Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Những giải pháp để hệ thống ngân hàng thương mại việt nam tiếp cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực đánh giá an toàn ngân hàng theo thoả ước basel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.06 KB, 88 trang )

Mục Lục

1.2. Hệ thống chuẩn mực của Hiệp ước Basel.........................................7
1.2.1. Chuẩn mực BASEL 1 ..........................................................................7
1.2.1.1. Bản Thoả thuận tháng 7 năm 1988.......................................7
1.2.1.2. Quy định bổ sung tháng 1 năm 1996...................................12
Lãi suất..........................................................................................................80
Tỷ giá và vàng..............................................................................................80
Thời hạn...............................................................................................81
Hợp đồng lãi suất ..............................................................................81

i


Danh mục các từ viết tắt
CBRC

Uỷ ban Quản lý Ngân hàng Trung Quốc

CIRC

Uỷ ban Quản lý Bảo hiểm Trung Quốc

CSRC

Uỷ ban Quản lý các thị trường Chứng khoán Trung Quốc

FSC

Uỷ ban Giám sát Tài chính


FSS

Cơ quan Dịch vụ giám sát tài chính

NH

Ngân hàng

NHNNVN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

NHTMCP

Ngân hàng Thương mại Cổ phần

NHTMNN

Ngân hàng Thương mại Nhà nước

NHTMVN

Ngân hàng Thương mại Việt Nam

NHTW

Ngân hàng Trung ương

NHXDTQ


Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc

OECD

Tổ chức Hợp tác Phát triển

PBOC

Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc

SFC

ủy ban về Chứng khoán và các hợp đồng tương lai

TCTD

Tổ chức tín dụng

WTO

Tổ chức Thương mại Thế giới

ii


Danh mục bảng biểu
Trang
Bảng 1

Mối tương quan giữa mức vốn cần có với mức thu nhập của từng

lĩnh vực kinh doanh

30

Bảng 2

Những thay đổi về tiêu chí phân loại nợ

44

Bảng 3

Vốn tự có và Hệ số an toàn vốn của các NHTMNN

56

Bảng 4

Vốn tự có và hệ số an toàn vốn của một số NHTMCP

57

Bảng 5

Bảng tổng hợp vốn tự có theo các Tổ chức Định chế Tài chính

59

Bảng 6


Kết quả cho điểm tín dụng đối với 2088 khách hàng

61

là doanh nghiệp tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Bảng 7

Cơ cấu dư nợ của 2088 khách hàng được xếp hạng tại Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam

61

Bảng 8

Tỷ lệ nợ xấu tại các Tổ chức Định chế Tài chính

63

Bảng 9

Tỷ lệ nợ xấu tại một số NHTM Việt Nam

64

Bảng 10

Tình hình trích lập Dự phòng Rủi ro của các NHTM Nhà nước

65


Danh mục các phụ lục
Trang
Phụ lục 1

25 nguyên tắc Cơ bản Basel về Giám sát Ngân hàng
hiệu quả

118

Phụ lục 2

Tự đánh giá sự tuân thủ của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam với 25 Nguyên tắc Cơ bản Basel về Giám sát Ngân
hàng hiệu quả

122

Phụ lục 3

Tỷ trọng rủi ro của các tài sản có nội bảng

123

Phụ lục 4

Hệ số chuyển đổi tín dụng của các khoản mục ngoại
bảng

125


Phụ lục 5

Các phương pháp xác định giá trị tương đương rủi ro tín
dụng của các cam kết ngoại bảng liên quan đến lãi suất
và tỷ giá

126

iii


Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của Đề tài
An toàn, hiệu quả, bền vững luôn là mục tiêu mà mọi ngân hàng hướng tới. Có thể
nói, sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một nước, dù là nước phát triển hay đang
phát triển đều có thể đe doạ sự ổn định tài chính ở nước đó và tác động đến nước khác trên
trường quốc tế. Vì vậy, làm thế nào để nâng cao sức mạnh của hệ thống tài chính, trong đó
hệ thống ngân hàng đóng vai trò chủ chốt đã và đang thu hút sự quan tâm ngày càng lớn
trên toàn thế giới. Việc áp dụng các chuẩn mực đánh giá an toàn ngân hàng là rất cần thiết
để cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính và đảm bảo hệ thống ngân hàng hoạt động
một cách lành mạnh, hiệu quả. Trên bình diện quốc tế, các hệ thống ngân hàng có xu hướng áp dụng các chuẩn mực của Basel để tiện cho việc so sánh, đối chiếu về mức độ lành
mạnh. Tuy nhiên, mức độ sẵn sàng áp dụng Hiệp ước Basel phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Cũng như hệ thống ngân hàng các nước khác, mục tiêu của hệ thống ngân hàng
Việt Nam là an toàn, hiệu quả, và bền vững. Hơn nữa, so với thông lệ quốc tế, mức độ rủi
ro trong hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, đặc biệt tại các
Ngân hàng Thương mại Nhà nước còn khá cao và khó lường trước các hậu quả xảy ra.
Chính vì vậy, việc phân tích và áp dụng các chuẩn mực Basel là hết sức cần thiết nhằm
đảm bảo sự an toàn không những trong hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Việt
Nam mà còn là sự an toàn của toàn bộ nền kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Có thể nói, đến nay đã có những đánh giá ban đầu về mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ

bản Basel tại Ngân hàng Nhà nước, chú trọng vào hoạt động thanh tra giám sát. Tuy nhiên,
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống việc tiếp cận và áp dụng các chuẩn
mực đánh giá hoạt động ngân hàng an toàn theo Hiệp ước Basel (Basel1 và Basel2 tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn này, Nhóm nghiên cứu
lựa chọn Đề tài: “Những giải pháp để hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam tiếp
cận và áp dụng hệ thống chuẩn mực đánh giá an toàn ngân hàng theo Thoả ước
Basel”.
2. Đóng góp của Đề tài
- Về mặt lý luận:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận của các nguyên tắc đánh giá hoạt động ngân hàng an
toàn theo Hiệp ước Basel (Basel 1, Basel 2);
+ Đi sâu nghiên cứu kinh nghiệm của Hàn Quốc và Trung Quốc trong việc tiếp cận
và áp dụng các chuẩn mực đánh giá hoạt động ngân hàng an toàn theo Basel, qua đó rút ra
bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn:
+ Phân tích thực trạng hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện
nay theo ba trụ cột của Basel 2, qua đó, chỉ rõ “khoảng cách” của các NHTM Việt Nam so
với yêu cầu của Basel nói chung và Basel 2 nói riêng.
+ Đề xuất các giải pháp tổng thể và các khuyến nghị để các ngân hàng thương mại
Việt Nam tiếp cận và áp dụng các chuẩn mực đánh giá hoạt động ngân hàng an toàn theo
Hiệp ước Basel.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1


- Đối tượng nghiên cứu: khả năng tiếp cận và áp dụng các chuẩn mực đánh giá an toàn
ngân hàng theo Basel tại các NHTM Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đi sâu phân tích thực trạng hoạt động của các NHTM theo ba
trụ cột của Basel 2, từ đó đưa ra các giải pháp tổng thể để hệ thống NHTM tiếp cận và áp

dụng hệ thống chuẩn mực đánh giá hoạt động ngân hàng an toàn theo Basel.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp
phân tích, tổng hợp và thống kê.
5. Kết cấu của Đề tài
Ngoài lời nói đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ
bản của Đề tài được chia thành 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của hệ thống chuẩn mực đánh giá hoạt động ngân hàng
an toàn theo Hiệp ước Basel
Chương 2: Đánh giá thực trạng hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt
Nam theo các trụ cột cơ bản của Hiệp ước Basel 2
Chương 3: Giải pháp để các Ngân hàng thương mại Việt Nam tiếp cận và áp dụng
hệ thống đánh giá hoạt động ngân hàng an toàn theo Hiệp
ước Basel

Chương 1
Cơ sở lý luận của hệ thống chuẩn mực đánh giá hoạt động
ngân hàng an toàn theo Hiệp ước Basel
1.1. Bối cảnh và mục tiêu ra đời Hiệp ước Basel 1
1.1.1. Bối cảnh ra đời Hiệp ước Basel 1
Hoạt động của một ngân hàng thường được tài trợ từ hai nguồn, tiền vay hoặc vốn
chủ sở hữu.Tiền vay của ngân hàng (gồm cả các khoản tiền gửi) là các tài sản nợ mà nếu
không được thanh toán đúng hạn có thể đẩy ngân hàng trước tình trạng mất khả năng trả
nợ. Trái lại, đầu tư của chủ sở hữu có thể có lãi hoặc bị thua lỗ nhưng không đẩy ngân
hàng trước tình trạng mất khả năng trả nợ. Vì vậy, trong điều kiện các yếu tố khác là như
nhau thì tỷ trọng các hoạt động của một ngân hàng được tài trợ bằng vốn chủ sở hữu càng
lớn thì ngân hàng đó sẽ có thể tiếp tục trả được nợ trong những thời kỳ kinh tế khó khăn.
Lập luận này tạo cơ sở cho các chuyên gia giám sát ngân hàng xem tỷ lệ an toàn vốn như
là một yếu tố cơ bản quyết định sự an toàn và hiệu quả của ngân hàng.
Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về hiệu quả và sự an toàn của việc yêu cầu ngân

hàng phải nắm giữ nhiều vốn hơn thì yêu cầu về vốn làm tăng chi phí của ngân hàng. Việc

2


yêu cầu một ngân hàng được tài trợ bằng tỷ lệ vốn lớn hơn sẽ hạn chế tỷ lệ vay nợ và điều
này có nghĩa là hạn chế tiềm lực cho vay của ngân hàng. Những yêu cầu về vốn đối với
ngân hàng có thể ảnh hưởng rộng rãi trên góc độ kinh tế vĩ mô đối với vốn tín dụng khả
dụng. Hạn chế khả năng vay nợ của ngân hàng cũng làm giảm cơ hội của các cổ đông khi
sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính và lợi thế về thuế của nghiệp vụ tài trợ vay nợ nhằm
tăng ROE (tỷ số lợi nhuận ròng trên VCSH). Trong một thị trường cạnh tranh, nếu ROE
của một ngân hàng quá thấp thì vốn sẽ chuyển sang các nhà cung cấp dịch tài chính khác
hoặc các khu vực khác.
Vì vậy, như thế nào gọi là đủ vốn? Trước năm 1980, các nhà chính sách ngân hàng
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thực tế của ngân hàng, các đánh giá giám sát và các khái
niệm đơn giản về tỷ lệ an toàn vốn trên cơ sở rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt. Kể từ
năm 1980, việc xây dựng luật ngân hàng được đặt ra do các cuộc khủng hoảng ngân hàng
đã thúc đẩy các nhà giám sát ngân hàng tập trung nhiều hơn vào những định nghĩa chính
xác về các tiêu chuẩn vốn tối thiểu.
Trước những năm 1980, các nhà giám sát ngân hàng đã không áp đặt các tiêu chuẩn
về tỷ lệ an toàn vốn cụ thể là bao nhiêu. Thay vào đó, họ áp dụng các tiêu chuẩn một cách
linh hoạt, phù hợp với điều kiện của các tổ chức. Khi đánh giá tỷ lệ an toàn vốn, các nhà
chính sách đã chú trọng đến những nhân tố như khả năng quản lý và chất lượng danh mục
đầu tư cho vay. Các nhà giám sát ngân hàng đã cố gắng sử dụng các tiêu chuẩn về tỷ lệ an
toàn vốn khác nhau ngay từ năm 1864, khi Luật ngân hàng Quốc gia đưa ra các yêu cầu về
vốn tối thiểu dựa trên dân số của khu vực mà ngân hàng cung ứng dịch vụ, tuy nhiên, hầu
như các nỗ lực ban đầu để định lượng tỷ lệ an toàn vốn là không thành công và gây nhiều
tranh cãi. Những năm 1930 và 1940, các nhà chính sách ngân hàng bắt đầu xem xét tới các
tỷ lệ như tỷ lệ vốn/tổng tiền gửi và vốn/tổng tài sản, nhưng cả hai tỷ lệ này đều đã bị loại
bỏ khi tiến hành các kiểm tra về tỷ lệ an toàn vốn cho thấy không hiệu quả. Các nghiên cứu

