Tải bản đầy đủ (.docx) (84 trang)

Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.5 KB, 84 trang )

Lời nói đầu
ự báo là một công cụ đắc lực của công tác lập kế hoạch, chiến
lược phát triển, chiến lược kinh doanh, quy hoặch phát triển
dịch vụ Viễn thông… Để có được chiến lược phát triển đúng
đắn, kế hoạch phát triển khả thi và biện pháp thực hiện hợp lý
nhằm phát huy có hiệu quả các nguồn lực thoả mãn nhu cầu phát
triển kinh tế – xã hội theo các mục tiêu thì rất cần công tác dự báo.
D
Mà ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật, sự
bùng nổ của thông tin các yếu tố bất ngờ xẩy ra liên tiếp đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia nên việc dự báo được các yếu tố đó là rất cần thiết đối với
các nhà hoạch định chính sách của một quốc gia cũng như của một ngành.
Ngành Bưu điện cũng như các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, để
tồn tại và phát triển một cách bền vững thì cũng cần phải có đường lối chiến
lược đúng đắn, mà để xây dựng được chiến lược đúng đắn thì công tác dự báo
giữ một vai trò quan trọng.
Đặc biệt đối với tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt nam đã thực
hiện đường lối đổi mới và đang phát triển theo hướng trở thành một tập đoàn
kinh tế mạnh và không còn là công ty độc quyền kinh doanh trên lĩnh vực
viễn thông, cho nên trong tương lai có nhiều các doanh nghiệp trong nước và
nước ngoài sẽ tham gia vào kinh doanh các loại hình dịch vụ này, nên công
tác dự báo là rất cần thiết. Nhất là đối với các dịch vụ Viễn thông mà trong đó,
dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định giữ một vai trò quan
trọng.
Chính vì những lý do trên mà việc nghiên cứu đề tài “Dự báo nhu cầu
sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm 2010 ” là vấn đề rất cần phải quan
tâm.
Trong khuân khổ đề tài này, chủ yếu nghiên cứu dự báo nhu cầu sử
dụng dịch vụ Điện thoại cố định trên phạm vi toàn quốc và những số liệu
phục vụ cho đề tài này được thu thập từ nguồn số liệu của VNPT.
Để giải quyết những vấn đề trên, nội dung của đề tài được chia làm 3


chương chính sau:
Chương I : Những sở cứ để dự báo.
Chương II: Đánh giá tình hình sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định trong
thời gian qua.
Chương III: Dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ Điện thoại cố định đến năm
2010.
Chương I : NHỮNG SỞ CỨ ĐỂ DỰ BÁO
I. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT
NAM TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHU CẦU DỊCH VỤ VIỄN
THÔNG NÓI CHUNG VÀ DỊCH VỤ ĐIỆN THOẠI CỐ ĐỊNH NÓI
RIÊNG
1. Định hướng phát triển dịch vụ viễn thông trong văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX.
Theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đề ra trong "Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội 2001 - 2010", từ năm 2001 trở đi ngành Bưu chính - Viễn
thông phải đảm bảo cung cấp đầy đủ và thuận lợi các dịch vụ viễn thông và
Internet cho người sử dụng với chất lượng cao, giá cước thấp hơn hoặc tương
đương với các nước trong khu vực; áp dụng giá cước ưu đãi đặc biệt đối với
các cơ quan Đảng, Nhà nước và các lĩnh vực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu
khoa học; Đồng thời có chính sách đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh,
tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế tham gia các hoạt động dịch vụ viễn
thông và Internet.
2. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế .
- Định hướng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta là chuyển dịch
cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
- Có sự thay đổi lớn về cơ cấu ngành nghề trong tỷ lệ dân cư, tỷ lệ dân
cư tham gia vào các hoạt động dịch vụ, thương mại, công nghiệp tăng
lên, tỷ lệ dân cư tham gia sản xuất nông nghiệp giảm đi. Nhu cầu giao
tiếp quan hệ giữa các tầng lớp dân cư tăng cũng thúc đẩy yêu cầu phát
triển các dịch vụ Viễn thông.

- Quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh từ nay đến năm 2005 và đến năm
2010 thì điều kiện về cơ sở hạ tầng tương đối phát triển, hiện đại, mà
Viễn thông là một trong những ngành đóng vai trò nền móng cho quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó đòi hỏi ngành Viễn
thông phải phát triển toàn diện vào những năm đó.
- Sự ra đời hàng loạt của khu chế xuất, khu công nghiệp kỹ thuật cao và
trong giai đoạn 2005-2010 nhiều chương trình kinh tế trọng điểm của
Đảng, nhà nước về dầu khí, năng lượng, giao thông… sẽ thực sự phát
huy tác dụng to lớncủa nó và tạo nên một bước ngoặt về kinh tế đòi hỏi
nhu cầu thông tin cao và sự phục vụ của những dịch vụ Viễn thông
mới.
- Thị trường chững khoán hình thành và việc phát hành trái phiếu quốc tế
ở Việt nam trong một vài naưm tới đòi hỏi phải cung cấp các dịch vụ
Viễn thông cao cấp.
3. Thu nhập của dân cư
Kinh tế Việt Nam trong thời gian qua được coi là có nhiều điều kiện
thuận lợi cho phát triển viễn thông. Từ năm 1990 đến nay, tốc độ tăng trưởng
GDP hàng năm tương đối cao và ổn định, đạt khoảng 7% năm. Mặc dù năm
1997, cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á diễn ra ảnh hưởng xấu đến hầu hết
các nước trong khu vực nhưng Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng
5,5%. Năm 2001, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế Việt Nam đạt 6,84%, đứng
thứ hai thế giới.
Trước năm 1990, tích luỹ nội bộ của nền kinh tế ở mức không đáng kể,
nhưng đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Cơ cấu kinh tế có những bước chuyển
dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%,
công nghiệp từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ tăng từ 36,8% lên 39,1%.
Thu nhập quốc dân bình quân đầu người tăng ổn định trong các năm
qua, hiện nay GDP/ người của Việt Nam khoảng gần 400 USD/ người, gấp
đôi so với năm 1991. Tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức thấp.
Tất cả những yếu tố trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển

viễn thông, tạo ra tâm lý tốt cho các nhà đầu tư nước ngoài khi có dự định đầu
tư cho Việt Nam đặc biệt là trong lĩnh vực viễn thông. Kinh tế phát triển cao
và ổn định kéo theo nhu cầu sử dụng các dịch vụ viễn thông tăng lên.
4. Đặc điểm dân cư thay đổi.
- Cùng với sự phát triển tiến bộ của xã hội loài người, trình độ dân trí của
người dân Việt nam được nâng cao không ngừng, mong muốn được
tiếp cận với nền văn minh nhân loại mà sự phát triển vượt bậc của Viễn
thông mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu này.
- Với số dân khoảng 84 triệu người vào năm 2005, khoảng 90 triệu người
vào 2010 đó là thị trường rộng lớn là điều kiện thuận lợi để các nhà
cung cấp dịch vụ viễn thông khai thác.
5. Các yếu tố chính trị , quan hệ quốc tế tác động tới việc mở rộng thị
trường Viễn thông Việt nam.
Việt nam hiện đã là thành viên chính thức của ASEAN và tham gia
AFTA, Việt nam cũng đang trên tiến trình gia nhập APEC và WTO. Khi đã
gia nhập các tổ chức trên thì các ràng buộc về mở cửa là bắt buộc không thể
tránh khỏi. Xu hướng mở cửa, hội nhập trên cùng với các nhu cầu giao lưu
phát triển đã và sẽ có ảnh hưởng sâu sắc tới sự phát triển của thị trường Viễn
thông các nước nói chung và thị trường viễn thông Việt nam nói riêng.
Vì vậy thì trường Viễn thông Việt nam phải phát triển để hạ tầng cơ sở
thông tin của Việt nam ngang mức với các nước trong khu vực và trên thế
giới.
Trên đây là những yếu tố từ nội lực nền kinh tế Việt nam tác động đến
sự phát triển nhu cầu các dịch vụ Viễn thông, ngay trong bản thân ngành Viễn
thông Việt nam cũng như ngành Viễn thông trên thế giới cũng tạo ra nhu cầu
của chính nó.
II. ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐẶC TRƯNG KINH TẾ CÁC SẢN PHẨM DỊCH
VỤ VIỄN THÔNG
1. Đặc điểm sản phẩm dịch vụ Viễn thông
Bất kỳ một hệ thống kinh tế, một doanh nghiệp nào cũng đều phải

giải quyết ba vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho
ai? Để giải quyết các vấn đề này cần phải nghiên cứu đầy đủ các đặc điểm
ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành, của doanh
nghiệp. Viễn thông là một ngành sản xuất dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng của
nền kinh tế quốc dân, Viễn thông cũng có những đặc điểm đặc thù riêng
của mình. Các đặc điểm đó bao gồm:
a) Tính không vật chất của sản phẩm Viễn thông:
Sản phẩm Viễn thông không phải là sản phẩm vật chất chế tạo mới,
không phải là hàng hoá cụ thể mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền
đưa tin tức từ người gửi đến người nhận, sản phẩm Viễn thông thể hiện
dưới dạng dịch vụ như dịch vụ điện thoại cố dịnh, chương trình phát thanh
truyền hình, truyền số liệu… Hiệu quả có ích này rất cần thiết cho tất cả
các mặt sinh hoạt và hoạt động của con người kể cả trong lĩnh vực sản xuất
ra vật phẩm tiêu dùng trong lĩnh vực tiêu dùng xã hội và cá nhân.
b) Quá trình sản xuất kinh doanh gắn liền với quá trình tiêu thụ sản
phẩm.
Quá trình sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ Viễn thông nó khác với quá
trình sản xuất ra các sản phẩm vật chất khác phải trải qua bốn khâu: sản
xuất - lưu thông - phân phối - tiêu dùng mà sản phẩm Viễn thông chỉ trải
qua hai khâu trùng nhau là sản xuất và tiêu dùng. Đặc điểm này thể hiện rõ
nhất trong điện thoại, nơi mà quá trình truyền đưa tín hiệu điện thoại là
quá trình sản xuất được thực hiện với sự tham gia của người nói, tức là quá
trình sản xuất xảy ra đồng thời với quá trình tiêu dùng.
c) Quá trình sản xuất Bưu chính Viễn thông mang tính dây truyền.
Để truyền đưa tin tức hoàn chỉnh từ người gửi đến người nhận
thường có từ hai hay nhiều cơ sở Viễn thông tham gia, mỗi cơ sở chỉ thực
hiện một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh
đó. Để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh mỗi cơ sở Viễn thông thường chỉ làm
nhiệm vụ hoặc là “giai đoạn đi” hoặc là “giai đoạn đến”, “giai đoạn quá
giang”. Vì vậy trong Bưu điện tồn tại hai khái niệm về sản phẩm là : sản

