Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn dạy từ đồng âm từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (372.56 KB, 21 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài
Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua
giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực
mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt.
Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt động học tập trong giờ Tiếng Việt được
giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý.
Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều nghĩa được bắt đầu đưa vào chương trình
Tiểu học ở lớp 5 với 5 tiết từ bài 10, 12,13,14,16. Vấn đề từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa là một vấn đề khá phức tạp, dễ nhầm lẫn. Dân gian có câu:”Phong ba bão
táp không bằng ngữ pháp Việt Nam.”.
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, mảng nội dung nghĩa của từ được
tập trung và được biên soạn có hệ thống trong phần luyện từ và câu. Nhiều năm
liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm
được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng không mấy vất
vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em bắt đầu có sự
nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa của học sinh
không được như mong đợi của cô giáo. kể cả một số học sinh khá, giỏi đôi khi
cũng làm thiếu chính xác. Trăn trở về vấn đề này, qua những năm dạy lớp 5 tôi, đã
rút ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách dạy từ đồng âm , từ nhiều nghĩa , bài tập
phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa. Sau đây tôi xin được chia sẻ những kinh
nghiệm nhỏ ấy qua bài viết:"Một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa,
phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa".
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
a) Mục tiêu
- Giúp học sinh nhận diện , phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau.
- Giúp học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
b) Nhiệm vụ
Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa.



1


Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trên lớp
có sự lồng ghép, gợi mở kiến thức môn tiếng Việt.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 5B, Trường Tiểu học Phan Bội Châu, TT Buôn Trấp, Krông
Ana, năm học 2014-2015.
I.4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ
đồng âm với từ nhiều nghĩa, các biện pháp này chưa được nhân rộng mà chỉ áp
dụng tại lớp tôi chủ nhiệm.
Môn Tiếng Việt lớp 5.
I.5. Phương pháp nghiên cứu
a) Nghiên cứu tài liệu
Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục, tài liệu hướng dẫn về tăng cường
Tiếng Việt của dự án PEDC, … có liên quan đến nội dung đề tài.
Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo.
b) Nghiên cứu thực tế
Dự giờ trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung cần đạt đối với HS lớp
5.
Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
Khảo sát, thống kê chất lượng học tập của học sinh.
c) Áp dụng với học sinh
- Phương pháp hỏi đáp

- Hình thức học cá nhân

- Phương pháp giảng giải


- Thảo luận nhóm .

-Phương pháp trực quan

- Tổ chức trò chơi.

- Phương pháp luyện tập thực
hành.
II. NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận
II.1.1 Cơ sở pháp lý
2


- Sách Tiếng Việt lớp 5 tập Một ,Sách giáo viên Lớp 5 tập Một, Sách Chuẩn
kiến thức và kĩ năng bậc Tiểu học.
- Công văn số 896/BGD&ĐT- GDTH.Về việc Hướng dẫn điều chỉnh việc
dạy và học cho học sinh Tiểu học .
- Hướng dẫn số 9890/BGDĐT- GDTH. Về việc hướng dẫn nội dung
phương pháp giáo dục học sinh có hoàn cảnh khó khăn.
II.1.2. Một số vấn đề về lý luận
Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy – học Tiếng Việt bao gồm:
Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy; Nguyên tắc hướng
hoạt động vào giao tiếp. Nguyên tắc chú ý tới trình độ Tiếng Việt vốn có của học
sinh. Nguyên tắc so sánh và hướng tới hai dạng nói và viết và nguyên tắc đảm bảo
mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng.
Trước hết, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy.
Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực
tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và qui tắc của

ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính
là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một định hướng. Quá
trình này không chỉ hình thành các kỹ năng ngôn ngữ mà còn hình thành các kỹ
năng và phẩm chất tư duy. Quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ là
hai quá trình có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ tới mức “ Tuy hai mà một, tuy
một mà hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngôn ngữ thì tất phải rèn luyện
tư duy và ngược lại.
Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch, có tính
toán, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với tư duy được cụ thể hoá thành các
yêu cầu sau đây.- Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện tư duy.Dạy học tiếng phải gắn liền với rèn luyện các thao tác tư duy.- Dạy học tiếng phải
gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy.- Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi
dưỡng tư duy hình tượng và tư duy logich.- Dạy học tiếng phải làm cho học sinh
thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn ngữ gắn chúng với nội dung hiện thực mà
chúng phản ánh, đồng thời phải thấy được giá trị của chúng trong hệ thống Tiếng
Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các đề tài cho các bài tập luyện nói, liên kết gần
gũi với đời sống của các em.
1. Thực trạng
a) Thuận lợi, khó khăn
3


* Thuận lợi
Trường Tiểu học Phan Bội Châu là một trường Tiểu học mới được công
nhận trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia mức độ I năm 2014, những năm gần đây
chất lượng giáo dục và các phong trào hoat động của nhà trường vẫn đang duy trì
và phát triển.
Năm học 2014 - 2015 nhà trường tiếp tục tổ chức dạy học văn hoá song song
với tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp. các câu lạc bộ năng khiếu. chú trọng
nâng cao chất lượng mũi nhọn và đại trà. đẩy mạnh giáo dục toàn diện cho học
sinh.