khác nhau về phương pháp điều chỉnh tài sản rủi ro và tỷ lệ vốn/tài sản rủi ro đã được tiến
hành vào những năm 1950, tuy nhiên, không có nghiên cứu nào được chấp nhận rộng rãi
vào lúc đó.
Những năm 1970, nền kinh tế Mỹ và nhiều nước phát triển trên thế giới suy yếu
hơn và khu vực ngân hàng bắt đầu cho thấy những dấu hiệu của sự yếu kém. Một thuật ngữ
mới “lạm phát” được đặt ra để mô tả hiện tượng lạm phát kinh tế và lạm phát cao trong
thập kỷ này. Sự sụp đổ của hàng loạt các ngân hàng lớn là bằng chứng cho thấy rằng ngay
cả những ngân hàng tương đối lớn cũng không tránh khỏi biến động.
Lạm phát và lãi suất cao bất thường đã làm suy yếu trầm trọng một số lượng lớn
các ngân hàng tiết kiệm.Trên góc độ kinh tế, lãi suất và giá dầu tăng quá cao đã dẫn đến
một cuộc suy thoái toàn cầu năm 1981. Tỷ lệ phá sản các ngân hàng bắt đầu tăng, một
phần là do các điều kiện kinh tế đang suy yếu dần và một phần là do quy mô rủi ro của
ngân hàng tăng. Xu hướng về vốn của ngân hàng cũng gây ra nhiều mối lo ngại. Tỷ lệ
vốn/tài sản có luôn luôn dưới 6% từ năm 1977 đến 1982. Việc giảm các tỷ lệ vốn xảy ra ở
các ngân hàng lớn, năm 1982, tỷ lệ vốn tự có/tài sản có của các ngân hàng lớn là thấp, chỉ
đạt 4%.
Những yếu kém kinh tế vĩ mô, ngày càng nhiều các trường hợp ngân hàng bị phá
sản và quy mô vốn ngân hàng thu nhỏ đã thúc đẩy một phản ứng về chính sách năm 1981,
lần đầu tiên, các tổ chức hoạt động ngân hàng đã áp dụng những yêu cầu về vốn một cách

3


rõ ràng. Các tiêu chuẩn này sử dụng các tỷ lệ đòn bẩy là vốn cổ phần/tổng tài sản có (vốn
cổ phần chủ yếu là gồm vốn cổ phần và dự phòng tổn thất khoản vay).
Trước tình hình đó, các nhà chính sách ngân hàng đều nhất trí rằng khái niệm về tỷ
lệ an toàn vốn cần phải được điều chỉnh phù hợp với rủi ro ngân hàng nhằm giải quyết hai
khuynh hướng chính của khu vực ngân hàng. Thứ nhất, các ngân hàng đang trở nên kém an
toàn hơn, tài sản có tính thanh khoản thấp và tính sinh lợi thấp. Thứ hai, các ngân hàng
đang tăng các hoạt động ngoại bảng mà không tính toán rủi ro dựa trên các tỷ lệ vốn. Các

nhà chính sách cần một “tỷ lệ tài sản có rủi ro” mới đóng vai trò như một tỷ lệ vốn bổ sung
được điều chỉnh liên quan đến các tỷ lệ vốn/tổng tài sản có đang được áp dụng với hy vọng
là điều này có thể cho phép khuôn khổ quy định về vốn mới sẽ phản ứng một cách rõ ràng
và có hệ thống với các quy mô rủi ro của các ngân hàng.
Vì vậy, năm 1988, Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel- Ngân hàng Thanh toán Quốc
tế đã xây dựng Hiệp ước vốn Basel 1988. Uỷ ban này gồm các đại diện từ Bỉ, Canada,
Pháp, Đức, Italy, Nhật, Hà Lan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sỹ, Anh và Mỹ. Các nhà chính sách Mỹ
và các nước khác tiếp tục xem xét các phương pháp quản lý rủi ro ngân hàng và năm 1988,
thống đốc ngân hàng trung ương của nhóm các nước G10 đã áp dụng các nguyên tắc Hiệp
ước vốn Basel này. Ngày nay, khuôn khổ quy định về vốn trên cơ sở rủi ro này vẫn còn
hiệu lực. Những quy định này đưa ra các quy trình có tính hệ thống về phân tích rủi ro
ngoại bảng trong đánh giá giám sát đối với tỷ lệ an toàn vốn, khuyến khích các tổ chức
hoạt động ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản nhưng rủi ro thấp, đồng thời,
thúc đẩy sự phối hợp giữa các cơ quan giám sát của các nước công nghiệp lớn. Căn cứ
Hiệp ước 1998, các tài sản có và hạng mục ngoại bảng được tính đến rủi ro mà chủ yếu
dựa vào bốn nhóm rủi ro tín dụng. Hầu hết các khoản cho vay đều được tính rủi ro 100%,
mặc dầu các khoản thế chấp của dân cư đều được tính rủi ro là 50%, cho vay bảo lãnh hoặc
các nghiệp vụ bảo lãnh được cung cấp bởi các ngân hàng và các tổ chức có chất lượng
khác (ở Mỹ gồm cả các doanh nghiệp được chính phủ tài trợ như Fannie Mae và Freddie
Mac) được tính rủi ro là 20%, và tài sản có rủi ro rất thấp, chẳng hạn như các khoản cho
vay có bảo lãnh của chính phủ thì được tính rủi ro là 0%. Điều này buộc các ngân hàng
nắm giữ vốn nhiều hơn nếu các ngân hàng này chọn tài sản có rủi ro hơn, và không bị phạt
vì nắm giữ tài sản ít rủi ro hơn. Các tổ chức áp dụng Hiệp ước Basel được yêu cầu duy trì
một tỷ lệ vốn tự có trên tổng tài sản có rủi ro ít nhất là 8%.
1.1.2. Bối cảnh ra đời Hiệp ước Basel 2
Trong nhiều năm, Hiệp ước 1988 được thực hiện một cách thành công. Mặc dầu,
Hiệp ước 1988 được phát triển rộng rãi nhưng các cơ quan và tổ chức quốc tế ủng hộ việc
áp dụng một cách nhất quán các tiêu chuẩn vốn trên cơ sở rủi ro đã không tính đến quy mô,
cơ cấu, tính phức tạp và lịch sử rủi ro. Bốn loại rủi ro tín dụng lớn mặc dầu chưa phải là
hoàn chỉnh nhưng vẫn được xem là một bước cải thiện quan trọng đối với cơ chế vốn mà

trước đây đã không kết hợp chặt chẽ với độ nhạy cảm tín dụng và đã không cảnh báo được
cho các ngân hàng là không nên nắm giữ các tài sản rủi ro.
Quy định về vốn trên cơ sở rủi ro này chứng tỏ là một nhân tố quan trọng làm ổn
định hệ thống ngân hàng quốc tế. Dựa trên bảng cân đối tài sản, đã cho thấy các tỷ lệ vốn

4


tăng khi các điều khoản của Hiệp ước có hiệu lực thi hành năm 1992 mà không thu hẹp
mức độ khả dụng tín dụng.
Xu hướng tăng các tỷ lệ về vốn kể từ đầu những năm 1990 có thể không hoàn toàn
do tác động của quy định về vốn. Các cuộc khủng hoảng những năm 1980 và đầu những
năm 1990, bằng cách nắm giữ vốn vượt quá quy định để tránh các biện pháp trừng phạt của
các nhà chính sách, các chủ nợ, các tổ chức đánh giá tín dụng và các cổ đông trong những
thời điểm khó khăn.
Tuy nhiên, quy định về vốn không hoàn toàn là có tác động quan trọng đối với các
mức vốn của ngân hàng nói chung. Một bằng chứng liên quan đến tỷ lệ các ngân hàng đáp
ứng mức độ vốn hoá tốt. Từ năm 1990 đến 1992, tỷ lệ các ngân hàng Mỹ được vốn hoá tốt
tăng từ 86 đến 96 % mặc dầu nền kinh tế Mỹ trong tình trạng suy thoái và các điều kiện
hoạt động ngân hàng yếu kém. Tính tuân thủ của các ngân hàng đối với các tiêu chuẩn về
vốn nói chung là nhất quán, trừ một số năm gần đây.
Cùng với việc củng cố vị thế vốn của các ngân hàng là xu hướng giảm đáng kể các
trường hợp phá sản ngân hàng.Ví dụ, năm 1988, ở Mỹ số các ngân hàng bị phá sản ở mức
đỉnh điểm là 280 ngân hàng, tuy nhiên, đã giảm xuống chỉ còn 3 ngân hàng năm 1998. Từ
năm 1995 đến 2001, chỉ có gần 10 ngân hàng thương mại bị đóng cửa.
Hiệp ước vốn Basel củng cố tính bình đẳng trong cạnh tranh trên toàn cầu. Bởi vì
Hiệp ước là một thoả hiệp có tính quốc tế, không có nước G10 nào phải đặt các tổ chức của
họ ở vị thế bất lợi trong cạnh tranh bằng cách áp đặt các tiêu chuẩn về vốn ngặt nghèo. Bên
cạnh đó, vì các chính phủ không phải lo ngại với những hậu quả tiềm ẩn của một hành
động đơn phương nên ngân hàng và khách hàng của họ trên thế giới có thể có được lợi ích

từ các tiêu chuẩn về vốn thống nhất.
Tuy nhiên, những hạn chế nhất định của Hiệp ước 1988 ngày càng trở nên rõ ràng
hơn. Mặc dầu Hiệp ước năm 1988 là nhạy cảm với rủi ro hơn những hướng dẫn về vốn
trước đây nhưng Hiệp ước này vẫn là một công cụ không sắc bén đối với việc phân biệt rủi
ro tín dụng. Hơn nữa, việc tăng quy mô và mức độ phức tạp của các ngân hàng lớn nhất đã
buộc các nhà giám sát ngân hàng phải tăng cường tính hiệu lực của quy định về tỷ lệ an
toàn vốn thông qua hai công cụ chủ yếu đó là các thước đo rủi ro và nguyên tắc thị trường
được thực hiện bởi các ngân hàng.
Việc phát triển một khuôn khổ vốn nhạy cảm với rủi ro hơn là quan trọng bởi vì
những rủi ro hoạt động ngân hàng thương mại ngày càng tăng. Trước hết, rủi ro tín dụng
có xu hướng ngày càng tăng cao. Tỷ lệ nợ được xoá của những ngân hàng thương mại
ngày càng cao hơn và biến động hơn kể từ năm 1950. Hơn nữa, việc tính toán các tỷ lệ này
thường là giảm nhẹ so với mức độ rủi ro tín dụng thực tế trên các danh mục cho vay của
ngân hàng, dư nợ cho vay và là tài sản có của ngân hàng tăng rõ rệt, từ 23% năm 1950 lên
61% năm 2000. Mặc dầu các quy định về vốn trên cơ sở rủi ro hiện nay bắt đầu khuyến
khích ngân hàng nắm giữ tín dụng chất lượng cao hơn, tài sản có của ngân hàng đã bắt đầu
tập trung vào cho vay và giảm dần các đầu tư chứng khoán rủi ro thấp.
Hơn nữa, những nghiên cứu về định lượng và quản lý rủi ro đã làm tăng sự cách
biệt giữa phương pháp đo lường tiêu chuẩn về vốn theo Hiệp ước 1988 với các phương
pháp đo lường vốn được nhiều ngân hàng có uy tín trên thế giới sử dụng.
Vì vậy, Uỷ ban Basel đã nhận thấy sự cần thiết phải thiết lập một hệ thống các
chuẩn mới về vốn, có thể áp dụng trong các ngân hàng đa năng và phức tạp hơn, nhưng

