cổ phần riêng lẻ không nhất thiết phải được Đại hội đồng cổ
đông của công ty thông qua mà có thể do Hội đồng quản trị thông qua. Bên cạnh đó,
trong phương án chào bán cổ phần phải xác định rõ đối tượng và số lượng nhà đầu
tư được chào bán là dưới 100 nhà đầu tư và hạn chế chuyển nhượng cổ phần tối
thiểu trong vòng 1 năm kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán.
2.1.3. Thủ tục tiến hành


Đăng kí chào bán cổ phiếu

Để được chào bán cổ phiếu thì đầu tiên CTCP phát hành phải chuẩn bị hồ sơ đăng
kí chào bán cổ phiếu, sau đó gửi tới Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). Nếu
là phát hành cổ phiếu ra công chúng thù CTCP phải chuẩn bị hồ sơ theo yêu cầu của
LCK 2006. Nếu phát hành cổ phiếu riêng lẻ thì CTCP chuẩn bị hồ sơ theo yêu cầu của
Nghị định số 01/2010/NĐ-CP của chính phủ về chào bán cổ phần riêng lẻ và chỉ cần
được sự đồng ý của UBCKNN hoặc sau 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn mà pháp luật
quy định thì CTCP được tiến hành chào bán cổ phiếu.


Công bố thông tin trước khi phát hành cổ phiếu

- Đối với cổ phiếu phát hành ra công chúng: LCK 2006 quy định CTCP phải công bố

thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về đợt phát hành và cung cấp nội
dung của báo cáo bạch có trong hồ sơ đăng kí chào bán cổ phiếu tới công chúng đầu
tư.
- Đối với phát hành cổ phiếu riêng lẻ: LDN 2005 quy định đối với trường hợp CTCP
phát hành cổ phiếu riêng lẻ để chào bán số cổ phần đó cho tất cả các cổ đông trong
công ty thì “phải thông báo bằng văn bản đến các cổ đông theo phương thức bảo


đảm đến được địa chỉ thường chú của họ. Thông báo phải được đăng báo trong ba số
lien tiếp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày thông báo”. Bên cạnh đó, Nghị
định số 01/2010/NĐ-CP về chào bán cổ phần riêng lẻ thì yêu cầu CTCP phát hành cổ
phiếu theo phương thức này không được công bố thông tin có nội dung quảng cáo về
đợt phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng để đảm bảo đúng bản chất
của phát hành cổ phiếu riêng lẻ.


Phân phối cổ phiếu

LDN 2005 quy định: “sau khi cổ phần được bán, CTCP phát hành phải trao số cổ
phiếu cho người mua. Công ty có thể bán cổ phần mà không trao cổ phiếu (phát hành
cổ phiếu dưới dạng bút toán ghi sổ). Trong trường hợp này, các thông tin về cổ đông
chỉ cần ghi vào sổ đăng kí cổ đông để chứng thực quyền sở hữu cổ phần của cổ đông
đó trong công ty”.
2.2. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu
Quyền phát hành trái phiếu của CTCP được quy định tại Khoản 1 Điều 88 LDN
2005 như sau: “CTCP có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại
trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty”.
Khoản 3 Điều 6 LCK 2006 định nghĩa trái phiếu như sau: “Trái phiếu là loại chứng
khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ
của tổ chức phát hành”. Như vậy, nếu cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền

sở hữu cổ phần trong CTCP thì trái phiếu lại là chứng khoán xác nhận quyền của
người sở hữu được trả nợ gốc và lãi suất ấn định trong trái phiếu khi đến hạn.
2.2.1. Phương thức phát hành trái phiếu
Theo quy định của LCK 2006, CTCP có quyền phát hành trái phiếu theo hai phương
thức: phát hành trái phiếu riêng lẻ và phát hành trái phiếu ra công chúng. Nếu CTCP
phát hành trái phiếu riêng lẻ thì phải tuân theo quy định của LDN 2005. Còn đối với
phát hành trái phiếu ra công chúng thì việc phát hành sẽ phải tuân theo các quy định
của LCK 2006.
2.2.2. Điều kiện phát hành trái phiếu