phẩm ngành và sản phẩm cơ sở.
Có nhiều cơ sở Bưu chính Viễn thông tham gia vào quá trình truyền
đưa tin tức hoàn chỉnh trong khi đó việc thanh toán cước chỉ diễn ra ở một
nơi thường là nơi chấp nhận tin tức đi. Chính do đặc điểm này trong giai
đoạn hiện nay toàn khối thông tin phải thực hiện hạch toán tập trung. Toàn
bộ doanh thu được tập trung về một mối, chi phí cân đối từ một nguồn.
Những đơn vị có doanh thu, lợi nhuận cao hỗ trợ các đơn vị có doanh thu
thấp. Doanh thu cước là doanh thu của ngành mà cơ sở Bưu điện thu hộ.
Do vậy cần phải phân chia doanh thu cước Viễn thông nhăm mục đích xác
định kết quả công tác của mỗi cơ sở Bưu điện dưới dạng giá trị.
d) Trong thời gian tải trọng của ngành Bưu chính Viễn thông tải trọng giao
động không đều theo thời gian và không gian.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức rất đa dạng, nó xuất hiện không đều về
không gian và thời gian.
Nhu cầu về truyền đưa tin tức có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trên
trái đất. ở đâu có con người thì ở đó có nhu cầu về thông tin và nhu cầu về
truyền tin tức xuất hiện không đồng đều theo các giờ trong ngày và đêm,
theo các ngày trong tuần, theo các tháng trong năm. Thường nhu cầu về
truyền tin phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt xã hội, vào những giờ ban ngày,
giờ làm việc của các cơ quan, xí nghiệp, vào các kỳ báo cáo, các dịp lễ tết...
thì lượng nhu cầu rất lớn. Chính đặc điểm này có ảnh hưởng rất lớn tới
công tác tổ chức sản xuất kinh doanh trong ngành Viễn thông.
Sự giao động không đồng đều của tải trọng cộng với những quy định
về tiêu chuẩn chất lượng đã được đặt ra khiến các doanh nghiệp Viễn thông
không thể “tích luỹ” tin tức được mà phải tiến hành truyền đưa tin tức đảm
bảo thời gian truyền đưa tin tức thực tế nhỏ hơn hoặc bằng thời hạn kiểm
tra.
Để đảm bảo lưu thoát hết mọi nhu cầu về truyền đưa tin tức cần phải
có một lượng dự trữ đáng kể về các phương tiện, thiết bị thông tin, về lao
động. Chính sự không đồng đều của tải trọng đã làm phức tạp thêm rất

nhiều cho việc tổ chức quá trình sản xuất, tổ chức lao động trong các doanh
nghiệp Viễn thông. Yêu cầu phải có khả năng cho qua đảm bảo lưu thoát
hết khối lượng nghiệp vụ ở giờ có tải trọng lớn nhất. Do vậy trong ngành
Bưu điện nói chung và các doanh nghiệp Viễn thông nói riêng có hệ số sử
dụng trang thiết bị và hệ số sử dụng lao động bình quân thường thấp hơn so
với các ngành khác. Ngoài ra nhu cầu truyền đưa tin tức có thể xuất hiện
bất kỳ khi nào để thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng ngành Bưu điện
phải hoạt động 24/24 giờ trong ngày đêm. Sẽ tồn tại những khoảng thời
gian mà phương tiện thông tin và lao động được bố trí để thường trực.
2. Các đặc trưng kinh tế của sản phẩm Viễn thông.
Sản phẩm Viễn thông có những đặc trưng sau:
- Đặc trưng 1: Sản phẩm Viễn thông có vai trò thiết yếu đối với đời sống
xã hội.
- Đặc trưng 2: Các loại dịch vụ Viễn thông có khả năng thay thế lẫn nhau
trong giới hạn nhất định. Thay vì sử dụng điện thoại di động, người ta thường
mua card phone (điện thoại dùng thẻ) để sử dụng tại các điểm điện thoại
công cộng với chi phí thấp hơn nhưng khả năng tiện lợi lại kém hơn.
- Đặc trưng 3: Do quá trình tiêu dùng sản phẩm Viễn thông không tách rời
quá trình sản xuất nên sản phẩm Viễn thông không thể tồn tại được ngoài quá
trình sản xuất để đi vào lưu thông như các sản phẩm khác, do vậy sản phẩm
hay kết quả sản xuất cuối cùng của hoạt động sản xuất không thể cất giữ được
ở trong kho, không dự trữ được...
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DỰ BÁO
Khái niệm dự báo:
Dự báo là sự tiên đoán có căn cứ khoa học, mang tính chất xác suất
về mức độ, nội dung, các mối quan hệ, trạng thái, xu hướng phát triển của
đối tượng nghiên cứu hoặc về cách thức và thời hạn đạt được các mục tiêu
nhất định đã đề ra trong tương lai.
Tiên đoán là hình thức phản ánh vượt trước về thời gian hiện thực
khách quan, đó là kết quả nhận thức chủ quan của con người dựa trên cơ sở