5


đồng thời cũng phù hợp với các ngân hàng kém phức tạp hơn. Tháng 6 năm 2004, Uỷ ban
Basel đã chính thức công bố Hiệp ước Basel I sửa đổi, thường được gọi là Hiệp ước Basel
2.
1.1.3. Mục tiêu của Hiệp ước Basel

Hiệp ước Basel có những mục tiêu chính sau đây:
- Duy trì một hệ thống tài chính hoạt động an toàn ổn định
Một hệ thống tài chính ổn định có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tốc độ tăng
trưởng kinh tế dài hạn. Do đó, mục tiêu của Hiệp ước Basel là duy trì sự ổn định và lành
mạnh của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Những vấn đề của
hệ thống ngân hàng ngày nay có xu hướng gây “hiệu ứng dây chuyền” đến toàn bộ nền
kinh tế. Để có được hệ thống tài chính ổn định, cần phải có những quy định và chuẩn mực
giám sát tin cậy bởi vì hệ thống tài chính tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể gây bất ổn định tài
chính.
Các thành viên tham gia thị trường là các chủ nợ, cổ đông và các nhà phân tích có
thể là những đồng minh quan trọng của các nhà chính sách ngân hàng thông qua biện pháp
trừng phạt các tổ chức hoạt động kém và rủi ro quá lớn. Tuy nhiên, để nguyên tắc thị
trường trở nên hiệu quả thì các thành viên tham gia thị trường phải được thông báo đầy đủ
về những rủi ro mà các ngân hàng này đang gặp phải và vì vậy, tính minh bạch tài chính
đóng vai trò quan trọng trong Hiệp ước Basel.
Mục tiêu của Hiệp ước Basel là đảm bảo khả năng cho các cơ quan giám sát ngân
hàng đưa ra được những đánh giá về phương pháp xác định rủi ro từ nội bộ ngân hàng và
mức độ hợp lý về những đánh giá rủi ro này đến đâu. Đồng thời, Hiệp ước 1988 cũng
nhằm tăng cường động lực kiểm soát rủi ro một cách thận trọng. Tăng cường tính minh
bạch trong các báo cáo tài chính của các ngân hàng, tạo khả năng cho các thành viên thị
trường và khuyến khích các ngân hàng quản lý tốt.
Một công cụ đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp các nhà chính sách
ngân hàng nhận thức được rủi ro của các ngân hàng lớn đó là thông tin liên quan đến rủi ro
từ phía các ngân hàng. Ngân hàng càng lớn thì thanh tra định kỳ danh mục cho vay càng
trở nên ít thông lệ hơn. Thanh tra tín dụng và các hình thức kiểm tra giao dịch khác đối với
các tổ chức tín dụng này chủ yếu tập trung vào kiểm tra tính hoàn thiện của các đánh giá
rủi ro nội bộ và hệ thống đo lường rủi ro tín dụng. Vì vậy, việc đề xuất sử dụng các phương
pháp đo lường rủi ro nội bộ để đặt ra các yêu cầu về vốn đối với rủi ro tín dụng cũng là
một trong những mục tiêu quan trọng của Basel (Basel 2).
- Giảm thiểu tình trạng cạnh tranh không lành mạnh

Mục tiêu của Hiệp ước Basel là hoạt động ngân hàng an toàn và sự cạnh tranh quốc
tế bình đẳng thông qua sự thống nhất quốc tế quy định về vốn tối thiểu. Giám sát ngân
hàng nghiêm ngặt là điều kiện cần nhưng chưa đủ để đảm bảo sự ổn định tài chính.
- Hiệp ước Basel không mang tính bắt buộc thực hiện
Hiệp ước Basel chỉ đóng vai trò như một khuyến nghị, hướng dẫn và không nên
xem nó là một yêu cầu bắt buộc phải tuân thủ và các nhà ngân hàng chỉ nên điều chỉnh

6


hoặc áp dụng những gì thích hợp với trình độ phát triển của chính họ và của thị trường
trong nước.
Các thành viên của Uỷ viên Basel cho rằng định hướng thực hiện hệ thống Basel là
hữu ích nhưng không nên thực hiện nếu cảm thấy chưa sẵn sàng. Nếu một quốc gia nào đó
quyết định thực hiện hệ thống Basel thì thời hạn áp dụng sẽ do các điều kiện bên trong của
nước đó quy định chứ không phải theo lộ trình của các thành viên Uỷ ban Basel đặt ra.
1.2. Hệ thống chuẩn mực của Hiệp ước Basel
1.2.1. Chuẩn mực BASEL 1
1.2.1.1. Bản Thoả thuận tháng 7 năm 1988
Tháng 7 năm 1988, Uỷ ban Giám sát ngân hàng công bố khuôn khổ đo lường mức
độ đủ vốn và tiêu chuẩn vốn tối thiểu mà cơ quan thanh tra các quốc gia thành viên của Uỷ
ban dự kiến sẽ áp dụng tại nước mình đối với những ngân hàng hoạt động quốc tế. Khuôn
khổ này cùng với các tiêu chuẩn kèm theo đã được Thống đốc Ngân hàng Trung ương các
nước G – 10 tán thành.
Thoả thuận này áp dụng đối với các ngân hàng trên cơ sở hạch toán tổng hợp, bao
gồm cả các công ty con hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng và tài chính. Bản Thoả thuận
tháng 7 năm 1988 được chia thành 3 phần. Phần I nói về các yếu tố tạo thành vốn và Phần
II đề cập đến hệ thống các tỷ trọng rủi ro. Phần III bàn về tỷ lệ vốn mục tiêu. Phần dưới
đây sẽ đi sâu phân tích các nội dung trên.
1.2.1.1.1. Các yếu tố cấu thành của vốn

Vốn của ngân hàng sẽ bao gồm vốn gốc (hay vốn cổ phần cơ bản, vốn cấp 1) và
vốn bổ sung (vốn cấp 2).
1.2.1.1.1.1. Vốn cấp 1
Hai thành phần chính của vốn cấp 1 là vốn cổ phần và các quỹ dự trữ công khai.
- Vốn cổ phần bao gồm vốn cổ phần thông thường đã phát hành và được thanh toán
đủ và cổ phần ưu đãi vĩnh viễn không tích luỹ;
- Các quỹ dự trữ công khai.
Kết quả khảo sát các ngân hàng khác nhau trên thế giới cho thấy hai thành phần này
xuất hiện ở hệ thống ngân hàng của tất cả các quốc gia. Cơ quan thanh tra, giám sát ngân
hàng hoàn toàn có thể định lượng được giá trị của hai thành phần vốn cấp 1 này. Đồng
thời, chúng đóng vai trò quyết định đến khả năng mở rộng kinh doanh, nâng cao năng lực
cạnh tranh, khả năng sinh lời của một ngân hàng, qua đó ảnh hưởng đến quyết định đánh
giá của thị trường về mức độ đủ vốn của ngân hàng. ý thức được tầm quan trọng của vốn
cấp 1 đối với việc không ngừng nâng cao chất lượng và quy mô nguồn vốn ngân hàng, Uỷ
ban Giám sát ngân hàng đòi hỏi vốn cấp 1 phải chiếm tối thiểu 50% cơ sở vốn của ngân
hàng.
1.2.1.1.1.2 .Vốn cấp 2
Vốn cấp 2 bao gồm các thành phần: dự trữ không công khai; dự trữ định giá lại; Dự
phòng chung/Dự trữ chung cho tổn thất cho vay; Các công cụ nợ/vốn lưỡng tính; và Nợ
thứ cấp có thời hạn. Cụ thể như sau:
- Dự trữ không công khai: Từng quốc gia có thể xem xét, cho phép ngân hàng tính
giá trị Quỹ dự trữ không công khai vào vốn cấp 2 của mình.

7


- Dự trữ định giá lại: Số tiền dự trữ định giá lại tài sản có thể được hình thành từ
hai nguồn :
(a)
Chênh lệch giữa giá trị hiện tại của tài sản khi định giá lại so với nguyên

giá; hoặc
(b)
Phần giá trị ẩn phát sinh từ chênh lệch giữa việc hạch toán chứng khoán
đang nắm giữ trên bảng tổng kết tài sản theo nguyên giá và đánh giá lại
chứng khoán theo thị trường.
Số tiền nói trên chỉ được phép tính vào vốn cấp 2 của ngân hàng nếu như cơ quan
thanh tra, giám sát ngân hàng tra xác định rằng tài sản đã được định giá lại một cách thận
trọng và phản ánh đầy đủ khả năng biến động về giá cả, đặc biệt là trong trường hợp bắt
buộc phải bán tài sản.
- Dự phòng chung/Dự trữ chung cho tổn thất cho vay: Số tiền dự phòng chung
hoặc dự trữ chung cho tổn thất cho vay được trích lập cho những tổn thất có thể xảy ra,
nhưng chưa được xác định ở thời điểm hiện tại. Với đặc điểm như vậy, ngân hàng hoàn
toàn có thể tự do sử dụng số tiền dự phòng chung này để bù đắp mọi tổn thất chưa xác định
trước. Do đó, ngân hàng được phép tính số tiền dự phòng chung/dự trữ chung cho tổn thất
cho vay vào vốn cấp 2 của ngân hàng. Tuy nhiên, số tiền dự phòng chung/dự trữ chung cho
tổn thất cho vay đáp ứng được các điều kiện để đưa vào phần vốn cấp 2 theo quy định trên
cũng không được vượt quá giới hạn 1,25% của tổng tài sản có rủi ro.
- Các công cụ nợ/vốn lưỡng tính: Một số công cụ của ngân hàng mang những tính
chất nhất định của cả vốn cổ phần và nợ. Uỷ ban cho phép đưa các công cụ này vào thành
phần vốn cấp 2 của ngân hàng nếu như chúng có nhiều điểm tương tự gần với vốn cổ phần,
đặc biệt là nếu ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn thu được từ những công cụ này để bù
đắp tổn thất mà vẫn duy trì được hoạt động bình thường của mình.
- Nợ thứ cấp có thời hạn:
Trong nguồn vốn của ngân hàng có những khoản đi
vay dài hạn (thông thường tối thiểu là 5 năm). Ngân hàng không phải sử dụng tài sản của
mình để đảm bảo cho khoản đi vay. Đồng thời, hợp đồng vay vốn có điều khoản quy định
trong trường hợp thanh lý ngân hàng, quyền được ưu tiên thanh toán của người cho vay chỉ
được xếp trên cổ đông (chủ sở hữu) ngân hàng. Nếu thoả mãn được những tính chất trên
đây thì sẽ được tính vào thành phần vốn cấp 2.
Tuy nhiên, khác với các công cụ vốn lưỡng tính, ngân hàng không thể tự do sử

dụng nguồn vốn vay thứ cấp tại bất kỳ thời điểm nào để bù đắp tổn thất mà vẫn duy trì
được hoạt động bình thường. Do vậy, Uỷ ban Giám sát ngân hàng cũng đặt ra một số giới
hạn chặt chẽ mà ngân hàng phải tuân thủ khi đưa nguồn nợ thứ cấp vào thành phần vốn cấp
2.
Để khuyến khích các ngân hàng không ngừng tăng cường quy mô vốn cấp 1, không
quá phụ thuộc vào vốn cấp 2, Uỷ ban yêu cầu tối thiểu 50% cơ sở vốn của ngân hàng phải
là các thành phần chủ yếu (tức là vốn cấp 1, bao gồm vốn cổ phần và quỹ dự trữ công khai
trích lập từ lợi nhuận sau thuế). Những thành phần khác của vốn (vốn bổ sung) sẽ được
đưa vào cấp 2 với mức tối đa không quá mức vốn cấp 1. Những thành phần vốn bổ sung có
thể được tính hoặc không được tính vào vốn cấp 2 tuỳ theo quyết định của cơ quan thẩm
quyền của từng nước căn cứ vào các quy định pháp luật của nước đó.