Đối với môn tiếng Việt, ngoài các tiết dạy học chính khoá, nhà trường còn bố trí
cho học sinh được học thêm vào những tiết ôn luyện, được các tổ, khối và giáo
viên chủ nhiệm các lớp cụ thể hoá nội dung dạy học cho các phân môn của tiếng
Việt. Trong tuần những học sinh mũi nhọn cũng được tranh thủ học bồi dưỡng.
Như vậy, học sinh có điều kiện thực hành thêm các bài tập và củng cố kiến thức về
tiếng Việt.
- Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, đảm bảo cho việc dạy và
học như phòng học, bàn ghế, đồ dung dạy học….
- Ban Giám hiệu nhà trường, thầy cô luôn quan tâm, động viên khích lệ các
em kịp thời, giúp đỡ các em khi các em gặp khó khăn.
- Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có lòng yêu nghề,
mến trẻ.
* Khó khăn
- Đa số các em thiếu sự quan tâm của gia đình, trình độ nhận thức của một
số phụ huynh còn nhiều hạn chế.
Khả năng nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của các em còn
nhiều hạn chế.
b) Thành công, hạn chế
* Thành công
- Sau khi áp dụng sau các biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân
biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa đa số học sinh của lớp tôi có sự tiến bộ rõ rệt.
- Ý thức của các em trong các tiết học ngày một nâng lên. Các tiết học diễn
ra sôi nổi và hứng thú hơn trước.
4


- Học sinh mạnh dạn hơn trong giao tiếp với người xung quanh.
* Hạn chế
Các biện pháp không mang lại hiệu quả tức thì, mà cần áp dụng trong một
thời gian dài, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì, tận tụy và quyết tâm thực hiện.

c) Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
Trong quá trình dạy học tôi sử dụng các biện pháp một cách nhẹ nhàng, phù
hợp với đối tượng và sự tiến bộ của học sinh.
Việc lồng ghép một số trò chơi học tập hay nêu gương nhận biết, phân biệt
trước lớp đã góp phần tạo cho các em hứng thú khi làm bài, ý thức học bài của các
em tốt hơn.
* Mặt yếu
Hệ thống biện pháp chưa phong phú, giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ nội
dung, biện pháp và hình thức tổ chức trước khi lên lớp.
d) Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
* Về phía học sinh
Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học
sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ cùng nghĩa, gần nghĩa cũng
không mấy vất vả, tuy nhiên khi học xong từ nhiều nghĩa và từ đồng âm thì các em
bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt các từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
của học sinh không được như mong đợi của cô giáo. kể cả một số học sinh khá,
giỏi đôi khi cũng làm thiếu chính xác.
Một số học sinh ý thức vươn lên trong học tập vẫn còn chưa cao.
Kỹ năng nghe - hiểu, kỹ năng viết của học sinh nhìn chung là chậm, khả năng hiểu
và xác định nghĩa của từ tiếng Việt còn yếu nên dùng sai từ trong khi nói và viết.
Do ảnh hưởng thói quen nói tiếng địa phương Thừa Thiên Huế, khả năng
nhận diện con chữ chậm. Dẫn đến khả năng đọc của các em chậm, việc đọc liền
mạch từ, câu gặp rất nhiều khó khăn. Khả năng đọc biểu cảm còn hạn chế.
Khả năng tiếp nhận thông tin, tư duy để xử lý, tái tạo nội dung thông tin của
học sinh còn chậm.
* Về phía giáo viên
5