Phát hành trái phiếu ra công chúng


CTCP muốn được phát hành trái phiếu ra công chúng phải đáp ứng được những
điều kiện sau:
a) CTCP có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ki chào bán từ 10 tỉ đồng
Việt Nam trở lên tính theo giá ghi trên sổ kế toán;
b) Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng lí chào bán phải có lãi,
đồng thời không có lỗ lũy kể tính đến năm đăng kí chào bán, không có các khoản nợ
phải trả quá hạn trên một năm;
c) Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt
chào bán được Hội đồng quản trị công ty thông qua;
d) Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều
kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và
các điều kiện khác. (Khoản 2 Điều 12 LCK 2006)
Có thể thấy, khác với phát hành cổ phiếu ra công chúng, ngoài việc phải thỏa mãn
các điều kiện về vốn điều lệ, về kết quả kinh doanh, về kế hoạch huy động cũng như sử
dụng vốn huy động, CTCP muốn phát hành trái phiếu ra công chúng còn phải đáp
thêm các điều kiện khác như: không được có các khoản nợ quá hạn trên một năm,

phải có cam kết thực hiện nghĩa vụ của công ty với nhà đầu tư. Mặt khác, phương án
phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ cần có sự thông qua của Hội đồng quản trị
thay vì phải được sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông như trong phát hành cổ
phiếu ra công chúng.


Phát hành trái phiếu riêng lẻ

Khoản 2 Điều 88 LDN 2005 đã quy định những trường hợp CTCP không được phát
hành trái phiếu, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
a) Không thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh
toán hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp trước
đó;
b) Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao
hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.


LDN 2005 đưa ra quy định này nhằm mục đích loại bỏ việc tham gia phát hành
trái phiếu của những CTCP không có đủ năng lực trả nợ nhằm ngăn chặn rủi ro tiềm
tang cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh quy định trên, việc phát hành trái phiếu của CTCP phải đáp ứng thêm
những điều kiện sau:
+ CTCP phát hành phải đáp ứng yêu cầu về thời hạn hoạt động kinh doanh tối
thiểu, thông thường là ít nhất 1 năm.
+ CTCP phải có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm
toán để đáp ứng yêu cầu về tài chính minh bạch.
+ CTCP phải kinh doanh có lãi ở năm liền kề trước năm phát hành.
+ CTCP phải có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ đã được Hội đồng quản
trị công ty thông qua.
2.2.3. Thủ tục tiến hành



Đối với phát hành trái phiếu ra công chúng

LCK 2006 quy định thủ tục tiến hành phát hành trái phiếu ra công chúng gồm 3
bước: Đăng kí chào bán trái phiếu ra công chúng, công bố thông tin trước khi chào
bán và phân phối chứng khoán. Tất cả các bước này có nội dung tương tự như phát
hành cổ phiếu ra công chúng. Song, với hồ sơ đăng kí chào bán trái phiếu, cần lưu ý:
hồ sơ đăng kí chào bán trái phiếu cần có quyết định của Hội đồng quản trị của công
ty và phải có thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP phát hành đối với nhà
đẩu tư.


Đối với phát hành trái phiếu riêng lẻ

Hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ khá giống với hoạt động vay thông
thường. Thủ tục của phương thức này gồm có hai bước: công bố thông tin trước khi
chào bán và phân phối trái phiếu.
- Công bố thông tin trước khi phát hành: Những thông tin mà CTCP phát hành
phải công bố là: Công khái báo cáo tài chính đã được kiểm toán của năm trước năm
phát hành; Công bố phương án phát hành trái phiếu đã được Hội đồng quản trị công


ty thông qua; Công bố quyền lợi của người mua trái phiếu và cam kết của mình đối
với người sở hữu trái phiếu.
- Phân phối trái phiếu: Việc phân phối trái phiếu có thể được hoàn thành bởi chính
công ty hoặc thông qua tổ chức trung gian. Thông thường việc phân phối trái phiếu
riêng lẻ được thực hiện theo phương thức đấu thầu.
2.3. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng
Đây là hình thức huy động vốn của CTCP từ các tổ chức tín dụng hoặc các trung