8


1.2.1.1.1.3 Các khoản phải trừ khỏi vốn
Khi tính toán tỷ lệ vốn theo tỷ trọng rủi ro, ngân hàng phải loại trừ những khoản
sau theo quy định của Uỷ ban Giám sát ngân hàng :
+ Trừ khỏi vốn cấp 1: uy tín thương mại;
+ Trừ khỏi tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2: các khoản đầu tư vào các công ty con hoạt động
trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng không thực hiện hạch toán tổng hợp (để tránh tình
trạng cùng một nguồn vốn được sử dụng nhiều lần tại những công ty con khác nhau của
cùng một tập đoàn ngân hàng).
Trong quá trình thảo luận để đưa ra một khuôn khổ chung về vốn tối thiểu của một
ngân hàng hoạt động quốc tế, nhiều nước thuộc nhóm G10 đã khuyến nghị cần khấu trừ
khỏi vốn của một ngân hàng số tiền mà ngân hàng đầu tư vào ngân hàng hoặc một tổ chức
tài chính khác. Mục đích của khuyến nghị này là nhằm khuyến khích các ngân hàng tìm
biện pháp thu hút nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài, thay vì sở hữu chéo lẫn nhau, bởi vì điều
này có thể làm tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng ngân hàng mang tính chất hệ thống.
Tuy nhiên, liên quan đến khuyến nghị trên đây, Uỷ ban Giám sát ngân hàng chỉ

thống nhất quy định trong bản Thoả thuận tháng 7/1988 như sau:
- Cho phép cơ quan thanh tra mỗi nước được toàn quyền xem xét, quy định chính
sách khấu trừ phần vốn sở hữu của một ngân hàng tại ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng
khác (hoặc khấu trừ toàn bộ, hoặc chỉ khấu trừ phần vốn vượt quá hạn mức so với vốn của
ngân hàng sở hữu hay so với vốn của ngân hàng bị sở hữu…).
- Trường hợp cơ quan thanh tra ngân hàng không quy định phải khấu trừ phần vốn
một ngân hàng đầu tư vào ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng khác khoản đầu tư này sẽ được
xếp vào nhóm tài sản có có tỷ trọng rủi ro là 100%. Ngoài ra, Uỷ ban cũng giám sát chặt
chẽ mức độ sở hữu lẫn nhau của các ngân hàng, thu thập và lưu trữ hệ thống số liệu thống
kê để làm cơ sở đưa ra những quy định hạn chế trong trường hợp cần thiết.
1.2.1.1.1.4. Các giới hạn cần tuân thủ khi tính toán vốn của một ngân hàng
(i)

Tổng giá trị các thành phần vốn cấp 2 (vốn bổ sung) sẽ bị hạn chế ở mức tối
đa là 100% giá trị các thành phần vốn cấp 1;

(ii)

Nợ thứ cấp sẽ bị giới hạn ở mức tối đa không quá 50% tổng giá trị các thành
phần vốn cấp 1;

(iii)

Nếu khoản dự phòng chung/dự trữ chung cho tổn thất cho vay có bao gồm
cả số tiền phản ánh giá trị tài sản có thấp hơn hoặc phản ánh những tổn thất
tiềm ẩn nhưng chưa được xác định rõ trên bảng tổng kết tài sản thì khoản dự
phòng hoặc dự trữ này sẽ bị giới hạn ở mức tối đa không quá 1,25%;

(iv)


Dự trữ định giá lại tài sản dưới hình thức thu nhập dự kiến hoặc chứng
khoán chưa bán sẽ phải được khấu trừ đi 55%.

1.2.1.1.2. Tỷ trọng rủi ro
Trước đây, để đánh giá mức độ đủ vốn của ngân hàng, người ta thường sử dụng
phương pháp so sánh giữa tổng vốn huy động so với mức vốn điều lệ thực có của ngân
hàng. Tuy nhiên, do phương pháp này chỉ thực hiện so sánh một cách đơn giản, nên Uỷ
ban Giám sát ngân hàng thấy rằng cần đưa ra một phương pháp khác toàn diện hơn để

9


đánh giá mức độ đủ vốn của một ngân hàng. Đó là phương pháp sử dụng tỷ lệ rủi ro gia
quyền thể hiện mối tương quan giữa vốn với các nhóm tài sản có nội bảng hoặc ngoại bảng
khác nhau và được đo lường theo những mức độ rủi ro tương đối. So với phương pháp so
sánh đơn giản trước đây thì phương pháp sử dụng tỷ lệ rủi ro nêu tại bản Thoả thuận tháng
7/1988 có những ưu điểm sau:
(i)
Tạo ra một cơ sở công bằng hơn để so sánh trên bình diện quốc tế giữa các
hệ thống ngân hàng khác nhau;
(ii)

Cho phép tính đến các khoản mục rủi ro ngoại bảng khi đo lường mức độ đủ
vốn của ngân hàng;

(iii)

Không cản trở việc các ngân hàng giữ tài sản có tính lỏng cao hoặc các tài
sản khác có mức độ rủi ro thấp.


Trong khuôn khổ Thoả thuận về vốn tháng 7/1988, các tỷ trọng rủi ro được xây
dựng với phương châm càng đơn giản càng tốt. Cụ thể, bản Thoả thuận về vốn tháng
7/1988 chỉ quy định 5 loại tỷ trọng rủi ro là 0, 10, 20, 50 và 100%, đồng thời đưa ra những
tiêu chí tổng quát để làm căn cứ phân loại tài sản có vào các nhóm rủi ro thích hợp (xem
Phụ lục 3: "Tỷ trọng rủi ro của các tài sản có nội bảng").
Liên quan đến cơ cấu tỷ trọng rủi ro của các nhóm tài sản có nêu trên có một số
điểm cần chú ý.
Thứ nhất, trong thực tế hoạt động ngân hàng có thể phát sinh nhiều loại rủi ro khác
nhau như: rủi ro đầu tư, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro “bỏ trứng vào chung một giỏ”…
Tuy nhiên, đối với phần lớn các ngân hàng truyền thống thì rủi ro tín dụng1 là loại rủi ro
chủ yếu. Do vậy, trong khuôn khổ Thoả thuận về vốn tháng 7/1988 chỉ tập trung vào rủi ro
tín dụng và vào một nhánh nhỏ của rủi ro tín dụng là rủi ro chuyển giao quốc gia. Ngoài ra,
cơ quan quản lý ngân hàng của từng nước có thể xem xét xây dựng quy định riêng đối với
những loại hình rủi ro khác.
Nội dung cần lưu ý thứ hai trong bản Thoả thuận tháng 7/1988 liên quan đến rủi ro
chuyển giao quốc gia. Trong quá trình xin ý kiến tư vấn để đưa ra một khuôn khổ thống
nhất về vốn cho các ngân hàng, Uỷ ban Giám sát ngân hàng đã đưa ra 2 phương pháp đo
lường loại rủi ro này. Phương pháp thứ nhất chỉ phân biệt đơn giản các khoản phải đòi đối
với tổ chức trong nước (bao gồm chính phủ trung ương, tổ chức thuộc khu vực công 2 và
ngân hàng) và các khoản phải đòi đối với tất cả các quốc gia khác. Còn tiêu chí phân biệt
theo đề xuất ở phương pháp thứ hai dựa trên cơ sở lựa chọn những nhóm nước có uy tín tín
dụng cao.
Đa số ý kiến của ngân hàng và hiệp hội ngân hàng các nước thuộc nhóm G10 đều
ủng hộ phương pháp thứ hai với 3 lý do:
(i) Mức độ rủi ro chuyển giao quốc gia hoàn toàn không giống nhau ở tất cả các
nước. Do vậy, không thể áp dụng một hình thức phân loại đơn giản như đề xuất tại
Phương pháp 1, mà phải có một cách thức phân loại rộng hơn trên cơ sở uy tín tín dụng
của các nước công nghiệp hoá và những nước khác.
(ii) Hình thức phân loại đơn giản trong nước/nước ngoài như vậy không phản ánh
được xu thế hội nhập toàn cầu của các thị trường tài chính trên thế giới; đồng thời, cũng

1
2

Rủi ro tín dụng : phát sinh khi bên đối tác không thực hiện được nghĩa vụ của mình
Khu vực công : các ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc sở hữu quốc gia

10


không khuyến khích được ngân hàng đầu tư vào chứng khoán do chính phủ trung ương
nước ngoài phát hành nhằm mục tiêu quản lý thận trọng nguồn thanh khoản của mình.
(iii) Một nguyên tắc quan trọng mà tất cả các thành viên Liên minh châu Âu đều
phải tuân thủ là mọi khoản phải đòi đối với ngân hàng, chính phủ trung ương và khu vực
công của các nước trong Liên minh cần được đối xử giống nhau. Do vậy, nếu áp dụng
phương pháp phân loại đơn giản trong nước/nước ngoài thì sẽ có thể dẫn đến việc thiếu
cân đối giữa các nước khối G10 là thành viên của Liên minh Châu Âu và các nước khác
không thuộc Liên minh.
Từ những lý do nêu trên, Uỷ ban Giám sát ngân hàng quyết định sẽ lấy một nhóm
nước (bao gồm các nước thành viên đầy đủ của khối OECD, hoặc các nước đã ký kết thoả
thuận cho vay đặc biệt với IMF) làm cơ sở để áp dụng các tỷ trọng rủi ro khác nhau.
Một vấn đề nữa trong bản Thoả thuận tháng 7/1988 liên quan đến các khoản phải
đòi đối với các tổ chức thuộc khu vực công (nhưng không phải là chính phủ trung ương).
Trên thực tế, các tổ chức thuộc khu vực công ở những quốc gia khác nhau thì cũng có bản
chất và uy tín tín dụng khác nhau. Để phù hợp với đặc điểm trên, Uỷ ban Giám sát ngân
hàng cho phép cơ quan quản lý ngân hàng từng nước được quyết định tỷ trọng rủi ro thích
hợp cho các khoản phải đòi đối với tổ chức thuộc khu vực công của nước mình. Tuy nhiên,
nhằm đảm bảo được một mức độ thống nhất trong quá trình thực hiện quy định này ở các
nước khác nhau, Uỷ ban cũng đã xác định tỷ trọng rủi ro cụ thể cho hai trường hợp :
(i) Các khoản phải đòi đối với tổ chức thuộc khu vực công của các quốc gia thành
viên khối OECD sẽ có tỷ trọng rủi ro là 20%.