Việc sử dụng phương tiện dạy học và đồ dùng chưa phong phú, đa dạng nên
chưa hấp dẫn học sinh một cách tuyệt đối trong việc tập trung vào luyện đọc.
- Một số giáo viên chưa đánh giá đúng mức vai trò, vị trí và tầm quan trọng
của việc dạy – học phân môn Luyện từ & câu; chưa sâu sát việc nắm bắt tâm lí của
học sinh và phụ huynh. - Ở một số tiết dạy, giáo viên chưa thể hiện sự quan tâm
đúng mức đến đối tượng học sinh yếu; đặt yêu cầu chưa cao vào việc tìm và phân
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đối với học sinh và cuốn hút học sinh vào hoạt
động này Qua thực tiễn dự giờ thăm lớp, tìm hiểu đối tượng, thông qua các buổi
sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề và các tiết dự giờ cũng như các chuyên đề ở tổ
khối; trong quy mô toàn cấp trường, tôi luôn coi trọng và chú ý lắng nghe, đề xuất
ý kiến về các giải pháp nâng cao chất lượng cho các em học sinh nhằm nâng cao kĩ
năng sử dụng tiếng Việt cho các em. Đồng thời, tôi luôn tìm tòi sáng kiến để cải
tiến phương pháp dạy học làm sao cho các em đọc đạt hiệu quả cao hơn.
e) Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5
* Từ đồng âm: Được dạy trong 2 tiết ở tuần 5 và tuần 6.
Ơ tuần 5 các em được học khái niệm về từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng
âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ
đồng âm. Tuần 6, các em được học cách dùng từ đồng âm để chơi chữ, bài tập
thực hành ở phần này chủ yếu là tìm các từ đồng âm chơi chữ và đặt câu với từ
đồng âm.
* Từ nhiều nghĩa: được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8.
Tiết 1 của tuần 7 các em được học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập
thực hành chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc và các từ mang nghĩa
chuyển. Hai tiết còn lại học sinh được luyện tập về từ nhiều nghĩa với các dạng bài
tập như giới thiệu nghĩa của một từ và yêu cầu học sinh tìm hoạt động đúng với
nghĩa cho trước, đặt câu phân biệt nghĩa chuyển, nghĩa gốc, nêu nét nghĩa khác
nhau của một từ. Duy nhất có 1 bài tập (bài 1 trang 82 - TV5 – tập 1) có dạng phân
biệt, nhận diện từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Như vậy số lượng bài tập thực hành
giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn ít. trong khi đó khả năng

tư duy trìu tượng của các em còn hạn chế.
Việc dạy và học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa của học sinh.
6


* Về dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của giáo viên
Theo các trình tự nội dung được biện soạn trong sách giáo khoa và trình tự
dạy học luyện từ và câu, nhìn chung các đòng chí giáo viên lớp 5 đều làm đúng vai
trò là người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nắm kiến thức về hai nội dung từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết có hạn, nên giáo viên
chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài học
được. Do đó ,sau các bài học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa học sinh chỉ nắm được
kiến thức về nội dung học trên một cách tách bạch, đôi khi trong giảng dạy các nội
dung này, giáo viên còn có lúc “bí từ” khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngoài SGK
để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
* Về học từ đồng âm, tư nhiều nghĩa của học sinh
Một thực tế cho thấy khi học và làm bài tập về từ đồng âm học sinh tiếp thu
và làm bài nhanh hơn khi học và làm bài tập về từ nhiều nghĩa, có lẽ bởi từ nhiều
nghĩa trừu tượng hơn.
Đặc biệt, khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các
từ có quan hệ nhiều nghĩa với nhau trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng
túng và làm bài chưa đạt yêu cầu. Lúc đầu, khi đang còn dạy tách bạch từng bài về
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi thấy phần lớn các em làm bài trong vở bài tập tơng
đối đạt yêu cầu. Để kiểm tra khả năng phân biệt chính xác từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa tôi đã cho học sinh lớp 5B ( năm học 2013-2014) làm bài tập 1(trang 82 –
sgk TV5- tập 1).
Đề bài: Trong các từ in đậm sau đây, những từ nào là từ đồng âm, những từ nào là
từ nhiều nghĩa?
a) chín.

- Lúa ngoài đồng đã chín vàng.
-

Tổ em có chín học sinh.

- Nghĩ cho chín rồi hãy nói.
b) đường.
- Bát chè này nhiều đường nên rất ngọt.
- Các chú công nhân đang chữa đường dây điện thoại.
- Ngoài đường,mọi người đang đi lại nhộn nhịp.
c) vạt.
7


- Những vạt nương màu mật.
Lúa chín ngập lòng thung.
( Nguyễn Đình Anh)
- Chú Tư láy dao vạt nhọn đầu chiếc gậy tre.
- Những người Giáy, người Dao
Đi tìm măng, hái nấm.
Vạt áo chàm thấp thoáng
Nhuộm xanh cả nắng chiều
( Nguyễn Đình Anh)
* Kết quả:
Sau khi thu bài chấm bài, kết quả là học sinh làm bài tập trên được tổng hợp
như sau:
Tổng số học sinh