gian tài chính như ngân hàng thương mại, công ty cho thuê tài chính để đưa một số
bên ngoài vào quá trình hoạt động kinh doanh của công ty. Nguồn vốn này có thể là
các khoản vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; có bảo đảm hoặc không có bảo đảm.
Hình thức pháp lí điều chỉnh quan hệ tín dụng giữa CTCP và các tổ chức tài chính là
hợp đồng tín dụng.
2.3.1. Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng
Đây được coi là một hình thức huy động vốn phổ biến được các doanh nghiệp nói
chung và CTCP nói riêng áp dụng trên thực tế. Thông qua hình thức này CTCP được
vay các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu của hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng
được những điều kiện nhất định như: có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án
sử dụng vốn khả thi và có tài sản bảo đảm cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế
chấp hoặc được bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả
nợ đối với ngân hàng. Công ty vay vốn của ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay
đúng mục đích đã thỏa thuận; hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa
thuận trong hợp đồng tín dụng.
Theo Nghị định của Chính phủ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch
bảo đảm, ngân hàng có thể cho CTCP vay thông qua các biện pháp bảo đảm bằng tài
sản để CTCP thực hiện các dự án đầu tư phát triển phương án sản xuất kinh doanh.


Cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng là sự thỏa thuận giữa CTCP và ngân hàng, theo
đó, CTCP giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho ngân hàng để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ trả nợ.
Thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng là sự thỏa thuận giữa CTCP và ngân hàng,
theo đó, CTCP dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa
vụ trả nợ đối với ngân hàng nhưng không chuyển giao tài sản cho ngân hàng.
Ký quỹ là vay vốn ngân hàng là việc CTCP gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá
quý hoặc các giấy tờ trị giá được bằng tiền vào tài khoản phong tỏa tại một ngân

hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng.
Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc người thứ ba (pháp nhân hoặc cá nhân) sẽ
thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho CTCP nếu đến hạn trả nợ mà công ty không trả nợ
được toàn bộ hay một phần nợ vay cho ngân hàng.
Bên cạnh các hình thức vay thông qua các biện pháp bảo đảm bằng tài sản, CTCP
còn có thể vay vốn ngân thông qua hình thức tín chấp. CTCP vay tín chấp ngân hàng
được hiểu là việc CTCP có thể nhận được khoản tiền vay mong muốn mà không phải
thế chấp tài sản hay chịu bất cứ điều kiện bảo lãnh nào khi vay tiền.
Hình thức pháp lí của tín dụng ngân hàng là hợp đồng tín dụng.
2.3.2. Huy động vốn thông qua tín dụng thuê mua
Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng khó tiếp cận
vốn vay ngân hàng. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là
do công ty không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng giá trị của tài sản thế chấp không
đủ để bảo đảm cho số tiền dự định xin vay. Hơn nữa, công ty còn chưa khẳng định uy
tín, tín nhiệm của mình đối với ngân hàng trong quan hệ tín dụng để vay vốn bằng tín
chấp. Vậy giải pháp nào để có nguồn vốn cho doanh nghiệp? Sự ra đời của các công ty
cho thuê tài chính với chức năng thuê tài chính là một giải pháp để tài trợ vốn trung
hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp.
Nghị định 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2005) quy định: Cho thuê tài chính là
hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị,


phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên
cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận
chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối
với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Một giao dịch cho thuê tài chính phải
thoả mãn một trong những điều kiện sau đây: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo
hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê

theo sự thoả thuận của hai bên; Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên
thuê được quyền ưu tiên mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực
tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại; Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất
phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê; Tổng số tiền thuê một
loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với
giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng. Như vậy, thuê mua tài chính thực
chất là việc các công ty tài chính cấp tín dụng bằng tài sản cho các doanh nghiệp.
Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng này có nhiều ưu điểm như: thủ tục
nhanh gọn, công ty cho thuê tài chính có thể không yêu cầu ngặt nghèo đối với CTCP
về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng, CTCP có thể đổi mới máy móc, thiết bị
tiên tiến, bắt kịp sự đòi hỏi của thị trường về mẫu mã, chủng loại, giá thành,…
Điều kiện để CTCP được thuê mua tài chính theo hợp đồng cho thuê tài chính là
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự.
Hình thức pháp lí của tín dụng thuê mua là hợp đồng cho thuê tài chính. Hợp đồng
cho thuê tài chính là sự thỏa thuận giữa bên cho thuê và bên thuê về việc cho thuê
một hoặc một số máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và động sản khác theo
quy định của pháp luật, phù hợp với quyền và nghĩa vụ của các bên.
Tài sản cho thuê tài chính phải đăng kí tại Trung tâm đăng kí giao dịch có bảo
đảm. Bộ tư pháp hướng dẫn chi tiết việc đăng kí tài sản cho thuê tài chính.
III.

Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp

1.

luật về huy động vốn của công ty cổ phần
Một số đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về huy động vốn
của công ty cổ phần



1.1. Những thành công trong quy định của pháp luật hiện hành về huy
động vốn của công ty cổ phần
Thứ nhất, việc pháp luật hiện hành quy định cho CTCP có các phương thức huy
động vốn đa dạng, linh hoạt như đã trình bày ở trên, đã đưa CTCP trở thành loại hình
doanh nghiệp ưu việt hơn hẳn so với các doanh nghiệp khác ở khả năng tập trung
vốn một cách nhanh chóng, thuận tiện, đáp ứng được nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Thứ hai, việc LDN 2005 đa dạng hóa các loại cổ phần của CTCP đã đáp ứng được
các nhu cầu và kì vọng khác nhau của các nhà đầu tư.
Thứ ba, quy định của pháp luật về cơ chế huy động vốn của CTCP hiện nay khá
hoàn thiện và khắc phục được nhiều hạn chế của các văn bản pháp luật trước đó.
Thứ tư, không chỉ riêng LDN 2005, các văn bản chứng khoán cũng góp phần không
nhỏ để tạo ra sự hoàn thiện trong cơ chế huy động vốn của CTCP. Trong đó phải kể
đến vai trò quan trọng của Nghị định số 01/2010/NĐ-CP của Chính phủ về phát hành
cổ phiếu riêng lẻ và Luật Chứng Khoán 2006.
1.2. Những hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành về huy động
vốn của công ty cổ phần
Thứ nhất, khi quy định về các loại cổ phần ưu đãi, LDN 2005 đưa ra ba loại cổ
phần ưu đãi cơ bản là: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần
ưu đãi hoàn lại. Cùng với đó, LDN đưa ra thêm một quy định: “Cổ phần ưu đãi khác
do Điều lệ công ty quy định”. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho CTCP có thể tự do
sáng tạo thêm các loại cổ phần ưu đãi khác nhưng trên thực tế thì quy định này
không có bất kì tác dụng nào đối với các CTCP. Bởi lẽ từ khi có quy định này đến nay
thì chúng ta không hề thấy CTCP phát hành một loại cổ phần ưu đãi khác nào ngoài
những cổ phần pháp luật quy định.
Thứ hai, những quy định về trái phiếu riêng lẻ trong pháp luật hiện hành còn quá
ít ỏi. Ngoài quy định tại Điều 88 LDN 2005 về quyền phát hành trái phiếu nói chung
của CTCP và một số trường hợp CTCP không được phát hành trái phiếu thì Luật
không có thêm quy định điều chỉnh các nội dung cụ thể về phát hành trái phiếu riêng
lẻ.



Thứ ba, về quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của các cổ đông trong CTCP
mà LDN 2005 quy định là chưa phù hợp với mục đích không làm thay đổi địa vị của
từng cổ đông hiện hữu sau mỗi đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ. Mặt khác, đối với cổ
phần ưu đãi biểu quyết, việc pháp luật không quy định khống chế một tỷ lệ cổ phần
ưu đãi biểu quyết mà từng cổ đông sáng lập có quyền ưu tiên mua sẽ khiến các cổ
đông sáng lập lợi dụng quyền ưu tiên mua cổ phiếu này để nắm quyền kiểm soát công
ty.
Thứ tư, trong quy định về phát hành cổ phiếu riêng lẻ, Luật cho phép các cổ đông
của CTCP “được chuyển quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành của mình cho
người khác” hay quy định cho phép CTCP “được phân phối số cổ phiếu còn lại của đợt
phát hành riêng lẻ cho cổ đông của công ty hoặc người khác theo cách thức hợp lí với
điều kiện không thuận lợi hơn so với những điều kiện đã chào bán cho các cổ đông”
mà không có sự giải thích “người khác” ở đây là những đối tượng nào. Điều này sẽ
khiến cho phát hành cổ phiếu riêng lẻ và phát hành cổ phiếu ra công chúng không có
được sự phân biệt rõ ràng và khiến cho quy định của pháp luật bị hiểu sai đi.
Thứ năm, đối với cổ phần còn lại của đợt phát hành cổ phiếu riêng lẻ của CTCP
được bán qua trung tâm giao dịch chứng khoán, vì Luật không quy định việc bán này
được tiến hành như thế nào có thể dẫn đến việc hiểu sai rằng LDN 2005 cho phép số
cổ phiếu còn lại của đợt phát hành riêng lẻ của CTCP có thể được bán ra công chúng.
Thứ sáu, đối với phát hành cổ phiếu lần đầu, LDN 2005 không quy định trách
nhiệm pháp lí kèm theo hoặc hướng giải quyết cụ thể cho công ty nếu hết thời hạn 3
năm mà số cổ phần chào bán vẫn không được công ty bán hết. Điều này sẽ khiến cho
việc thực thi điều luật trên thực tế sẽ kém hiệu quả.
2.

Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về huy động
vốn trong công ty cổ phần

Thứ nhất, LDN 2005 nên xóa bỏ quy định “Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty

quy định”. Thay vào đó, luật nên quy định thêm các loại cổ phần ưu đãi khác để CTCP
được lựa chọn phát hành. Sau đây là một vài loại cổ phần ưu đãi trong pháp luật của
một số nước như Thái Lan, Philippin,… :


Cổ phần ưu đãi có thể chuyển đổi: là loại cổ phần trao cho cổ đông quyền lựa chọn
để chuyển đổi cổ phần ưu đãi của họ thành các loại chứng khoán khác cụ thể trong
công ty một cách tùy ý (khi đến một thời hạn nào đó) hoặc các hạn chế khác được
quy định trong Điều lệ công ty.
Cổ phần ưu đãi phức hợp: cổ phần có từ hai quyền ưu đãi trở lên, …
Thứ hai, LDN 2005 nên có thêm các quy định về phát hành trái phiếu riêng lẻ của
CTCP. Trong đó phải có những nội dung như: cần đưa ra khái niệm trái phiếu, các
điều kiện mà CTCP cần phải thỏa mãn khi phát hành trái phiếu riêng lẻ, cần quy định
các nội dung cơ bản của trái phiếu và quy định thêm các loại trái phiếu cho CTCP
chọn phát hành như: trái phiếu trả lãi theo thu nhập là trái phiếu mà tiền lãi sẽ được
trả tăng giảm theo lợi nhuận thu được của công ty; trái phiếu lãi xuất thả nổi là trái
phiếu có lãi xuất được xác định căn cứ vào lãi xuất tiêu chuẩn, thường là lãi xuất trái
phiếu kho bạc,…
Thứ ba, LDN cần đưa ra tỉ lệ khống chế thích hợp của cổ phần ưu đãi biểu quyết so
với tổng số cổ phần phổ thông phát hành cho các CTCP nói chung và tỉ lệ cổ phần ưu
đãi biểu quyết mà mỗi cổ đông sáng lập được ưu tiên mua để tránh tình trạng cổ
đông sáng lập của CTCP lạm dụng quy định này để nắm quyền kiểm soát đối với công
ty.
Thứ tư, đối với “người khác” được nhận quyền ưu tiên mua cổ phiếu riêng lẻ từ
các cổ đông hoặc được nhận mua số cổ phiếu riêng lẻ còn lại của công ty khi CTCP
không phân phối hết được cho các cổ đông thì LDN cần có hướng dẫn đó là những
đối tượng nào. Cụ thể thì “người khác” trong hai trường hợp trên bao gồm những
người không phải là cổ đông của công ty nhưng được công ty lựa chọn từ trước để
chào bán trực tiếp cổ phiểu riêng lẻ mà công ty dự định phát hành. Còn trong trường
hợp CTCP phát hành cổ phiếu riêng lẻ để chào bán cho các cổ đông theo tỉ lệ cổ phần

hiện có của họ tại công ty thì người khác được mua ở đây phải là những nhà đầu tư
chuyên nghiệp theo quy định của LCK 2006.


Thứ năm, việc số cổ phần còn lại của đợt phát hành riêng lẻ có thể được bán qua
trung tâm giao dịch chứng khoán thì LDN nên hướng dẫn rằng việc bán cổ phần qua
trung tâm giao dịch chứng khoán ở đây là bán theo phương thức đấu thầu.
Thứ sáu, đối với phát hành cổ phiếu lần đầu, LDN 2005 nên quy định trách nhiệm
pháp lí kèm theo hoặc hướng giải quyết cụ thể cho CTCP nếu hết thời hạn 3 năm mà
số cổ phần chào bán vẫn không được công ty bán hết. Cụ thể là nếu hết thời hạn trên
mà CTCP vẫn không bán hết được số cổ phần được quyền chào bán thì số cổ phần còn
lại được xử lí theo một trong các cách sau đây: các cổ đông sáng lập phải cùng nhau
mua hết số cổ phần đó theo tỉ lệ sở hữu cổ phần của họ trong công ty; một hoặc một
số cổ đông sáng lập nhận mua hết số cổ phần đó; nếu số cổ phần trên không được
mua hết bằng một trong hai cách trên thì CTCP không được tiến hành phát hành cổ
phiếu mới cho đến khi số cổ phần đó được chào bán hết.
C.