(ii) Tỷ trọng rủi ro của các khoản phải đòi đối với công ty thương mại thuộc sở hữu
của khu vực công là 100%.
Tài sản đảm bảo và bảo lãnh cũng được đề cập đến trong bản Thoả thuận tháng
7/1988. Tuy nhiên, trên thực tế, các ngân hàng khác nhau luôn có chính sách khác nhau về
việc nhận tài sản đảm bảo và bảo lãnh khi cho vay. Ngoài ra, giá trị tài sản đảm bảo trên thị
trường cũng thường xuyên biến động, thậm chí ngoài khả năng dự báo của ngân hàng. Vì
vậy, bản Thoả thuận tháng 7/1988 có cho phép ngân hàng được căn cứ vào hình thức và
giá trị đảm bảo để phân nhóm rủi ro cho các tài sản có bảo đảm khác nhau và tính toán yêu
cầu vốn tối thiểu đối với từng loại tài sản (xem Phụ lục 3: Tỷ trọng rủi ro của các tài sản
có nội bảng).
Số liệu thống kê thực tế hoạt động ngân hàng ở nhiều nước cho thấy những khoản
cho vay có thế chấp bằng nhà ở đang sử dụng có tỷ lệ tổn thất rất thấp. Do vậy, Uỷ ban
Giám sát ngân hàng cho phép những khoản cho vay có tài sản thế chấp là nhà dân dụng
đang cho thuê hoặc người vay đang cư trú được hưởng tỷ trọng rủi ro 50%. Tuy nhiên, khi
thực hiện thì cơ quan thanh tra từng nước vẫn có quyền xem xét trên cơ sở luật pháp sở tại
để đảm bảo rằng mức tỷ trọng rủi ro 50% trên đây chỉ áp dụng hạn chế cho loại hình tài sản
thế chấp là nhà ở và tuân thủ các tiêu chí chặt chẽ.
Cuối cùng, một đặc điểm mới so với các hình thức đánh giá mức độ đủ vốn của một
ngân hàng trước đó là Thoả thuận chung về vốn năm 1988 có tính đến nhu cầu vốn để bù
đắp rủi ro có thể phát sinh liên quan đến các cam kết ngoại bảng.
Trong hoạt động ngân hàng phát sinh rất nhiều hình thức cam kết ngoại bảng khác
nhau, ví dụ như bảo lãnh vay vốn hay các hợp đồng mua bán ngoại tệ có kỳ hạn… Một số
hình thức hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản của ngân hàng mới được phát triển không

11


lâu, doanh số hoạt động chưa lớn nên kinh nghiệm đánh giá mức độ rủi ro còn hạn chế, số
liệu báo cáo thống kê chưa đầy đủ… Do vậy, Uỷ ban Giám sát ngân hàng thấy rằng không
phải mọi hoạt động ngoài bảng tổng kết tài sản của ngân hàng đều cần phải được tính đến

khi xác định mức độ đủ vốn theo quy định tại bản Thoả thuận tháng 7/1988 này, và do đó
chỉ đưa những cam kết ngoại bảng có chứa đựng rủi ro tín dụng đối với ngân hàng. Theo
quy định tại bản Thoả thuận tháng 7/1988, các loại hình cam kết ngoại bảng (trừ hợp đồng
lãi suất, tỷ giá) sẽ được quy đổi về số tiền tương đương rủi ro tín dụng bằng cách nhân giá
trị của cam kết với hệ số chuyển đổi tín dụng (xem Phụ lục 4: "Hệ số chuyển đổi tín dụng
của các khoản mục ngoại bảng"), sau đó phân loại vào các nhóm rủi ro tương ứng với bên
đối tác.
Hợp đồng liên quan đến lãi suất và tỷ giá (ví dụ: hợp đồng hoán đổi, lựa chọn, kỳ
hạn) là một khoản mục ngoại bảng đặc biệt đối với ngân hàng. Khi ký kết những hợp đồng
này, ngân hàng không phải gánh chịu rủi ro tín dụng đối với toàn bộ giá trị hợp đồng, mà
chỉ phải chịu chi phí thay thế luồng tiền khi đối tác không thực hiện được nghĩa vụ. Do
vậy, giá trị tương đương rủi ro tín dụng của nhóm cam kết ngoại bảng này sẽ được xác
định theo một trong 2 cách (xem Phụ lục 5: "Các phương pháp xác định giá trị tương
đương rủi ro tín dụng của các cam kết ngoại bảng liên quan đến lãi suất và tỷ giá").
1.2.1.1.3. Đo lường tỷ trọng rủi ro
Sau khi đã tính được số tiền tương đương tín dụng, dù theo phương pháp rủi ro hiện
tại hay rủi ro ban đầu, số tiền này sẽ được phân loại vào các nhóm tuỳ theo bản chất của
bên đối tác cũng giống như cách thức quy định tại khuôn khổ chính, trong đó bao gồm cả
các trường hợp phân loại ưu đãi đối với những rủi ro đã có bảo lãnh hay tài sản đảm bảo
hợp lệ. Ngoài ra, do phần lớn các bên đối tác trên những thị trường này, đặc biệt là đối với
các hợp đồng dài hạn, thường là những tổ chức có tên tuổi nên người ta đã nhất trí áp dụng
tỷ trọng 50% cho các bên đối tác mà lẽ ra trong các trường hợp khác sẽ phải chịu tỷ trọng
100%11. Tuy vậy, Uỷ ban sẽ theo dõi chặt chẽ chất lượng tín dụng của các thành viên tham
gia những thị trường này và có quyền được nâng tỷ trọng lên nếu chất lượng tín dụng bị
suy giảm hoặc nếu có thêm nhiều trường hợp tổn thất.
1.2.1.1.4. Tỷ lệ tiêu chuẩn mục tiêu
Bản Thoả thuận về vốn tháng 7/1988 đặt ra tỷ lệ tối thiểu giữa vốn so với tài sản có
rủi ro mà các ngân hàng hoạt động quốc tế cần đạt được là 8% (trong đó phần vốn gốc phải
chiếm ít nhất 4%).
1.2.1.2. Quy định bổ sung tháng 1 năm 1996

1.2.1.2.1. Phương pháp đo lường chuẩn hoá
Theo phương pháp này có bốn loại rủi ro thị trường được đề cập đến trong bản Quy
định bổ sung, cụ thể là: rủi ro lãi suất, trạng thái cổ phiếu, ngoại hối và hàng hoá.
1.2.1.2.1.1. Rủi ro lãi suất
Bản Quy định bổ sung đưa ra một khung chuẩn để đo lường rủi ro của việc nắm giữ
các loại chứng khoán nợ và các công cụ liên quan đến lãi suất, bao gồm tất cả các chứng
khoán nợ có lãi suất thả nổi hoặc cố định, cổ phiếu ưu đãi không chuyển đổi … (sau đây
gọi chung là chứng khoán nợ).
11

Một số nước thành viên vẫn giữ lại quyền áp dụng tỷ trọng 100%

12


Vốn tối thiểu đối với rủi ro lãi suất được xác định theo hai nhóm riêng - dành cho
rủi ro cụ thể (những biến động bất lợi về giá cả của một loại chứng khoán do nguyên nhân
liên quan đến từng người phát hành) và rủi ro thị trường chung (thay đổi về lãi suất thị
trường).
Đối với rủi ro cụ thể, yêu cầu vốn tối thiểu được chia thành 5 nhóm chính :
- Chứng khoán nợ do chính phủ phát hành: 0,00%
- Chứng khoán nợ đủ tiêu chuẩn :
+ 0,25% (thời hạn còn lại từ 6 tháng trở xuống)
+ 1,00% (thời hạn còn lại từ 6 đến 24 tháng)
+ 1,60% (thời hạn còn lại trên 24 tháng)
- Các loại chứng khoán nợ khác: 8,00%
Để đo lường rủi ro thị trường chung, và qua đó xác định yêu cầu vốn tối thiểu, ngân
hàng có thể sử dụng phương pháp "kỳ hạn" và phương pháp "thời hạn". Trong từng
phương pháp, yêu cầu vốn tối thiểu sẽ là tổng của 4 thành phần:
+ Trạng thái trường hoặc đoản ròng trên toàn danh mục chứng khoán kinh doanh

của ngân hàng;
+ Tỷ lệ % của trạng thái (trường hoặc đoản) có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn trong
(tổng) số các trạng thái (trường hoặc đoản) nằm trên cùng một khung thời gian;
+ Tỷ lệ % của trạng thái (trường hoặc đoản) có giá trị tuyệt đối nhỏ hơn trong
(tổng) số các trạng thái (trường hoặc đoản) giữa các khung thời gian khác nhau.
+ Yêu cầu vốn đối với trạng thái (trường hoặc đoản) của các hợp đồng quyền chọn
(nếu có).
1.2.1.2.1.2. Rủi ro trạng thái cổ phiếu
Cũng tương tự như đối với chứng khoán nợ trong phần rủi ro lãi suất, yêu cầu vốn
tối thiểu đối với rủi ro trạng thái cổ phiếu 3 được tính toán thành 2 phần riêng biệt là rủi ro
cụ thể của việc duy trì trạng thái trường hoặc đoản đối với một loại cổ phiếu và rủi ro thị
trường chung của việc duy trì trạng thái trường hoặc đoản trên thị trường nói chung. Rủi ro
cụ thể là tổng trạng thái cổ phiếu của ngân hàng, tức là tổng của tất cả các trạng thái cổ
phiếu trường và trạng thái cổ phiếu đoản. Rủi ro thị trường chung là chênh lệch giữa tổng
trạng thái trường và tổng trạng thái đoản. Yêu cầu vốn tối thiểu đối với rủi ro cụ thể là 8%,
đối với rủi ro thị trường chung cũng là 8%.
1.2.1.2.1.3. Rủi ro ngoại hối
Để tính toán yêu cầu vốn tối thiểu đối với rủi ro ngoại hối 4 cần thực hiện theo hai
bước.Thứ nhất, ngân hàng phải đo lường mức độ rủi ro trong trạng thái của từng loại ngoại
tệ. Tiếp theo, ngân hàng sẽ phải xác định mức độ rủi ro tiềm ẩn trong hỗn hợp các trạng
thái trường và đoản của tất cả các loại ngoại tệ khác nhau.
1.2.1.2.1.4. Rủi ro hàng hoá