Điểm 9, 10


Điểm 7,8

Điểm 5,6

Điểm dưới 5

18

1 = 5,6%

3 = 16,7%

8 = 44,4%

6 = 33,3%

Nếu học sinh trả lời đúng mỗi ý a, b, c được 3 điểm, trình bày khoa học sạch
đẹp cho 1 điểm.
- Số học sinh chưa làm đúng 1/3 ý của bàn còn tới 6 em, như vậy việc phân
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa của những học sinh này còn yếu. Trăn trở với
kết quả trên tôi đã nghiên cứu, học hỏi và tự rút kinh nghiệm cho việc dạy học sinh
phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và mạnh dạn ứng dụng trong giảng dạy năm
học 2014 – 2015.
II.3. Giải pháp, biện pháp
a) Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Nắm vững kiến thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, phương pháp dạy từ
đồng âm , từ nhiều nghĩa.
- Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa.
- Tổ chức dạy học trên lớp có sự lồng ghép, gợi mở các kiến thức.


8


- Tập hợp một số dạng bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, phân biệt từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa để có tư liệu dạy học.
- Tự tích luỹ một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cuộc
sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong dạy học.
b) Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
- Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và phương pháp dạy từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa.
+ Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa:
* Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về nghĩa
(theo SGK TV5- tập 1- trang 51)
Đây là kiến thức cô đọng, xúc tích nhất dành cho học sinh tiểu học ghi
nhớ,vận dụng khi làm bài tập, thực hành.
- Trong chương trình ngữ văn lớp 7, các em cũng sẽ được học về từ đồng
âm. Trên cơ sở kiến thức về từ đồng âm đã học ở cấp I, các em cũng được nắm bắt
từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác xa nhau, không
liên quan gì với nhau.
- Đối với giáo viên tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong
sách giáo khoa. Tiếng Việt 5 bao gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay
hơn 2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa
chúng không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như
trường hợp “câu” trong "câu cá", và “câu” trong "đoạn văn có 5 câu" là từ đồng
âm ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình
thức ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hoá
từ loại của từ).
- VD: a)


b)

+ cuốc (danh từ), đá ( danh từ )

cái cuốc, hòn đá

+ cuốc(động từ) ,đá ( động từ )

cuốc đất, đá bóng

+ thịt (danh từ)

miếng thịt

+ thịt (động từ)

thịt con gà

Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ
hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
VD: Đem cá về kho
Câu trên có thể hiểu là hai cách
9


Cách 1: Đem cá về kho cất để dự trữ
Cách 2: Đem cá về để kho lên ăn
* Từ nhiều nghĩa: Là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng
Việt 5- Trang 67).

VD: Từ “mắt” trong câu “quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Đối với giáo viên có thể hiểu. Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng,
biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách
quan thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối
liên hệ mật thiết với nhau.
Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều
nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một
khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa.
VD: Từ “xe đạp” chỉ loại xe người đi có hai bánh hoặc ba bánh, dùng sức
người đạp cho quay bánh.
Đó là nghĩa duy nhất thông dụng của từ “xe đạp” vậy, có thể nói, từ “xe
đạp” là từ chỉ có một nghĩa.
Từ nào là tên gọi của nhiều sự vât, hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì
từ ấy là từ nhiều nghĩa.
VD: Từ ăn có các nghĩa sau đây:
+ ăn cơm: tự cho vào cơ thể thức ăn để nuôi sống cơ thể
+ ăn cưới: ăn uống nhân dịp cưới
+ Tàu ăn hàng: tiếp nhận hàng để chuyên trở
+ ăn hoa hồng: nhận lấy để hưởng
+ ăn con xe: giành về mình phần hơn, phần thắng
+ Da ăn nắng: hấp thụ cho thấm vào, nhiễm vào
+ Sơn ăn mặt: làm huỷ hoại dần dần từng phần
+ ăn ảnh: vẻ đẹp được tôn lên (trong ảnh).
+ sông ăn ra biển: lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó
+ Đám đất này ăn về xã bên: Thuộc về
10


+ Một đola ăn mấy đồng tiền Việt Nam: Có thể đổi ngang giá.
Như vậy từ " ăn" là một từ nhiều nghĩa.