nhận thức quy luật khách quan trong sự vận động và phát triển của sự vật
và hiện tượng. Có thể phân biệt ba loại tiên đoán:
+ Tiên đoán không khoa học : là những tiên đoán không có cơ sở
khoa học, chỉ dựa trên cảm nhận chủ quan của con người.
+ Tiên đoán kinh nghiệm : là những tiên đoán dựa trên chuỗi thông
tin lịch sử, ít nhiều có cơ sở khách quan. Tuy nhiên sự tiên đoán này không
giải thích được xu thế vận động của đối tượng kinh tế và đa số chỉ dừng lại
ở mức định tính.
+ Tiên đoán khoa học : là những tiên đoán dựa trên sự phân tích mối
quan hệ qua lại giữa các đối tượng kinh tế – xã hội bằng phương pháp xử lý
thông tin khoa học, nhằm phát hiện ra quy luật vận động của đối tượng
kinh tế cần dự báo.
Tính chất khoảng thời gian hữu hạn của dự báo thể hiện ở sự chênh
lệch giữa thời điểm dự báo và thời điểm mà người ta gọi là tầm xa của dự
báo, khoảng cách này không thể tuỳ tiện mà nó phụ thuộc vào mức độ ổn
định của đối tượng kinh tế trong quá trình phát triển của nó.
Chức năng và vai trò của dự báo
Chức năng:
Bao gồm các chức năng sau:
- Chức năng tham mưu: Trên cơ sở đánh giá thực trang, phân tích xu
hướng vận động và phát triển trong quá khứ, hiện tại, tương lai, dự báo
sẽ cung cấp thông tin cần thiết, khách quan làm căn cứ cho việc ra
quyết định quản lý và xây dựng chiến lược, kế hoạch hoá các chương
trình, dự án…Người quản lý và hoạch định chiến lược, lập kế hoạch có
nhiệm vụ phải lựa chọn trong số các phương án có thể có, tìm ra các
phương án có tính khả thi cao nhất, có hiệu quả cao nhất.
- Chức năng khuyến nghị hay điều chỉnh: Chức năng này dự báo tiên
đoán các hậu quả có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính
sách kinh tế - xã hội nhằm giúp các cơ quan chức năng kịp thời điều
chỉnh mục tiêu cũng như cơ chế tác động quản lý để đạt được hiệu quả

kinh tế xã hội cao nhất.
Vai trò của dự báo:
Dự báo có vai trò quan trọng trong quá trình ra quyết định quản lý
đối với bất kỳ ngành, lĩnh vực nào trong nền kinh tế quốc dân . Cũng như
vậy trong quản lý kinh tế vĩ mô đối với lĩnh vực Bưu chính Viễn thông, vai
trò quan trọng của công tác dự báo trước hết được thể hiện đối với công tác
kế hoạch hoá, điều đó được thể hiện ở các nội dung sau:
- Đánh giá thực trạng phát triển bưu chính viễn thông
- Dự báo các xu hướng phát triển bưu chính viễn thông đã và đang hình
thành và dự kiến những xu hướng phát triển tương lai.
- Xác định chiến lược tổng thể phát triển bưu chính viễn thông trong thời
kỳ dài hạn.
- Xây dựng các kế hoạch phát triển bưu chính viễn thông 5 năm và hàng
năm.
- Soạn thảo các chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra trong
chiến lược dài hạn về kế hoạch 5 năm.
3. Phân loại dự báo
Người ta có thể phân loại dự báo nhu cầu theo các tiêu chí khác nhau:
theo mục tiêu dự báo, thời gian dự báo, theo cấp độ …
3.1. Phân loại dự báo theo mục tiêu
Tuỳ theo mục tiêu dự báo, dự báo nhu cầu có thể phục vụ cho mục tiêu
nghiên cứu các chính sách quản lý hoặc chiến lược khác hoặc nhằm thiết kế
để tính toán cụ thể số lượng thiết bị.
Đối với mục tiêu nghiên cứu các chính sách quản lý hoặc chiến lược
khác, dự báo nhu cầu và chi phí tương lai để có thể đưa ra một chính sách
toàn diện. Bởi vậy, thường áp dụng phương pháp dự báo vĩ mô cho quốc gia
hoặc cho mỗi vùng.
Đối với mục tiêu là để tính toán cụ thể kế hoặch thiết bị cho việc lắp đặt
mới hoặc lắp đặt thêm các thiết bị chuyển mạch, thiết bị cáp nội hạt ở mỗi
một vùng tổng đài, dự báo nhu cầu được lựa chọn dựa vào nghiên cứu chi tiết