3

Trong bản Quy định bổ sung này, "cổ phiếu" bao gồm cổ phiếu thường (có quyền bỏ phiếu hoặc không

có quyền bỏ phiếu), chứng khoán chuyển đổi và tất cả các cam kết mua hoặc bán cổ phiếu.
4


bao gồm ngoại tệ và vàng

13


Rủi ro giá cả hàng hoá5 thường phức tạp và có mức độ biến động lớn hơn rất nhiều
so với tỷ giá và lãi suất. Ngoài ra, thị trường hàng hoá cũng thường có tính lỏng kém hơn,
và do đó, mỗi thay đổi về cung và cầu trên thị trường có thể gây tác động lớn hơn đến giá
cả và mức độ biến động của giá. Với những đặc điểm như vậy của thị trường hàng hoá thì
việc phòng ngừa rủi ro hàng hoá trở nên phức tạp hơn.
Ngân hàng có thể sử dụng một trong ba phương pháp để đo lường rủi ro trạng thái
hàng hoá. Đối với những ngân hàng có quy mô hoạt động kinh doanh hàng hoá hạn chế thì
phương pháp đơn giản hoá và phương pháp thang kỳ hạn tỏ ra phù hợp hơn. Ngược lại,
ngân hàng có thể áp dụng phương pháp mô hình nội bộ, nếu thoả mãn các điều kiện nêu ở
phần dưới đây.
1.2.1.2.2. Phương pháp sử dụng các mô hình áp dụng nội bộ để đo lường rủi ro thị
trường
Phương pháp này cho phép các ngân hàng sử dụng chính mô hình quản lý rủi ro nội
bộ của mình để đo lường rủi ro. Tuy nhiên, để được cơ quan quản lý ngân hàng cho phép
áp dụng phương pháp này, ngân hàng phải đáp ứng được 7 nhóm điều kiện về :
- Các tiêu chí chung về việc hệ thống quản lý rủi ro phải đầy đủ;
- Các tiêu chuẩn định tính để giám sát việc sử dụng những hệ thống nội bộ này, đặc
biệt là từ phía Ban lãnh đạo ngân hàng;
- Hướng dẫn chi tiết để xác định những yếu tố rủi ro thị trường phù hợp;
- Các tiêu chuẩn định tính về việc sử dụng những tham số thống kê tối thiểu để đo
lường rủi ro;
- Hướng dẫn chi tiết về kiểm nghiệm các trường hợp đặc biệt;
- Quy trình kiểm định phục vụ mục đích giám sát độc lập việc sử dụng mô hình; và
- Những nguyên tắc áp dụng đối với ngân hàng sử dụng đồng thời phương pháp mô
hình nội tại và phương pháp chuẩn hoá.

1.2.1.2.3. Điều kiện để đo lường rủi ro thị trường
Trước khi sử dụng một trong hai phương pháp đo lường rủi ro thị trường nêu trên,
ngân hàng phải xác định giá trị của tất cả các khoản mục trên theo giá trị thị trường thực tế.
Quy định về hạch toán ở một số nước cho phép những khoản mục này được hạch toán theo
giá thị trường - trong trường hợp đó thì có thể áp dụng luôn giá trị trên sổ sách kế toán của
ngân hàng. Tuy nhiên, đa số các nước đều quy định hạch toán theo mệnh giá của các khoản
mục, và do vậy các ngân hàng sẽ phải xác định lại theo giá trị thị trường để đảm bảo mức
độ chính xác khi đánh giá rủi ro thị trường. Ngoài ra, yêu cầu về vốn đối với rủi ro ngoại
hối và rủi ro hàng hoá sẽ phải được tính cho toàn bộ trạng thái ngoại tệ hoặc trạng thái
hàng hoá của ngân hàng.
1.2.1.2.4. Yêu cầu vốn tối thiểu của ngân hàng
Như vậy, sau khi bổ sung cả phần vốn dành cho rủi ro thị trường thì yêu cầu vốn tối
thiểu của một ngân hàng sẽ bao gồm :
a) Phần vốn dành cho rủi ro tín dụng theo quy định tại bản Thoả thuận tháng
7/1988; cộng với
"hàng hoá" được định nghĩa là một sản phẩm vật chất có thể mua bán được trên thị trường thứ cấp, ví
dụ như nông sản, khoáng sán (bao gồm dầu mỏ) và kim loại quý.
5

14


b) Phần vốn dành cho rủi ro thị trường được xác định theo phương pháp chuẩn hoá;
hoặc
c) Phần vốn dành cho rủi ro thị trường được xác định theo phương pháp mô hình
nội bộ; hoặc
d) Phần vốn dành cho rủi ro thị trường được xác định kết hợp cả hai phương pháp
trên.
Các khoản mục vốn đáp ứng đủ tiêu chuẩn để bù đắp rủi ro thị trường sẽ bao gồm
vốn cổ phần và lợi nhuận không chia (vốn cấp 1) và vốn bổ sung (vốn cấp 2) theo quy định

tại bản Thoả thuận tháng 7/1988. Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể đưa thêm một thành
phần nữa là vốn cấp 3 bao gồm nợ thứ cấp ngắn hạn chỉ nhằm một mục đích duy nhất là
đáp ứng phần vốn cần có dành cho rủi ro thị trường. Tuy nhiên, vốn cấp 3 này phải thoả
mãn được những điều kiện sau:
- Các ngân hàng chỉ được sử dụng vốn cấp 3 để hỗ trợ cho rủi ro thị trường. Có nghĩa là
mọi rủi ro tín dụng và rủi ro đối tác theo quy định tại bản Thoả thuận tháng 7/1988 đều
phải được bù đắp bằng vốn cấp 1 và cấp 3;
- Tổng giá trị vốn cấp 3 tối đa không quá 250% phần vốn cấp 1 của ngân hàng cần có để hỗ
trợ rủi ro thị trường. Nói cách khác, tối thiểu 28,5% mức rủi ro thị trường của ngân hàng
phải được hỗ trợ bằng vốn cấp 1.
- Cơ quan quản lý ngân hàng ở từng quốc gia có quyền xem xét và quy định giới hạn tối đa
tổng giá trị vốn cấp 2 và cấp 3 so với vốn cấp 1.
Các khoản nợ thứ cấp ngắn hạn chỉ được phép tính vào vốn cấp 3 nếu:
- Có thời hạn ban đầu tối thiểu là 2 năm;
- Không được bảo đảm bằng tài sản của ngân hàng;
- Trong trường hợp thanh lý ngân hàng, khoản nợ thứ cấp này có thứ tự ưu tiên thanh toán
sau tất cả các chủ nợ khác, chỉ trước chủ sở hữu;
- Ngân hàng không được phép thanh toán trước hạn, trừ trường hợp được cơ quan quản lý
ngân hàng chấp thuận;
- Hợp đồng vay có quy định ngân hàng sẽ không được thanh toán gốc hoặc lãi (ngay cả khi
đến hạn) nếu như việc thanh toán này sẽ làm cho ngân hàng không đạt được yêu cầu vốn
tối thiều theo quy định.
Uỷ ban Giám sát ngân hàng cho phép có một giai đoạn chuyển tiếp đến cuối năm
1997 để các ngân hàng chuẩn bị thực hiện được yêu cầu vốn tối thiều mới bổ sung. Đặc
biệt, trong thời gian chuyển tiếp này, những ngân hàng mong muốn áp dụng phương pháp
mô hình nội bộ sẽ phải điều chỉnh mô hình của mình, bổ sung thêm các tiêu chí chung và
các tham số theo quy định của Uỷ ban Giám sát ngân hàng.
1.2.2. Những nội dung cơ bản của Basel 2 và điểm khác biệt giữa Basel1 và Basel 2
1.2.2.1. Những nội dung cơ bản của Basel 2
Hiệp ước mới về vốn (Basel 2) gồm 3 trụ cột:

-Yêu cầu vốn tối thiểu;
- Cơ quan thanh tra trực tiếp đánh giá mức độ tuân thủ yêu cầu vốn tối thiểu của
ngân hàng;
- Công khai thông tin.

15


1.2.2.1.1. Trụ cột thứ nhất : Yêu cầu vốn tối thiểu
Basel 2 vấn tiếp tục theo đuổi hình thức đưa ra một tỷ lệ vốn, với tử số là vốn của
ngân hàng và mẫu số là tài sản có rủi ro (đo lường mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân
hàng). Tỷ lệ vốn tối thiểu theo quy định tại Basel 2 là 8%.
So với quy định về yêu cầu vốn tối thiểu tại Basel 1, bản Hiệp ước mới chỉ thay đổi
phương pháp xác định tài sản có rủi ro nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng đánh giá rủi ro
của bản thân ngân hàng, qua đó làm cho tỷ lệ vốn tối thiểu trở nên có nghĩa hơn, phản ánh
được chính xác hơn khả năng thanh toán của ngân hàng.
Basel 2 đề cập đến 3 loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài rủi ro tín dụng và
rủi ro thị trường đã được quy định tại bản Hiệp ước về vốn năm 1988, Basel 2 còn bổ sung
thêm một loại rủi ro nữa là rủi ro hoạt động.
Đối với rủi ro thị trường, phương pháp tiếp cận tại bản Hiệp ước mới không có thay
đổi gì so với Quy định bổ sung tháng 1 năm 1996.
Riêng đối với rủi ro tín dụng và rủi ro hoạt động, bản Hiệp ước mới đưa ra 3
phương án tính toán rủi ro tín dụng và 3 phương án tính toán rủi ro hoạt động khác nhau để
các ngân hàng lựa chọn thực hiện. Sở dĩ Uỷ ban Giám sát ngân hàng Basel đưa ra quy định
mới như vậy là do Uỷ ban thấy rằng không thể và không nên sử dụng một cách tiếp cận
chung để đo lường rủi ro cho tất cả các ngân hàng khác nhau. Thay vào đó, các ngân hàng
và cơ quan giám sát được phép lựa chọn cách tiếp cận phù hợp nhất với mức độ phát triển
hoạt động của bản thân ngân hàng nói riêng và với hạ tầng cơ sở 2.
1.2.2.1.1.1.Đối với rủi ro tín dụng
Bản Hiệp ước mới đưa ra 3 phương pháp tính toán rủi ro tín dụng :

- Phương pháp chuẩn hoá;
- Phương pháp cơ sở dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (IRB);
- Phương pháp nâng cao dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (IRB).
a) Phương pháp chuẩn hoá
Tương tự như bản Hiệp ước hiện thời, phương pháp chuẩn hoá đưa ra trong Basel 2
yêu cầu ngân hàng phải phân chia tài sản có của ngân hàng vào các nhóm rủi ro khác nhau,
mỗi nhóm có một hệ số rủi ro cụ thể, tuỳ theo đặc điểm của từng khoản mục.
Tuy nhiên, so với quy định tại bản Hiệp ước về vốn năm 1998, phương pháp chuẩn
hoá này có một số điểm mới như sau :
- Kết quả đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín dụng độc lập được sử dụng để nâng cao
mức độ chính xác khi xếp hạng rủi ro cho tài sản có. Cơ quan thanh tra của từng quốc gia
sẽ căn cứ vào hướng dẫn của Uỷ ban để quyết định lựa chọn nguồn dữ liệu của tổ chức xếp
hạng độc lập đủ tiêu chuẩn làm cơ sở phân loại tài sản có. Trong trường hợp không có kết
quả xếp hạng của tổ chức xếp hạng độc lập thì một khoản mục tài sản có sẽ phải chịu hệ số
rủi ro 100%.
- Nợ quá hạn phải đưa vào nhóm có hệ số rủi ro 150%, trừ trường hợp ngân hàng đã lập dự
phòng đầy đủ.
- Mở rộng hơn nữa phạm vi các hình thức đảm bảo (tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…)
mà ngân hàng có thể được phép chấp nhận khi tính toán mức vốn tối thiểu theo yêu cầu.
Đồng thời, bản Hiệp ước mới cũng đưa ra một số phương pháp khác nhau để xác định giá

16


trị thị trường của công cụ được sử dụng làm đảm bảo, từ đó tính toán mức vốn có thể được
khấu trừ.
Nhằm hỗ trợ ngân hàng và cơ quan thanh tra ở những nước chưa có đủ điều kiện áp
dụng phương pháp chuẩn hoá trên đây, Uỷ ban cũng đưa ra "phương pháp chuẩn hoá đơn
giản", trong đó tập hợp tất cả những lựa chọn đơn giản nhất để tính toán tổng tài sản có rủi
ro.