Trong chương trình môn tập đọc lớp 5 từ “trông” trong bài ca dao "đi cấy" là
một từ nhiều nghĩa.
Chương trình phân môn luyện từ và câu không đề cập tới nghĩa đen và nghĩa
bóng của từ nhiều nghĩa mà đề cập tới nghĩa chuyển và nghĩa gốc. Nghĩa đen chính
là nghĩa gốc của từ còn được gọi là nghĩa trực tiếp, là nghĩa đầu tiên của từ, là cơ
sở để tạo ra các nghĩa khác. Trong từ điển, nghĩa đen dược nói tới đầu tiên. Nghĩa
bóng cũng chính là nghĩa chuyển, là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa đen (hoặc
nghĩa chuyển này được hình thành từ nghĩa chuyển khác), có mối liên hên mật
thiết với nghĩa đen. Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) là sản phẩm của hoạt động chuyển
nghĩa của từ theo các phương thức như ẩn dụ, hoán dụ … Trong từ điển, nghĩa
bóng được nói đến sau nghĩa đen... Nghĩa bóng (nghĩa chuyển) cũng mang tính cố
định, ổn định, bền vững, tính xã hội và tính dân tộc như nghĩa đen.
* Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ
chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh
phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.Bước tiếp theo GV tổng hợp và chốt kiến thức như
nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là HS khá, giỏi, GV có thể cho các em lấy ví
dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi
nhớ. Chuyển sang phần luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học
để giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi bài tập giáo viên lại
cũng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên
hệ tới các kiến thức đã học của phân môn LTVC nói riêng và tất cả các môn học
nói chung.
c) Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
- Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu hiệu bản chất của
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và nêu định
nghĩa.
- Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới .


11


Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung khi dạy luyện từ và câu
và vận dụng các phương pháp, hình thức dạy học như:
- Phương pháp hỏi đáp

- Hình thức học cá nhân

- Phương pháp giảng giải

- Thảo luận nhóm .

-Phương pháp trực quan

- Tổ chức trò chơi.

- Phương pháp luyện tập thực
hành.
Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng cách liên tưởng, liên hệ trong từng bài
tập cụ thể.
VD: Bài tập 2 – Tiếng việt 5- trang 67: yêu cầu học sinh tìm một số ví dụ về sự
chuyển nghĩa của các từ: lưỡi, miệng, cổ, tay, lưng.
Giáo viên gợi ý bằng cách đưa ra một số câu hỏi gợi ý có nội dung liên
tưởng như: lưỡi của những đồ vật gì có tính sắc, sáng (học sinh dễ tìm được lưới
dao, lưỡi kiếm, lưỡi gươm, lưỡi lê, lưỡi lam , lưỡi hái…). Các từ còn lại giáo viên
tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm, trình bày bằng trò chơi ai nhanh hơn.
Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ
yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh cũng cố, nắm

vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa…
* Tìm các căn cứ để giúp học sinh nhận diện, phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa
Quay lại với bài kiểm tra ở phần thực trạng, tôi muốn đề cập đến một số lỗi
HS mắc phải khi phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa . Đó là :
Các em không xác định được nghĩa cuả từ trong từng câu.
Không tìm được mối quan hệ giữa từ mang nghĩa gốc với từ mang nghĩa
chuyển.
Không dựa vào văn cảnh để hiểu nghĩa của từ trong mối quan hệ với các từ
khác của câu.
Không thuộc định nghĩa ( tức phần ghi nhớ) của mỗi bài học.
hi học sinh làm bài xong, tôi hỏi một học sinh có số điểm bài kiểm tra dưới 5
(em Kiên) về nghĩa của từ “vạt” trong câu :“ Chú Tư lấy dao vật nhọn đầu chiếc
gậy tre” nghĩa là gì?
12


úc đầu em im lặng, không trả lời, sau tôi động viên mãi, bảo em hiểu thế nào
cứ nói cho cô nghe thì em trả lời “vạt” trong câu văn đó là một phần đầu nhọn của
con dao.
Tôi không nói nhưng thầm nghĩ, em Kiên hiểu sai nghĩa của từ "vạt" và nội
dung ý nghĩa thông báo của câu văn nên trong bài làm của mình em cho rằng từ
“vạt” trong câu :
“Những vạt nương màu mật
Lúa chín ngập lòng thung”
và từ 'vạt' trong câu văn trên đều là những từ cùng nghĩa.
Tìm hiểu và nắm được một số sại lầm của học sinh như trên, tôi đã thử
nghiệm một số biện pháp phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa như sau:
* Yêu cầu học sinh thuộc ghi nhớ
Tâm lí học sinh thích làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học

thuộc lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy, tôi thường cho học
sinh ngắt ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc
theo nhóm đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã
cho các em thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó
dạy đến từ đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực
hiện. Và kết quả có tới 16/18 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ
còn 2 em có thuộc song còn ấp úng, ngắc ngứ.
* Giúp học sinh học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau, (nói
đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường”(1) trong
“đường rất ngọt”, "đường"(2) trong "đường dây điện thoại" và “đường”(3) trong
“ngoài đường xe cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà
“đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1 ) với "đưòng' (3) lại có quan hệ đồng
âm , còn " đường" (2) với "đường" (3 ) lại có quan hệ nhiều nghĩa.
Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ nghĩa của các
từ đường (1), đường(2), đường (3) là gì?
Đường (1) : (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt.
Đường (2) :(đường dây điện thoại )chỉ dây dẫn,truyền điện thoại phục vụ
cho việc thông tin liên lạc.
13