KẾT LUẬN

Qua những nghiên cứu trên đây, có thể thấy CTCP là loại hình doanh nghiệp có
quy mô lớn, có khả năng huy động vốn cao. Dù các quy định của pháp luật hiện hành
còn tồn tại những hạn chế nhất định nhưng chúng ta không thể phủ nhận những
đóng góp to lớn của nó trong thời gian qua đối với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ
của hàng loạt CTCP cũng như những đóng góp cho sự phát triển ổn định hiện nay của
thị trường chứng khoán Việt Nam.

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT






CTCP: Công ty cổ phần
LDN 2005: Luật Doanh nghiệp năm 2005
LCK 2006: Luật Chứng khoán năm 2005


MỤC LỤC
Trang
A. ĐẶT VẤN ĐỀ…………………………………………………………………..1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái niệm công ty cổ phần và vốn của công ty cổ phần
1. Khái niệm công ty cổ phần………………………………………………...1
2. Khái niệm vốn của công ty cổ phần……………………………………….1


II. Huy động vốn trong công ty cổ phần
1. Vai trò của vốn đối với tổ chức, hoạt động của công ty cổ phần……...…2
2. Các phương thức huy động vốn của công ty cổ phần
2.1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu
2.1.1. Phương thức phát hành cổ phiếu…………………………………..3
2.1.2. Điều kiện phát hành cổ phiếu……………………………………...4
2.1.3. Thủ tục tiến hành……………………………………………..........6
2.2. Huy động vốn bằng phát hành trái phiếu
2.1.1. Phương thức phát hành trái phiếu……………………………….....7
2.1.2. Điều kiện phát hành trái phiếu……………………………………..7
2.1.3. Thủ tục tiến hành…………………………………………………....9
2.3. Huy động vốn thông qua các hình thức tín dụng
2.3.1. Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng………...10

2.3.2. Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng thuê mua………….11
III. Một số đánh giá và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật hiện hành về huy động vốn của công ty cổ phần
1. Một số đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về huy động vốn
của công ty cổ phần
1.1. Những thành công trong quy định của pháp luật hiện hành về huy
động vốn của công ty cổ phần…………………………………………….11
1.2. Những hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành về huy
động vốn của công ty cổ phần………………………………………….....12
2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về huy động
vốn trong công ty cổ phần……………………………………………………14
C. KẾT LUẬN…………………………………………………………………..…15


Danh sách tài liệu tham khảo

DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Luật Doanh nghiệp năm 2005.

2.

Luật Chứng khoán năm 2006.

3.

Nghị định của Chính phủ số 01/2010/NĐ-CP ngày 14/01/2010 quy định về
chào bán cổ phần riêng lẻ.



4.

Nghị định của Chính phủ số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch
bảo đảm.

5.

Nghị định của Chính phủ số 16/2001/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của công
ty cho thuê tài chính Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2005).

6.

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại, Tập 1, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2006.

7.

Pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005:
Khóa luận tốt nghiệp / Nguyễn Thị Giang, Hà Nội, 2010.

8.

Những vấn đề pháp lí cơ bản về cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần: Khóa
luận tốt nghiệp / Trần Quang Hưng; Người hướng dẫn: Đông Ngọc Ba.

9.

Một số quy định của pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần: Khóa luận

tốt nghiệp / Nguyễn Thị Vân Anh; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Viết Tý.

10.

Chế độ pháp lí về vốn của công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp: Khóa luận

tốt nghiệp / Nguyễn Thị Minh Thu; Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Như Phát.
11. Những khía cạnh pháp lí cơ bản về vốn trong công ty cổ phần theo Luật doanh
nghiệp 2005: Khóa luận tốt nghiệp / Nguyễn Thị Thùy Dương; Người hướng
dẫn: Trần Bảo Ánh.
12. Một số website:
• www.chinhphu.vn
• www.thuvienphapluat.vn
• www.csdl.thutuchanhchinh.vn
• www.vietlaw.gov.vn



×