theo từng khu vực, từng nhóm dịch vụ hoặc nghiên cứu theo nhóm ở mỗi
vùng tổng đài.
3.2. Phân loại theo thời gian dự báo
Tuỳ theo giai đoạn làm dự báo, dự báo nhu cầu được phân thành dự báo
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
a) Dự báo ngắn hạn
Dự báo này chỉ trong vòng 1 hoặc 2 năm và dùng để dự báo kế hoặch
thiết bị hàng năm. Nó đòi hỏi các thông tin chính xác về các điều kiện kinh tế,
khả năng về ngân quỹ và số các đơn chở
b) Dự báo trung hạn
Dự báo cho 3 hoặc 5 năm tiếp theo và dùng để dự báo một kế hoặch lắp
đặt mới hoặc bổ sung thêm cho thiết bị chuyển mạch và truyền dẫn.
Đối với dự báo ngắn hạn và trung hạn, thường sử dụng phương pháp
chuỗi thới gian. Phưong pháp này cho rằng xu hướng của chuỗi số liệu thực ở
hiện tại sẽ được áp dụng cho dự báo tương lai. Phương pháp chuỗi thời gian
có thể bị ảnh hưởng bởi các điều kiện kinh doanh hoặc các điều kiện kinh tế.
Đứng trên góc độ của mỗi vùng tổng đài, nó sẽ bị ảnh hưởng lớn bởi các kế
hoăch phát triển đô thị hoặc các kế hoặch phát triển vùng.
c) Dự báo dài hạn
Dự báo dài hạn thường là 5 năm hoặc nhiều hơn, dự báo này thường áp
dụng cho các kế hoặch đầu tư thiết bị với quy mô lớn. Trong trường hợp này,
không thể sử dụng phương ppháp chuỗi thời gian mà còn phải xem xét đến
các yếu tố khác như mức sống dân cư và sự thay đổi cuộc sống xã hội. Về căn
bản phải sử dụng phương phap dự báo gián tiếp, liên quan đến so sánh quốc
tế, các yếu tố điện thoại (như mật độ điện thoại) và các yếu tố nhân khẩu học.
d) Điều chỉnh dự báo
Đối với giai đoạn dự báo khác nhau, một loại phương pháp dự báo khác
được sử dụng. Phương pháp này có thể được áp dụng cho tất cả các loại dự
báo như ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Bởi vậy, cần yêu cầu các bước sau:
- Khi sử dụng 2 phương pháp khác nhau, các giá trị dự báo chồng chéo

phải được điều chỉnh.
- Khoảng cách giữa các đường cong tăng trưởng của 2 giai đoạn kế tiếp
nhau mà không trùng nhau cũng phải được điều chỉnh.
Hình 1.1 cho thấy một phương pháp điều chỉnh phần cong nối giữa hai
đường cong được tạo ra bởi hai phương pháp khác nhau, những giá trị
cuối của đường cong ngắn hạn sẽ là những giá trị bắt đầu của mô hình
tăng trưởng trong trung hạn và dài hạn.
Trung và dài hạn
Dự báo lưu
lượng
Ngắn hạn
Thời gian dự báo
Hình 1.1 Điều chỉnh dự báo.
3.3. Phân loại theo cấp độ vùng dự báo
Phân loại theo cấp độ vùng dự báo được chia thành hai loại : Dự báo vĩ
mô và Dự báo vi mô. Dự báo cho những vùng lớn như nhu cầu điện thoại của
một quốc gia thì gọi là dự báo vĩ mô, còn dự báo cho một vùng địa phương
chẳng hạn như nhu cầu điện thoại của một vùng tổng đài được gọi là dự báo
vi mô
a) Dự báo vĩ mô
Đối với dự báo vĩ mô phải thu thập rất nhiều các thống kê xã hội. Do
đó, cần thực hiện những nghiên cứu tỉ mỉ.
b) Dự báo vĩ mô
Dự báo vi mô được phân loại thành nghiên cứu tổng quan đối với dự
báo nhu cầu của tất cả các vùng tổng đài và nghiên cứu theo nhóm đối với dự
báo phân bổ vùng cáp thuê bao.
Dự báo vi mô cũng được áp dụng cho việc thiết kế lắp đặt các thiết bị
mới hoặc các thiết bị lắp đặt thêm như cáp và kế hoạch phân bổ tổng đài.
c) Điều chỉnh dự báo
Giữa tổng giá trị dự báo vi mô và kết quả dự báo vĩ mô thông thường