Đường (3) :(ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi cho các phương
tiện, người, động vật.
Để có thể giải nghĩa chính xác các từ "đường" như trên, các em phải có vốn
từ phong phú. có vốn sống. vì vậy trong dạy học tất cả các môn, giáo viên luôn chú
trọng trau dồi, tích lũy vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho
mình vốn sống và yêu cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ điển Tiếng Việt,
biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm được một số biện pháp giải nghĩa
từ.

Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ "đường".
Xét nghĩa của 3 từ "đường" trên ta thấy:
Từ (đường(1) và từ đường (2) có nghĩa hoàn toàn khác nhau không liên
quan đến nhau- kết luận. hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự như trên
từ 'đường (2) và từ 'đường" (3) cũng có mối quan hệ đồng âm.
Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về nghĩa trên cơ sở
của từ đường (3)- chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của từ 'đường' (2) (truyền đi) theo vệt
dài (dây dẫn). như vậy từ đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển
– kết luận: từ 'đường' (2) và từ 'đường' (3) có quan hệ nhiều nghĩa với nhau.
* Dựa vào yếu tố từ loại cũng có thể giúp học sinh phân biệt được từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa
Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã hiểu đúng
nghĩa của từ. thuộc được khi nhớ thì không cần thiết phải dùng đến cách dựa vào
yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với một số học sinh trung bình và yếu giáo viên có thể
kết hợp cả 3
biên pháp.
Nếu trong thực tế đời sống hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện tượng
một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại khác nhau thì kết luận đó là
hiện tượng đồng âm. chẳng hạn khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thanh để cổ vũ
cho một học sinh được mệnh danh là “ cụ cố” vì em này nhỏ, yếu:
"Cố lên cụ cố…ơi!"
“Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ.
nhận diện.
14

đây là hiện tượng đồng âm dễ


Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng từ loại (cùng loaị

danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh
đồng thời xét xem các từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay không để tránh nhầm lẫn
giữa từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa nếu có. Trong trường
hợp này thông thường ta dựa vào ngữ cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói
cách khác là dựa vào các từ cùng đi với nó trong câu .Ngữ cảnh có tác dụng hiện
thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ tránh sự nhầm lẫn.
VD: - đồng tiền – cánh đồng
- Vạc dầu - con vạc
- Con cò – cò súng
- Xe đạp – con xe(quân cờ).
Xét câu văn sau:"Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng ngay đoạn cánh đồng
làng.
Các từ trong câu có mối quan hệ vơí từ 'đồng' thứ nhất gồm” đánh rơi”, “ mười
nghìn”, nếu chỉ dừng lại ở đánh rơi 10 nghìn đồng thì người đọc chưa rõ mười
nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định rõ giá trị số tiền
đánh rơi . Có từ "đồng ngay sau cụm từ 'đánh rơi mười nghìn đồng' thì ta hiểu rõ số
tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt và xác định được giá trị của nó.Vậy từ 'đồng" thứ
nhất là đơn vị tiền Việt nam, từ "đồng" thứ 2 nằm trong mối quan hệ với từ" qua',
"cánh', 'làng'.Đồng trong “cánh đồng”là khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa
hoạc hoa màu.
Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ nhầm lẫn với từ
nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại.Trong quá trình dạy học
, tôi gặp phần lớn các từ nhiều nghĩa đều có cùng từ loại .Từ 'đi' trong các trường
hợp sau đều là động từ

đi bộ

VD: đi:

đi chơi


đi ngủ
đi máy bay
15


Vì vậy khi gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì học sinh
không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa mà
phải suy nghĩ thật kĩ. giải nghĩa chính xác các từ đó trong văn cảnh tìm ra điểm
khác nhau hoàn toàn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong một
số bài tập bồi dưỡng học sinh giỏi,có một số trường hợp giống nhau về âm thanh
nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa.
* Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, bài tập
phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa:
- Dạng 1: Phân biệt nghĩa của các từ
+ Đối với từ đồng âm: Phân biệt nghĩa của các từ đồng âm trong các cụm từ
sau: Cánh đồng(1) – tượng đồng(2) – một nghìn đồng(3).
Bài tập này giúp học sinh hiểu nghĩa của các từ "đồng" ở mỗi trường hợp :'
đồng' (1) chỉ khoảng đất rộng , bằng phẳng , dùng để cấy , trồng trọt . "Đồng " (2)
là kim loại có màu đỏ , dễ dát mỏng và kéo thành sợi . "Đồng" (3) là đơn vị tiền
Việt Nam . Như vậy nghiã của các từ "đồng" khác nhau , chúng là những từ đồng
âm .
+ Đối với từ nhiều nghĩa: Trong những câu sau câu nào có từ “chân” mang
nghĩa gốc và câu nào có từ 'chân' mang nghĩa chuyển?
Chân: a) Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
b) Bé đau chân.
Đối với bài tập trên giáo viên yêu cầu học sinh nêu được nghĩa của từ
“chân” trong mỗi câu và xác định nghĩa chuyển, nghĩa gốc('chân' trong câu a chỉ
một bộ phận làm trụ đỡ của cái kiềng – nghĩa chuyển, 'chân' trong câu b một bộ
phận của cơ thể đỡ và di chuyển cơ thể – nghĩa gốc).

Dạng 2: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm hoặc nhiều nghĩa
+ Đối với từ đồng âm: Đặt câu để phân biệt các từ đồng âm : bàn, cờ,
nước.
Ở bài tập này giáo viên hướng dẫn học sinh với mỗi từ các em cần đặt ít
nhất là hai câu, các từ đó có quan hệ đồng âm với nhau.
D: Bàn :- Cả nhà ngồi vào bàn để ăn cơm.
- Bố mẹ em cũng đang bàn chuyện cưới vợ cho anh trai.
+ Đối với từ nhiều nghĩa.
16


Đặt câu để phân biệt nghĩa của từ “ đứng”
Đứng : Nghĩa 1: ở tư thế chân thẳng, chân đặt trên mặt nền.
Nghĩa 2: Ngừng chuyển động.
Giáo viên có thể gợi ý nghĩa 1 nói tới một tư thế của người hoặc động vật.
Nghĩa 2 nói tới trạng thái của một đồ vật hiện tượng, dựa vào gợi ý đó học sinh có
thể đặt câu.
Nghĩa 1: Chúng em đang đứng nghiêm trang chào cờ.
Nghĩa 2: Kim đồng hồ đứng lại.
Trời đứng gió
Dạng 3: Phân biệt quân hệ đồng âm, quan hệ nhiều nghĩa.
VD: Trong các từ im đậm dưới đây, những từ nào có quan hệ đồng âm,
những từ nào có quan hệ nhiều nghĩa với nhau?
Vàng: - Giá vàng ở nước ta tăng đột biến
- Tấm lòng vàng.
- Ông tôi mua mua một một bộ vàng lưới để chuẩn bị cho vụ đánh bắt hải
sản.
Ở bài tập này giào viên hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của các từ “vàng”, rồi
xác định mối quan hệ giữa chúng dựa vào các căn cứ như mục (II .2).
Đáp án: Từ “vàng” ở câu 1,2 có quan hệ nhiều nghĩa, từ 'vàng' ở câu 3 có

quan hệ đồng âm với từ “vàng” ở câu 1 và 2.
- Dạng 4: Nối từ hoặc cụm từ với nghĩa đã cho.
+ Đối với từ đồng âm:
Ví dụ: Nối các cụm từ ở cột A với nghĩa thích hợp ở cột B.
A.

B

1. Sao trên trời có khi tỏ khi mờ.
2. Sao lá đơn này thành ba bản.

a.Chép lại hoặc tạo ra văn bản khác theo
đúng bản chính.

3. Sao tẩm chè.

b.Tẩm một chất nào đó rồi sấy khô

4. Sao ngồi lâu thế?

c.Nêu thắc mắc không biết rõ nguyên
nhân.

5. Đồng lúa mượt mà sao.

17


d.Nhấn mạnh mức độ làm ngạc nhiên,
thấn phục

e.Các thiên thể trong vũ trụ.

Đáp án: 1 – e, 2 – a, 3 – b, 4 – c, 5 – d.
- Đối với từ nhiều nghĩa:
Ví dụ: Tìm ở cột B lời giảI nghĩa thích hợp cho từ “chạy” trong mỗi câu ở
cột A.
A

B

1. Bé chạy lon ton trên sân

a.Hoạt động của máy móc.

2. Tàu chạy băng băng trên đường b.Khẩn trương tránh những diều không
ray.
may sắp xảy đến.
3. Đồng hồ chạy đúng giờ

c. Sự di chuyển nhanh của phương tiện
giao thông

4. Dân làng khẩn trương chạy lũ

d. Sự di chuyển nhanh bằng chân.

Đáp án: 1 – d, 2 – c, 3 – a, 4 – b.
Đối với những bài tập trên, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận để nối
những cụm từ hoặc câu với nghĩa thích hợp ở những trường hợp dễ nhận thấy
trước.