b) Các phương pháp dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (phương pháp IRB)
Có hai phương pháp tính toán tổng tài sản có rủi ro dựa trên hệ thống xếp hạng nội
bộ là phương pháp cơ sở và phương pháp nâng cao. Điểm khác biệt cơ bản giữa các
phương pháp IRB và phương pháp chuẩn hoá là khi tính toán tỷ lệ vốn tối thiểu theo
phương pháp IRB, ngân hàng được phép căn cứ vào kết quả đánh giá nội bộ của mình về
các yếu tố rủi ro chủ yếu trong hoạt động. Tuy nhiên, ngân hàng cũng không được quyết
định mọi cấu phần cần thiết để xác định yêu cầu vốn tối thiểu của mình. Thay vào đó, các
hệ số rủi ro và mức vốn cần thiết sẽ được xác định trên cơ sở số liệu định tính do ngân
hàng cung cấp và công thức tính toán do Uỷ ban Giám sát ngân hàng đưa ra.
Các phương pháp IRB đều dựa trên 4 yếu tố đầu vào mang tính định lượng:
(i)
Xác suất không trả được nợ (Probability of default - PD): đo lường xác suất
người vay không thanh toán được nợ;
(ii)

Tổn thất khi người vay không trả được nợ (Loss given default - LGD): đo
lường tỷ lệ tài sản có bị tổn thất nếu xảy ra;

(iii)
Tổn thất khi người vay không trả được nợ (Exposure at default - EAD): đo
lường tỷ lệ tài sản có bị tổn thất nếu xảy ra;
(iv)

Kỳ hạn (Maturity - M): thời hạn kinh tế còn lại của tài sản có.

Sự khác nhau cơ bản giữa phương pháp IRB cơ sở và nâng cao là nguồn dữ liệu của
4 yếu tố đầu vào trên đây dựa trên đánh giá riêng của ngân hàng hay do cơ quan giám sát
ngân hàng quy định. Đối với đa số các nhóm tài sản có, ngân hàng thực hiện phương pháp
IRB nâng cao được phép tự đánh giá và cung cấp số liệu cho tất cả các yếu tố đầu vào.
Ngân hàng thực hiện phương pháp IRB cơ sở sẽ phải thực hiện theo quy định cụ thể của

Uỷ ban giám sát ngân hàng khi cung cấp số liệu cho một số yếu tố đầu vào.
Uỷ ban Giám sát ngân hàng cũng đặt ra những tiêu chí tối thiểu mà ngân hàng phải
đáp ứng nếu muốn được phép thực hiện theo phương pháp IRB cơ sở hay phương pháp
IRB nâng cao. Mục đích của việc này là nhằm hạn chế sự khác biệt giữa cách thức áp dụng
phương pháp IRB ở các ngân hàng, qua đó giúp cho cơ quan giám sát có thể so sánh, đánh
giá chất lượng các ngân hàng khác nhau. Như vậy, ngân hàng thực hiện phương pháp IRB
nâng cao sẽ phải thoả mãn các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn nếu như muốn được hưởng mức độ
linh hoạt tương đối cao hơn so với ngân hàng thực hiện phương pháp IRB cơ sở. Điều quan
trọng là hệ thống xếp hạng nội bộ của ngân hàng phải phân loại rủi ro trong hoạt động
ngân hàng một cách thường xuyên và chính xác; bản thân từng ngân hàng phải xác định rõ
ràng và khách quan những tiêu chí phân loại rủi ro để làm cơ sở đánh giá từng loại rủi ro
tín dụng nói riêng và mức độ rủi ro nói chung của toàn ngân hàng.

17


1.2.2.1.1.2. Đối với rủi ro hoạt động
Basel 2 định nghĩa “rủi ro hoạt động” là rủi ro xảy ra tổn thất do các quy trình, hệ
thống hay con người trong nội bộ ngân hàng vận hành không tốt hoặc do các nguyên nhân
bên ngoài. Đây là một trong những loại rủi ro quan trọng mà ngân hàng thường gặp phải
trong quá trình hoạt động của mình.
Bản Hiệp ước mới đưa ra 3 phương pháp tính toán rủi ro hoạt động:
- Phương pháp chỉ số cơ bản;
- Phương pháp chuẩn hoá;
- Phương pháp đo lường nâng cao (AMA).
a) Phương pháp chỉ số cơ bản và phương pháp chuẩn hoá
Hai phương pháp này chủ yếu áp dụng đối với những ngân hàng không phải đối mặt
với mức độ rủi ro hoạt động lớn do đặc điểm tính chất về nội dung hay phạm vi hoạt động.
Tuy nhiên, để được phép áp dụng phương pháp chuẩn hoá, ngân hàng phải có hệ thống
quản lý rủi ro hoạt động thoả mãn đầy đủ những yêu cầu tối thiểu quy định tại Basel 2.

Cả hai phương pháp này đều đòi hỏi ngân hàng phải duy trì số lượng vốn tương ứng
với một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định so với tổng giá trị rủi ro hoạt động xác định
được.Theo phương pháp chỉ số cơ bản, để tính toán số vốn tối thiểu cần đảm bảo đối với
rủi ro hoạt động, ngân hàng lấy tổng thu nhập6 bình quân hàng năm trong 3 năm gần nhất
nhân với hệ số 0,15 (hệ số này do Uỷ ban quy định).
KBIA = GI x ỏ
Trong đó :
KBIA : Số vốn tối thiểu theo phương pháp Chỉ số cơ sở
GI
: Tổng thu nhập bình quân hàng năm trong 3 năm gần nhất

: Hệ số do Uỷ ban quy định, thể hiện mối tương quan giữa mức vốn
tối thiểu chung của toàn hệ thống với mức chỉ số chung của toàn hệ
thống.
Theo phương pháp chuẩn hoá, các nội dung hoạt động của ngân hàng được chia
thành 8 lĩnh vực. Ngân hàng sẽ tính toán số vốn tối thiểu cần đảm bảo cho từng lĩnh vực
kinh doanh bằng cách nhân thu nhập thuần từ lĩnh vực kinh doanh đó với các hệ số tương
ứng theo quy định của Uỷ ban giám sát ngân hàng. Số vốn tối thiểu đối với rủi ro hoạt
động của toàn ngân hàng sẽ bằng tổng vốn tối thiểu của từng ngành/lĩnh vực kinh doanh.
KTSA = Σ (GI1-8 x õ1-8)
Trong đó :
KTSA : Số vốn tối thiểu theo phương pháp chuẩn hoá
GI1-8 : Tổng thu nhập bình quân hàng năm trong 3 năm gần nhất đối với
từng lĩnh vực kinh doanh
õ1-8
: Tỷ lệ cố định do Uỷ ban quy định, thể hiện mối tương quan giữa
mức vốn cần có với mức thu nhập của từng lĩnh vực kinh doanh, cụ
thể tại Bảng 1 như sau:
6


Tổng thu nhập bằng thu nhập thuần từ tiền lãi cộng với nhập thuần không ph ải t ừ ti ền lãi (tu ỳ thu ộc

vào quy định của chế độ kế toán từng nước). Tổng thu nhập này là thu nhập tr ước khi trích d ự phòng,
không bao gồm các khoản lãi/lỗ từ kinh doanh chứng khoán và các khoản thu nhập bất th ường, thu nh ập
từ bảo hiểm.

18


Bảng 1: Mối tương quan giữa mức vốn cần có với mức
thu nhập của từng lĩnh vực kinh doanh
Lĩnh vực kinh doanh
Tài trợ công ty (õ1)
Các hoạt động mua bán (õ2)
Hoạt động ngân hàng bán lẻ (õ3)
Hoạt động ngân hàng thương mại (õ4)
Thanh toán (õ5)
Dịch vụ đại lý (õ6)
Quản lý tài sản có (õ7)
Môi giới bán lẻ (õ8)
Nguồn: Uỷ ban Giám sát Ngân hàng - BIS
b) Phương pháp đo lường nâng cao

Hệ số beta
18%
18%
12%
15%
18%
15%

12%
12%

Theo phương pháp đo lường nâng cao, mức vốn tối thiểu ngân hàng cần duy trì sẽ
tương đương với mức rủi ro ngân hàng tính toán được bằng hệ thống đo lường rủi ro hoạt
động nội bộ của mình. Tuy nhiên, để được áp dụng phương pháp đo lường nâng cao này,
một ngân hàng phải thoả mãn các tiêu chí định lượng và định tính do Uỷ ban đặt ra và phải
được cơ quan thanh tra giám sát chấp thuận.
1.2.2.1.2. Trụ cột thứ hai: Đánh giá của cơ quan thanh tra giám sát
Trụ cột thứ hai của Hiệp ước mới về vốn dựa trên một loạt các hướng dẫn chi tiết,
trong đó nêu rõ sự cần thiết về phía ngân hàng phải đánh giá vốn trong mối tương quan với
mức độ rủi ro chung của mình, và về phía cơ quan thanh tra, giám sát phải xem xét kết quả
đánh giá này và có những biện pháp thích hợp trong trường hợp cần thiết. Mục đích của
việc này là nhằm không những đảm bảo ngân hàng có đủ vốn để bù đắp rủi ro trong hoạt
động kinh doanh, mà còn khuyến khích ngân hàng xây dựng và áp dụng các kỹ thuật quản
lý rủi ro tốt hơn.
Cơ quan thanh tra cần thẩm định mức độ chính xác trong kết quả đánh giá của ngân
hàng về nhu cầu vốn so với rủi ro, đồng thời có biện pháp can thiệp khi cần thiết. Quan hệ
tương tác qua lại như vậy sẽ góp phần tăng cường hơn nữa đối thoại tích cực giữa ngân
hàng và cơ quan quản lý, từ đó có thể nhanh chóng xác định những vấn đề tiềm ẩn và
nhanh chóng áp dụng những biện pháp cần thiết để giảm rủi ro hoặc khôi phục nguồn vốn.
Ngoài một nội dung quan trọng của Trụ cột thứ hai là đánh giá việc tuân thủ thường
xuyên các chuẩn mực tối thiểu và yêu cầu công bố thông tin đối với ngân hàng, có 3 lĩnh
vực khác cần chú ý:
• Những loại rủi ro chưa được giải quyết tại Trụ cột thứ nhất (Ví dụ: rủi ro tập trung
tín dụng).


Những yếu tố chưa được đề cập đến tại Trụ cột thứ nhất (Ví dụ: rủi ro lãi suất, rủi
ro chiến lược).




Những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến ngân hàng (Ví dụ: tác động của chu kỳ
kinh doanh).