có một vài sự khác biệt. Các số liệu thống kê ổn định khó có thể thu thập
được ở những vùng nhỏ và điều này có thể dẫn tới một số sai lệch. Bởi vậy,
dự báo trược tiếp ở những vùng lớn thường chính xác hơn là tổng kết quả dự
báo vi mô.
Điều chỉnh dự báo lam tăng độ chính xác của dự báo, tạo ra sự tương
xứng giữa dự báo vĩ mô và dự báo vi mô.
4. Các bước dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ điện thoại cố định.
Bao gồm 5 bước sau:
Bước 1: Xác định các mục tiêu dự báo
Bước đầu tiên của công việc dự báo là phải xác định rõ các mục tiêu dự
báo. Thông thường các mục tiêu dự báo gồm nhu cầu của dân cư và nhu cầu
của các cơ quan và cũng phải xác định vùng mục tiêu dự báo là của từng tỉnh,
toàn quốc hay là vùng tổng đài. Và dự báo cho giai đoạn 5 năm, 10 năm hay
15 năm…
Bước 2: Các số liệu cần thu thập
Trong bước này phải xác định được yếu tố nào ảnh hưởng đến các mục
tiêu dự báo và những số liệu nào nên thu thập. Các số liệu thu thập được phải
được phân loại và sắp xếp theo thứ tự thời gian để việc phân tích chúng được
dễ dàng.
Các số liệu liên quan đến dự báo nhu cầu điện thoại như sau:
- Nhu cầu điện thoại, mật độ điện thoại
- Dân số, số hộ gia đình
- Số các cơ quan
- Mức GDP/người
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế
- Các qui hoạch phát triển vùng hay qui hoạch tổng thể phát triển của
từng tỉnh thành phố hay toàn quốc
Bước 3: Tiếp cận và phân tích xu hướng nhu cầu
Xu hướng nhu cầu được phân tích theo quan điểm như sau:
- Các giá trị quá khứ

- Cơ cấu thị trường điện thoại
- Nguồn nhu cầu
- Mật độ điện thoại
- Các đặc điểm của vùng nghiên cứu
- So sánh với các vùng khác và các quốc gia khác
Bước 4: Nghiên cứu các kỹ thuật dự báo và tính toán giá trị dự báo
Các phương pháp dự báo :
- Phương pháp chuỗi thời gian
- Phương pháp mô hình hoá
- Phương pháp hồi qui tương quan
- Các phương phương pháp khác
Thông qua các số liệu thu thập được để xác định phương pháp dự báo cho
phù hợp. Tuy nhiên, để cho giá trị dự báo đảm báo độ chính xác cao hơn,
điều quan trọng là nên chọn phương pháp khả thi nhất và chọn các giá trị
tối ưu.
Bước 5: Xác định các giá trị dự báo
Từ việc phân tích ở bước 3 và dựa vào các kết quả dự báo sau khi sử
dụng các kỹ thuật dự báo, các giá trị tối ưu sẽ được quyết định.
5. Một số phương pháp dự báo nhu cầu thường dùng.
Các phương pháp thường sử dụng khi dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ
bao gồm:
- Phương pháp ngoại suy (chuỗi thời gian )
- Phương pháp hồi quy tương quan
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp nghiên cứu thị trường
- Phương pháp khảo sát quốc tế
1. Phương pháp ngoại suy (chuỗi thời gian)
5.1.1 Khái niệm:
Ngoại suy là một trong các phương pháp dự báo nhu cầu thường dùng
trong kinh tế. Đặc trưng của phương pháp này là sử dụng các công cụ thống

kê toán, phân tích các chuỗi số liệu thống kê để phát hiện ra mối liên hệ bản
chất, mang tính quy luật của nhu cầu, từ đó suy rộng ra cho thời kỳ tương lai.
Do vậy có thể khái niệm phương pháp ngoại suy như sau:
Phương pháp ngoại suy là sự kéo dài quy luật của nhu cầu trong quá
khứ cho thời kỳ tương lai.
Các dạng hàm được xây dựng trên cơ sở chuỗi giá trị thực nghiệm theo
thời gian của nhu cầu nhằm mô tả xu thế vận động có tính quy luật trong thời
gian của nhu cầu, xem thời gian là biến số, đều là những hàm xu thế và đều
thuộc phương pháp này, với tư cách là những công cụ để ngoại suy.
Các phương pháp ngoại suy rất thích hợp cho dự báo ngắn hạn. Cơ sở
lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn cho thấy giới hạn thời gian dự báo tốt nhất
là bằng 1/3 độ dài chuỗi giá trị thực nghiệm. Bởi vì việc phổ biến quy luật
trong lịch sử chỉ có ý nghĩa, có hiệu lực và đảm bảo giá trị tin cậy khi sang
một tương lai ngắn.
Nhược điểm chủ yếu của phương pháp ngoại suy:
Không giải thích được kết quả dự báo khi có bất thường xảy ra và nó
chỉ dự báo được trong tình hình không có những biến động như đã nêu trong
giả thiết.
Sự tăng giảm đột ngột nhu cầu khiến cho người dự báo lúng túng vì
không biết nguyên nhân của hiện tượng. Do đó phương pháp ngoại suy chỉ áp
dụng cho dự báo ngắn hạn.
5.1.2 Các biểu thức dùng cho phương pháp ngoại suy:
Phương trình tuyến tính và phương trình bậc hai khá phù hợp với dự
báo ngắn hạn. Hàm mux và hàm logistic phù hợp cho dự báo dài hạn.
* Phương pháp trình tuyến tính:
y
t
= a + bt
Khi dữ liệu theo chuỗi thời gian có dạng tuyến tính, đường này được
ứng dụng cho:

- Dự báo ngắn hạn.
- Trường hợp nhu cầu ít thay đổi.
Y= a + bt (b>0)
Hình1.2 : Phương trình tuyến tính.
* Nếu sử dụng số liệu của hai năm quá khứ T
1
, T
2
thì chúng có thể được tính
như sau:

Với:
T
1
: mật độ thuê bao quá khứ tại năm t
1
T
2
: mật độ thuê bao quá khứ tại năm t
2
Tuy nhiên, để tăng độ chính xác của kết qủ dự báo có thể sử
dụng phương pháp bình phương bé nhất. Khi đó a, b được tính như
sau:
Hệ số tương quan được xác định bằng công thức:
* Phương trình bậc 2:
Obj111
Obj112
Obj113
Obj114
Obj115

Obj116
Khi dữ liệu theo chuỗi thời gian có dạng đồ thị của phương trình bậc
2, đường dự báo này ứng dụng cho:
Dự báo ngắn hạn và trung hạn.
Tuy nhiên, lựa chọn thời hạn dự báo phải cẩn thận cân nhắc đến thời
gian xu hướng của nhu cầu hiện tại.
Trong đó a, b, c là các tham số và là nghiệm của hệ phương trình:
Y= a + bt + ct
2
(c > 0)
Hình 1.3 : Phương trình bậc 2.
* Hàm mũ:
Khi chuỗi thời gian có dạng hàm mũ thì được ứng dụng cho các
trường hợp sau:
Dự báo ngắn hạn và trung hạn.
Tuy nhiên, lựa chọn thời hạn dự báo phải cẩn thận cân nhắc đến thời
gian xu hướng của nhu cầu hiện tại.
Y = k + a.b
t
Obj117
( a>0, b>1)
Hình 1.4 : Hàm mũ.
* Hàm mũ điều chỉnh:
Khi chuỗi số liệu có dạng hàm mũ, được giả định trong tương lai sẽ đạt
đến trạng thái bão hoà, dạng hàm này sẽ được áp dụng cho trường hợp sau:
Dự báo dài hạn.
Trường hợp xu hướng phát triển của vùng vẫn tiếp tục nhưng qui mô
giảm dần.
Y= K – a.b
t

( a>0)
Hình 1.5 : Hàm mũ điều chỉnh.
Phương trình này áp dụng cho dự báo ngắn hạn ít thay đổi
Trong đó:
x
t
: biến thời gian
y
t
: mật độ thuê bao (số thuê bao trên đầu người hoặc trên
từng hộ gia đình… và có thể phân theo từng loại thuê
bao khác nhau ) tại năm t.
a, b là các tham số .
Nếu sử dụng số liệu của hai năm quá khứ T
1
, T
2
thì chúng có thể được
tính như sau:
Obj118
Với:
T
1
: mật độ thuê bao quá khứ tại năm t
1
T
2
: mật độ thuê bao quá khứ tại năm t
2
Tuy nhiên, để tăng độ chính xác của kết quả dự báo có thể sử dụng

phương pháp bình phương bé nhất. Khi đó a và b được tính như sau:
Hệ số tươn quan được xác định bằng công thức:
* Đường logistic:
Phương trình:
Với:
y : Tỷ lệ thuê bao (số thuê bao/100 dân hoặc 100 hộ gia đình)
S : Saturation- mức bão hoà
k, t: các tham số được xác định dựa trên tỷ lệ thuê bao tại năm cơ
sở (p
0
) và năm đích (pt)
Đầi vào:
Tỷ lệ thuê bao năm cơ sở và năm đích : p
0
, pt
Obj119
Obj120
Obj121
Obj122
Obj123
Mức bão hoà : S
Đầu ra:
Tỷ lệ thuê bao tại các năm t: pt (0<t<1)
2. Phương pháp hồi qui tương quan
5.2.1 Khái quát:
Giữa các hiện tượng kinh tế luôn tồn tại mối liên hệ ràng buộc lẫn nhau,
thậm chí ngay trong cùng một hiện tượng có nhiều tiêu thức khác nhau thì
những tiêu thức đó cũng có mối quan hệ nhất định, ta gọi là mối liên hệ tương
quan. Tuỳ theo mục đích mà có thể chọn một, hai hay nhiều tiêu thức. Nhình
chung các yếu tố kinh tế xã hội đều có liên quan đến nhu cầu, đó là:

Dân số, hộ gia đình.
Số cơ quan.
Tỷ lệ tăng thu nhập.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Các kế hoạch phát triển đô thị.
5.2.2 Lược đồ phương pháp:
Một cách tổng quát, từ số liệu điều tra được về nhu cầu dịch vụ điện
thoại di động cần dự báo, ta xác định các biến kinh tế chủ yếu gồm biến phụ
thuộc y và các biến độc lập .
Bằng phương pháp thực nghiệm, ta xác định được hàm hồi quy tương
qua biểu thị quan hệ giữa y với :
Trong đó :
Obj124
Obj125
Obj126
y : là biến phụ thuộc (nhu cầu thuê bao, mật độ thuê
bao…).
β
1
, β
2
, …β
n
: là các hệ số thể hiện mối quan hệ về lượng
giữa Y
t
và X
t

x

1
, x
2
,…, x
n
: là các biến độc lập (GDP, chi tiêu cho đầu tư,
chi tiêu cho tiêu dùng, dân số, hộ gia
đình…).
ε
t
: Là độ sai lệch của dự báo.
Từ số liệu quá khứ và hiện tại của các yếu tố kinh tế y và x
i
, bằng
phương pháp ước lượng ta ước lượng các tham số
Giả sử các ước lượng đó là
Khi đó ta có:
(*)
(*) gọi là hàm hồi quy mẫu. Hàm này phản ánh gần đúng quy
luật quan hệ của các yếu tố kinh tế của đối tượng kinh tế cần dự báo, với sai
số là là phần dư hồi quy).
Dùng phương pháp ước lượng ta sẽ dự đoán được giá trị của một số
biến kinh tế chủ yếu của đối tượng dự báo.
5.2.3 Mô hình dự báo thường dùng:
a- Mô hình hồi quy tuyến tính đơn.
y
t
= a + bx
t
Obj127Obj128

Obj129
Obj130
Obj131
Hệ số a, b được xác định bằng phương pháp bình phương bé nhất như
sau:
b- Mô hình tuyến tính bội.
Miêu tả bằng đường tuyến tính các biến mục tiêu (như nhu cầu) với
các biến giải thích khác
Mô hình hồi quy tuyến tính được biểu diễn bằng công thức sau:
Y
t

= a
t
+ b
1
x
1
t
+ b
2
x
2
t
+ … + b
n
x
n
t
+ 

t
Trong đó:
Y
t
: biến phụ thuộc, nhu cầu thuê bao hoặc mật độ thuê bao.
a
t
: các hằng số trong phương trình cần được xác định.
b
1
, b
2
,…, b
n
: các hệ số thể hiện mối quan hệ về lượng giữa Y
t
và x
t

x
1t
, x
2t
,…, x
nt
: các biến độc lập (Ví dụ: GDP, dân số, số hộ gia đình)

t
: độ sai lệch của dự báo
Sử dụng dữ liệu quá khứ (số thuê bao hoặc mật độ thuê bao, dữ liệu

kinh tế– xã hội) để tính toán các tham số a
t
, b
1
, b
2
,…, b
n
của mô hình.
Một số mô hình kinh tế lượng thường được sử dụng: Logarit kép, bán
Logarit, Logarit đảo.
- Logarit kép:
LnY
t
=  + lnX
t
+ 
t
Trong đó :
Y
t
: Mật độ thuê bao năm t.
X
t
: biến độc lập.

t
: độ sai lệch.
Obj132
Obj133

- Bán Logarit :
LnY
t
=  + X
t
+ 
t
Y
t
=  + lnX
t
+ 
t
1
Y
t
=  +  + 
t
X
t
Trong đó :
Y
t
: Mật độ thuê bao năm t.
X
t
: biến độc lập.

t
: độ sai lệch.

- Logarit đảo :
Dạng mô hình kinh tế lượng với một biến độc lập.
Y
t
=  + X
t
+ 
t
Trong đó :
Y
t
: Mật độ thuê bao năm t.
X
t
: biến độc lập.

t
: độ sai lệch.
, : là các tham số được xác định theo phương pháp bình
phương bé nhất dựa trên dữ liệu quá khứ () thể hiện các
giá trị của dự báo , .
1, 2, …, r : là các năm trong quá khứ.
Trong đó:
Obj134
Obj135
Lựa chọn công thức hồi quy :
Công thức hồi quy thích hợp được lựa chọn theo mối quan hệ của
nguyên nhân và ảnh hưởng, giữa nhu cầu và biến số giải thích. Quan trọng là
mối quan hệ chung giữa nhu cầu và các hệ số giải thích sẽ được lưu giữ trong
tương lai.

Lựa chọn biến số giải thích :
Trong các nhân tố có liên quan đến nguyên nhân và ảnh hưởng hoặc
quan hệ chung với nhu cầu, có một số biến giải thích được lựa chọn theo tiêu
chuẩn sau:
Ảnh hưởng của nhu cầu lớn.
Số liệu có thể dự báo.
Khi sử dụng hai hoặc hơn hai biến số giải thích, không có sự tương
quan chặt chẽ giữa chúng.
5.2.4 Hệ số tương quan (r):
Đây là tiêu thức đặc trưng cho mối liên hệ chặt chẽ giữa tiêu thức
nghiên cứu và toàn bộ các biến giải thích.
Hệ số tương quan được mô tả trong công thức sau :
r luôn ở trong khoảng (0,1). Trong đó r càng gần 1 thì quan hệ giữa y và
các x
i
càng chặt chẽ, r càng gần 0 thì mối quan hệ đó càng lỏng lẻo.
Obj136
Obj137
Obj138

×