Trường hợp khó còn lại nếu học sinh chưa hiểu nghĩa các em có thể vận
dụng cả phương pháp loại trừ.
Ở cả từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có mặt cả bốn dạng bài tập trên.
Bên cạnh đó, mỗi nội dung lại có một số dạng bài tập riêng:
Đối với từ đồng âm có dạng bài tập đố vui:
Trùng trục như con chó thui
Chín mặt, chín mũi, chín đuôI, chín đầu
(Là con gì?)
d) Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
18


Để biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ
nhiều nghĩa cho các em học sinh đạt kết quả cao nhất cần phối hợp nhịp nhàng mọi
biện pháp với nhau. Các biện pháp mang tính bỗ trợ, không có biện pháp nào mang
tính quyết định. Việc rèn kĩ năng tìm và phân biệt từ ngữ không chỉ áp dụng trong
phân môn Luyện từ và câu mà còn áp dụng trong các môn học khác cũng như kĩ
năng thực hành giao tiếp của các em.
e) Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
* Kết quả khảo nghiệm
So với đầu năm học thì kết quả kiểm tra cuối năm học đã phản ánh rõ những
sự tiến bộ cảu các em học sinh. Cuối học kì I năm học 2014 – 2015 tôi cũng ra
những bài tập tương tự cho các em HS lớp 5B - lớp chủ nhiệm. Kết quả làm bài
như sau:
Sĩ số

Điểm 9 , 10

Điểm 8 , 9


Điểm 5 , 6

Điểm dưới 5

18

2= 11,1%

6 = 33,3%

9 = 50%

1 = 5,6%

II.4. Kết quả
Sĩ số: 18

Điểm 9 , 10

Điểm 8 , 9

Điểm 5 , 6

Điểm dưới 5

Đầu năm

1 = 5,6%

3 = 16,7%


8 = 44,4%

6 = 33,3%

2= 11,1%

6 = 33,3%

9 = 50%

1 = 5,6%

Cuối kì I

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận
Dạy các nội dung về nghĩa của từ thực sự không đơn giản, nhất là phân
biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa và cả với từ đồng nghĩa. Trong quá trình giảng
dạy, tổ chức cho học sinh nắm được kiến thức, bản thân tôi cũng đã cố gắng nghiên
cứu, tìm tòi, học hỏi và lựa chọn sao cho học sinh nắm kiến thức mới và vận dụng
trong học tập cũng như trong cuộc sống một cách hiệu quả. Việc dạy kiến thức về
từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa theo một số
biện pháp trên đây là một thử nghiệm của bản thân tôi trong năm học 2014- 2015.
Kết quả tuy chưa thực sự cao, song so với chất lượng học sinh học nội dung này ở
năm học trước đã có sự chuyển biến. Cụ thể, năm học này so với kết quả kiểm tra
19


học sinh năm học 2013 - 2014, số học sinh đạt điểm trung bình trở lên đã tăng, số

học sinh có số điểm dưới 5 giảm 27,7% . Đây là dấu hiệu triển vọng cho việc vận
dụng một số biện pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, phân biệt từ đồng âm với
từ nhiều nghĩa trong các năm học tiếp theo.
II.2. Kiến nghị
- Là một giáo viên, bản thân mỗi đồng chí chúng ta nên thường xuyên tự
học ,tự bồi dưỡng, những gì mình băn khoăn trăn trở nhất thì mình càng cần đầu tư
thời gian nghiên cứu, học hỏi để thấu hiểu ngọn ngành.
- Để dạy có hiệu quả các nội dung về nghĩa của từ, chúng ta nên tích luỹ
cho mình những kiến thức từ đơn giản đến chuyên sâu về từ, trau dồi vốn từ phong
phú, học hỏi các phương pháp, biện pháp dạy học có hiệu quả của đồng nghiệp,
- Lựa chọn phương pháp dạy phù hợp với đối tượng học sinh trong đời sống
hàng ngày, nên để ý đến một số hiện tương về từ như đồng âm, nhiều nghĩa, đồng
nghĩa, trái nghĩa để có thêm tư liệu dạy học.
Với một số kinh nghiệm nhỏ này, tôi rất mong được sự góp ý của hội đồng
khoa học cũng như tất cả các đồng nghiệp để SKKN đảm bảo tính khoa học, hiệu
quả và thiết thực hơn.
TT Buôn Trấp, ngày 9 tháng 1 năm 2015
Người thực hiện

Nguyễn Văn Chinh
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP TRƯỜNG

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
20


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SKKN CẤP HUYỆN

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN


21



×