Hoạt động giám sát theo quy định tại Trụ cột thứ hai cần đảm bảo tuân thủ một số
nguyên tắc sau đây:

19


a) Nguyên tắc thứ nhất
Ngân hàng cần đặt ra quy trình đánh giá mức vốn của ngân hàng trong mối tương
quan với những rủi ro tiềm ẩn, đồng thời có chiến lược duy trì mức vốn tối thiểu đó.
Quy trình nói trên có 5 điểm chính :
• Hoạt động giám sát của Hội đồng quản trị và ban lãnh đạo cấp cao của ngân
hàng;


Đánh giá thận trọng mức vốn tối thiểu;



Đánh giá toàn diện các loại hình rủi ro;



Chế độ kiểm tra và báo cáo;




Đánh giá của hệ thống kiểm soát nội bộ.

b) Nguyên tắc thứ hai
Cơ quan thanh tra phải định kỳ thường xuyên đánh giá chính sách của ngân hàng về
vốn, sự tuân thủ của ngân hàng đối với các tỷ lệ vốn pháp định. Cơ quan thanh tra cũng
phải kịp thời áp dụng các biện pháp cần thiết nếu phát hiện những bất cập trong quá trình
đánh giá.
c) Nguyên tắc thứ ba
Căn cứ vào đặc điểm cụ thể của thị trường, cơ quan thanh tra được quyền yêu cầu
ngân hàng duy trì vốn cao hơn mức tối thiểu theo quy định.
d) Nguyên tắc thứ tư
Cơ quan thanh tra cần phải can thiệp sớm nhằm ngăn ngừa tình trạng vốn của ngân
hàng giảm xuống thấp hơn mức tối thiểu. Tuỳ từng điều kiện cụ thể mà cơ quan thanh tra
có thể cân nhắc áp dụng các công cụ như tăng cường giám sát trực tiếp ngân hàng, giới hạn
chi trả cổ tức, yêu cầu ngân hàng xây dựng kế hoạch khôi phục lại mức vốn tối thiểu theo
quy định hoặc buộc ngân hàng phải tăng vốn ngay.
đ) Nguyên tắc thứ năm
Cơ quan thanh tra phải đảm bảo thực hiện chức năng giám sát của mình theo quy
định tại Trụ cột thứ hai một cách minh bạch và với trách nhiệm cao. Các tiêu chí mà cơ
quan thanh tra sử dụng để đánh giá ngân hàng cần được công khai. Ngay cả khi yêu cầu
một ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiều theo quy định, cơ quan thanh tra
cũng cần nêu rõ lý do.
1.2.2.1.3.Trụ cột thứ ba: Nguyên tắc thị trường
Mục đích của Trụ cột thứ ba “Nguyên tắc thị trường” trong bản Hiệp ước mới là
nhằm bổ sung cho các yêu cầu về vốn tối thiểu tại trụ cột thứ nhất và về vai trò của cơ quan
thanh tra ở trụ cột thứ hai. Một đặc điểm quan trọng của Hiệp ước mới về vốn là các ngân
hàng được trao nhiều quyền chủ động hơn trong việc xác định nhu cầu vốn của mình dựa
trên các hệ thống đánh giá nội bộ. Do vậy, nguyên tắc thị trường trong trụ cột thứ ba của

bản Hiệp ước mới sẽ giúp các thành viên tham gia thị trường có điều kiện đánh giá tốt hơn
thông tin về mức độ rủi ro và quy mô vốn của ngân hàng, qua đó tạo điều kiện để ngân
hàng và cơ quan thanh tra quản lý rủi ro hiệu quả hơn, nâng cao hơn nữa mức độ ổn định
của từng ngân hàng nói riêng và của hệ thống ngân hàng nói chung.

20


1.2.2.1.3.1. Yêu cầu chung về công bố thông tin
- Cơ quan thanh tra giám sát từng nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khác nhau để
bắt buộc các ngân hàng thực hiện yêu cầu công bố thông tin quy định tại bản Hiệp ước
Basel 2. Nội dung của từng biện pháp cụ thể sẽ tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, ví dụ
như: vị thế pháp lý của cơ quan thanh tra từng nước, vào thực trạng hoạt động công khai
thông tin của ngân hàng nước đó…
- Các yêu cầu về công bố thông tin không mâu thuẫn với chuẩn mực kế toán hiện hành. Ví
dụ: đối với những thông tin đã phải công khai theo yêu cầu của chuẩn mực kế toán hoặc
theo yêu cầu của một cơ quan có thẩm quyền khác thì ngân hàng có thể sử dụng chính
những thông tin này để đáp ứng yêu cầu tại trụ cột thứ ba của Basel 2. Khi đó, ngân hàng
chỉ cần nêu rõ những khác biệt đáng kể giữa thông tin công khai theo yêu cầu của Basel 2
và của các cơ quan chức năng khác.
- Dựa trên khái niệm “tầm quan trọng” quy định tại “Các chuẩn mực kế toán quốc tế” 7,
ngân hàng cần quyết định công bố những thông tin thích hợp. Tuy nhiên, Uỷ ban không đặt
ra bất kỳ một chuẩn mực tối thiểu nào để xác định mức độ quan trọng của thông tin cần
công bố. Ngược lại, người sử dụng thông tin sẽ tự mình đánh giá tuỳ thuộc vào từng hoàn
cảnh cụ thể.
- Thông tin cần được công bố theo định kỳ nửa năm, trừ một số trường hợp, ví dụ như :
Các thông tin mang tính chất định tính nhằm trình bày khái quát về mục tiêu và chính sách
quản lý rủi ro của ngân hàng, về hệ thống báo cáo, công bố định kỳ hàng năm,...
- Các ngân hàng hoạt động trên phạm vi quốc tế và các ngân hàng quy mô lớn khác phải
công khai thông tin về vốn cấp 1 và các tỷ lệ vốn tối thiểu theo định kỳ hàng quý.

- Nếu một số thông tin cần công khai theo yêu cầu tại Trụ cột thứ ba lại mang tính chất độc
quyền hay tuyệt mật8, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến vị thế và hoạt động của ngân
hàng thì ngân hàng không cần thiết phải công bố chi tiết về những thông tin đó. Tuy nhiên,
ngân hàng vẫn phải cung cấp những thông tin chung có liên quan, đồng thời giải thích rõ lý
do không thực hiện theo yêu cầu của Basel 2.
- Ngân hàng phải đặt ra và thường xuyên đánh giá lại chính sách về công khai thông tin,
trong đó nêu rõ phương pháp ngân hàng sử dụng để xác định những thông tin cần công bố,
quy trình kiểm soát nội bộ đối với việc công bố thông tin.
1.2.2.1.3.2. Yêu cầu cụ thể về công bố thông tin
Trong bản Hiệp ước mới về vốn Basel 2, để tăng cường hơn nữa vai trò của thị
trường trong việc đảm bảo hoạt động an toàn và lành mạnh của hệ thống ngân hàng, Uỷ
ban Giám sát ngân hàng yêu cầu các ngân hàng phải công khai thông tin về cơ cấu vốn,
mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng và chính sách quản lý rủi ro, các biện pháp hạn
chế rủi ro… Đối với từng nội dung thông tin cần công khai, Uỷ ban Giám sát ngân hàng lại
đưa ra nhiều yêu cầu khác nhau mang tính chất định lượng và định tính.
7

Một thông tin được coi là quan trọng nếu như việc bỏ sót hay trích dẫn sai thông tin đó có thể làm cho

người sử dụng thông tin thay đổi quyết định hoặc có thể ảnh hưởng đến kết quả đánh giá của người sử
dụng thông tin.
8

Thông tin độc quyền/tuyệt mật bao gồm các thông tin (ví dụ như v ề sản ph ẩm, h ệ th ống hay khách

hàng), mà nếu bị chia sẻ thì có thể ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của ngân hàng, và do đó hạ thấp
vị thế cạnh tranh của ngân hàng.

21



Ví dụ, đối với cơ cấu vốn, ngân hàng phải nêu :
- Về mặt Định tính : thông tin tóm tắt về đặc điểm cơ bản của các công cụ vốn.
- Về mặt Định lượng:
+ Vốn cấp 1, trong đó công khai thông tin riêng về từng khoản mục của vốn cấp 1.
+ Tổng vốn cấp 2 và cấp 3
+ Các khoản phải trừ khỏi vốn cấp 1 và cấp 2
+ Tổng giá trị vốn đủ tiêu chuẩn.
Tóm lại, Hiệp ước Basel về vốn mới đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của các
yêu cầu về vốn và trong nhận thức về thanh tra giám sát các ngân hàng lớn. Những thay
đổi này sẽ vượt ra khỏi phạm vi các tổ chức hoạt động ngân hàng lớn, và vì vậy, sẽ tạo ra
sự quan tâm của các thành viên tham gia thị trường khác nhau.
1.2.2.2. Sự khác nhau căn bản giữa Basel 2 và Basel 1
- Tỷ lệ an toàn vốn theo Basel 2 phản ánh chính xác hơn khả năng chống đỡ rủi ro của
ngân hàng nhờ việc tính đến 3 loại rủi ro trọng yếu (rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi
ro hoạt động). Trong đó, tỷ lệ an toàn vốn theo Basel I (năm 1988) mới chỉ phản ánh rủi ro
tín dụng và bản sửa đổi năm 1996 có đưa thêm rủi ro thị trường. So với quy định về yêu
cầu vốn tối thiểu tại Basel 1, Basel 2 thay đổi phương pháp xác định tài sản có rủi ro nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng đánh giá rủi ro của bản thân ngân hàng, qua đó làm cho tỷ lệ
vốn tối thiểu trở nên có nghĩa hơn, phản ánh được chính xác hơn khả năng chống đỡ rủi ro
của ngân hàng.
- Basel 1 nhấn mạnh rằng mức độ đủ vốn được đo lường theo khuôn khổ của Hiệp ước mặc
dù quan trọng nhưng cũng chỉ là một trong số các nhân tố cần được xem xét khi đánh giá
sức mạnh của một ngân hàng. Basel 1 chủ yếu đánh giá vốn trong mối quan hệ với rủi ro
tín dụng còn các rủi ro khác, nhất là rủi ro lãi suất và các rủi ro đầu tư vào các chứng khoán
không được tính đến. Tuy nhiên, các lần chỉnh sửa sau có tính đến một số rủi ro liên quan,
đặc biệt là rủi ro thị trường. Basel 2 đặt ra khuôn khổ các qui định về vốn mang tính nhạy
cảm hơn với các rủi ro, đồng thời chú ý thích đáng đối với đặc điểm cụ thể của hệ thống
giám sát và kế toán của các nước thành viên. Basel 2 giữ nguyên các yếu tố cơ bản của
Basel 1, bao gồm cả các qui định buộc các ngân hàng phải có tối thiểu số vốn tương đương

8% tài sản có đánh giá theo mức độ rủi ro; cấu trúc cơ bản của phần sửa đổi về rủi ro thị
trường năm 1996; định nghĩa về mức độ đủ vốn hợp lý. Có thể nói rằng Basel 2 là bước
phát triển tiếp theo của Basel 1.
- Basel 2 sử dụng nhiều các đánh giá rủi ro dựa trên cơ sở hệ thống quản trị nội bộ của
ngân hàng. Theo đó, mỗi cơ quan giám sát sẽ triển khai một loạt các qui trình rà soát để
bảo đảm rằng các hệ thống quản trị và kiểm soát nội bộ của các ngân hàng là thích hợp để
làm cơ sở cho việc tính toán vốn. Các cơ quan giám sát sẽ tập trung vào vấn đề tuân thủ
các qui định tối thiểu như là phương tiện để bảo đảm sự thống nhất chung về khả năng của
các ngân hàng đưa ra các yêu tố đầu vào cẩn trọng cho việc tính toán mức vốn chứ không
phải là mục đích.
- Basel 1 không tạo ra động cơ khuyến khích các ngân hàng sử dụng các công cụ giảm
thiểu rủi ro, chẳng hạn tài sản bảo đảm, công cụ phái sinh tín dụng,...Hệ số an toàn vốn
thiếu sự nhạy cảm đối với rủi ro. Basel 1 không khuyến khích các ngân hàng nâng cao

22


×