DANH MỤC VIẾT TẮT
CHXHCNVN
: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao.
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
BCA
: Bộ Công An.
BLHS
: Bộ luật hình sự.
TP
: Tội phạm
1
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Với vai trò là nền tảng kinh tế-xã hội của quốc gia, chế độ sở hữu là
một trong những vấn đề trọng yếu được Nhà nước bảo vệ bằng mọi biện pháp
trong đó có biện pháp hình sự. Điều này được thể hiện trong việc xử lý các
hành vi xâm phạm tới chế độ sở hữu. Hiện nay, các tội phạm xâm phạm sở
hữu xảy ra rất phổ biến trong đó tội cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ khá lớn. Chỉ
trong vòng từ năm 1998 đến năm 2011, toàn quốc đã có17655 vụ phạm tội
cướp giật tài sản được xét xử sơ thẩm trong tổng số 465945 vụ phạm tội được
tòa án xét xử, chiếm tỷ lệ 3,78%. Nhiều vụ cướp giật tài sản đã gây thương
tích thậm chí gây chết người.
Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS) được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua và có hiệu lực kể từ ngày
01/7/2000 đã trở thành là căn cứ pháp lý quan trọng để các cơ quan pháp luật
áp dụng trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, để áp dụng
đúng các qui định của pháp luật trong thực tiễn rất cần được nhận thức và
hướng dẫn áp dụng thống nhất.
Tội cướp giật tài sản –những vấn đề lí luận và thực tiễn là một trong
những đề tài được nhiều nhà khoa học, tác giả quan tâm.
Có rất nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành pháp luật như: tạp
chí luật học có bài: “Trách nhiệm hình sự đối với những người xâm phạm sở
hữu” và “Đối tượng của các tội xâm phạm sở hữu”( Nguyễn Ngọc Chí đăng
trên Tạp chí Nhà nước-Pháp luật số2/1998.
Nhiều công trình nghiên cứu, nhiều luận án cũng đề cập đến đề tài
này như: “Các tội xâm phạm sở hữu trong luật hình sự Việt Nam” luận văn
của thạc sĩ Lương Văn Thức...Các công trình, tài liệu trên đã góp phần tạo
2
nên sự phong phú cho nền tảng lí luận cũng như thực tiễn áp dụng tội cướp
giật tài sản.Tuy nhiên, các công trình mới chỉ nghiên cứu tội cướp giật tài sản
ở khía cạnh tổng quát, đặt tội cướp giật tài sản trong tổng thể các tội xâm
phạm sở hữu của luật hình sự Việt Nam, những vấn đề thực tiễn cùng những
giải pháp, kiến nghị vẫn còn khá chung chung. Vì vậy, nghiên cứu đề tài “Tội
cướp giật tài sản trong luật hình sự Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực
tiễn” một cách toàn diện và có hệ thống là đòi hỏi bức xúc, tất yếu khách
quan.
2.Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu.
Đề tài thực hiện nhằm nghiên cứu sâu sắc vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn tội cướp giật tài sản trong giai đoạn những năm hiện nay để từ đó
tìm ra những biện pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về tội cướp
giật tài sản.
Nhiệm vụ nghiên cứu bao gồm: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội
cướp giật tài sản,đường lối xử lý, một số biện pháp, kiến nghị hoàn thiện các
quy định tội cướp giật tài sản.
3. Cơ cấu
Khóa luận gồm có 3 chương ngoài lời mở đầu và kết luận.Trong đó:
Chương I
: Những vấn đề lý luận chung về tội cướp giật tài sản trong
luật hình sự Việt Nam
Chương II : Đường lối xử lý tội cướp giật tài sản trong luật hình sự
Việt Nam.
Chương III : Thực tiễn áp dụng tội cướp giật tài sản và một số kiến
nghị hoàn thiện.
3
Trên đây là khóa luận của em, do trình độ hiểu biết còn hạn chế, tài liệu
tham khảo còn chưa phong phú.... nên khóa luận không tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Vì vậy, em rất mong được sự hướng dẫn, góp ý của
thầy (cô) giáo để khóa luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn.
4
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI
CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
I.Khái niệm về tội cướp giật tài sản
1.Tội cướp giật tài sản trong pháp luật hình sự từ thời kỳ trước khi
ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã giành lại chủ quyền cho đất nước,
tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa. Sau thắng lợi đó, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hình sự để bảo vệ thành quả
cách mạng. Một trong những nội dung được đặc biệt coi trọng là chế độ sở
hữu- nền tảng kinh tế xã hội của đất nước. Các qui định của pháp luật đã phản
ánh tương đối rõ nét các đặc điểm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cũng như
kỹ thuật lập pháp của nước ta trong một giai đoạn lịch sử, đặc biệt thể hiện rõ
chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với các hành vi xâm phạm sở hữu.
Tại Điều 12, Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận: “Quyền tư hữu tài sản
của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Việc qui định như vậy, đã tạo nên cơ
sở pháp lý để bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân, là điều kiện ổn định
sinh hoạt vật chất của mỗi con người. Bên cạnh đó, Nhà nước còn ban hành
hàng loạt các Sắc lệnh như: Sắc lệnh số 26/SL ngày 25 tháng 2 năm 1946 qui
định các hành vi phá hoại công sản...trong đó có Thông tư 442/TTg ngày
19/01/1955 hướng dẫn các tòa án trừng trị một số tội xâm phạm sở hữu như
trộm cắp, cướp của, lừa đảo, bội tín...Tuy nhiên, ở đó, tội cướp giật tài sản
chưa được quy định thành một điều luật cụ thể. Riêng Thông tư 442 thì các
Tòa án có thể áp dụng văn bản này để xử lý thích đáng hoặc trừng trị nghiêm
khắc đối với hành vi phạm tội cướp giật tài sản.
5
Năm 1959, sau khi nước ta cơ bản hoàn thành công cuộc cải tạo
XHCN thì việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thật cho CNXH là nhiệm vụ trọng
tâm hàng đầu. Bởi vậy, việc bảo vệ sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể là vấn đề
cấp bách, được đặc biệt coi trọng. Điều 40 Hiến pháp 1959 ghi nhận: “Tài sản
công cộng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là thiêng liêng không thể
xâm phạm. Công dân có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng”.
Ngày 21 tháng 10 năm 1970, Nhà nước ta đã thông qua hai văn bản pháp luật
mới là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh
trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân. Cụ thể tại, Điều 5 của
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, tội cướp giật tài sản
XHCN được qui định: “Kẻ nào cướp giật tài sản XHCN thì bị phạt tù từ 1
năm đến 7 năm”. Tại Điều 4 Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
riêng của công dân có ghi: “Kẻ nào cướp giật tài sản riêng của công dân thì bị
phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”. Nội dung của hai pháp lệnh đã thể hiện đầy đủ
và toàn diện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với các tội
phạm về sở hữu nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng thể hiện sự nhạy
bén của Nhà nước trước diễn biến tình hình tội phạm. Tội cướp giật tài sản
XHCN và tội cướp giật tài sản riêng của công dân đã được cụ thể hóa thành
hai điều luật riêng nằm trong hai pháp lệnh.
Ngoài hai pháp lệnh trên, Ban bí thư trung ương Đảng đã ra Chỉ thị số
185 ngày 09 tháng 12 năm 1970 về tăng cường bảo vệ tài sản XHCN nhằm
chỉ đạo thi hành nội dung hai pháp lệnh trên. Ngày 16/03/1973, Thông tư liên
bộ của TANDTC-VKSNDTC-BCA hướng dẫn áp dụng hai pháp lệnh trên.
Trong đó, tội cướp giật tài sản được hiểu là: “Trường hợp kẻ phạm tội lợi
dụng sơ hở vướng mắc của người giữ tài sản, bất thần giằng lấy tài sản trên
tay người giữ tài sản” và bao gồm cả hành vi mà sau này được coi là tội công
nhiên chiếm đoạt tài sản. Hướng dẫn này đã khái quát tội cướp giật tài sản với
hành vi khách quan của tội phạm là hành vi chiếm đoạt. Đồng thời, hướng
6
dẫn còn nêu ra đặc điểm của hành vi chiếm đoạt của tội cướp giật tài sản là
chiếm đoạt một cách nhanh chóng và công khai.
Sau ngày 30/04/1975, Sắc Luật số 03/SL ngày 15/03/1976 qui định tội
phạm và hình phạt. Trong văn bản này, tội cướp giật tài sản mặc dù không
được qui định cụ thể, chi tiết trong một điều luật riêng nhưng cũng đã được
qui định trong một điều luật cùng với các tội xâm phạm sở hữu khác nhau
như: trộm cắp, tham ô, lừa đảo.....Điều 4 Sắc luật số 03 qui định:
Điều 4: Tội xâm phạm tài sản công cộng.
...b. Phạm các tội như : trộm cắp, tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật thì
bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến
15 năm.
Như vậy, cùng với hai pháp lệnh trên, Sắc Luật số 03 đã được áp dụng
chung trong cả nước sau khi nước nhà thống nhất, để đấu tranh chống các tội
phạm về sở hữu. Các qui định bước đầu về tội cướp giật tài sản trong các văn
bản đó là cơ sở để các nhà làm luật sau này tiếp thu và hoàn thiện hơn.
2. Tội cướp giật tài sản trong Bộ luật hình sự năm1985 và Bộ luật
hình sự năm 1999.
- Sự hình thành và phát triển của pháp luật luôn dựa trên nền tảng kinh
tế- xã hội-chính trị. Vào những năm 1980, đất nước với nền kinh tế có nhiều
thay đổi, với nhiều thành phần kinh tế khác nhau, các quan hệ pháp luật mới
nảy sinh cũng như những qui định pháp luật cũ, trước đây không còn phù hợp
nữa. Vì vậy, sự ra đời của BLHS1985 (27/06/1985) là một trong những công
cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng chống tội phạm, góp phần tích cực
loại bỏ những yếu tố gây cản trở cho tiến trình đổi mới và sự nghiệp phát triển
của xã hội.
7
- Trong BLHS 1985, tội cướp giật tài sản được qui định riêng rẽ thành
hai tội là: tội cướp giật tài sản XHCN tại Điều 131với nội dung: “ Người nào
cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, nếu không
thuộc trường hợp quy định tại Điều 129 thì bị phạt tù từ một năm đến năm
năm” và tội cướp giật tài sản riêng của công dân được qui định tại Điều 154
với nội dung: “ Người nào cướp giật hoặc công nhiên chiếm đoạt tài sản của
người khác, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 151 thì bị phạt tù
từ ba tháng đến ba năm”. Xét về nội dung, hai tội này có dấu hiệu pháp lí
tương tự nhau: về mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm; chỉ
khác nhau về dấu hiệu khách thể của tội phạm. Do tính chất quan hệ sở hữu
được luật hình sự bảo vệ khác nhau, do vị trí của hai loại quan hệ sở hữu có
tầm quan trọng khác nhau nên hành vi phạm tội cướp giật tài sản được qui
định trong BLHS1985 được qui định thành hai tội danh cụ thể tại hai chương
khác nhau.
- Trong thời kỳ mới, xuất phát từ đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta là xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, xuất phát từ việc hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ luật hình sự 1999 đã
nhập 2 chương: Các tội xâm phạm sở hữu XHCN và các tội xâm phậm sở hữu
riêng của công dân vào thành một chương: Các tội phạm sở hữu. Việc nhập 2
chương là một việc làm cần thiết bởi: Thứ nhất, hai điều Điều 131 và Điều
154 trong BLHS1985 về cơ bản là giống nhau trong dấu hiệu pháp lí ( về mặt
khách quan, về mặt chủ quan, về chủ thể ) nên việc tách thành 2 chương riêng
biệt là không cần thiết. Hơn thế nữa, có nhiều trường hợp phạm tội khi thực
hiện hành vi cướp giật tài sản họ không quan tâm xem tài sản đó thuộc về
quyền sở hữu của ai, của Nhà nước, tập thể hay của công dân mà chỉ cốt sao
đạt được mục đích chiếm đoạt. Thứ hai, trong nền kinh tế hiện nay, Nhà nước
chủ trương đa dạng hóa thành phần kinh tế theo các hình thức sở hữu khác
nhau nhưng đều phải bình đẳng trước pháp luật, đều được Nhà nước bảo hộ
8
như nhau. Do đó, việc BLHS1985 qui định tách thành hai chương là không
còn phù hợp nữa. Đồng thời, thực tiễn cho thấy, trong nền kinh tế nhiều thành
phần, các hình thức sở hữu đan xen nhau, hỗn hợp do có sự liên doanh, liên
kết, góp vốn cổ phần với tỷ lệ khác nhau nên khó có thể xác định, thậm chí
không thể xác định được đâu là tài sản xã hội chủ nghĩa và đâu là tài sản
riêng của công dân. Thứ ba, sự ra đời của Hiến pháp 1992 khẳng định: nhà
nước ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phân với hình thức sở
hữu đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân.
Và Bộ luật dân sự 1995 có qui định 7 hình thức sở hữu khác nhau gồm: sở
hữu toàn dân; sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, sở hữu
tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu của tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề
nghiệp, sở hữu hỗn hợp, sở hữu chung. Như vậy, trong trường hợp khi có
hành vi xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu hỗn hợp (tài sản của chủ sở hữu
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau góp vốn để sản xuất kinh doanh) thì
việc tiếp tục áp dụng các qui định của BLHS1985 để xử lý tội phạm sẽ gặp
nhiều khó khăn và vướng mắc, nhất là trong việc định tội danh. Ngoài ra, nếu
đặt vấn đề là trong BLHS cần qui định các tội xâm phạm sở hữu tương ứng
với 7 hình thức sở hữu theo qui định của BLDS là không cần thiết. Vì thế,
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trở lên khó khăn khi mà BLHS 1985 chỉ có
hai chương và không qui định hành vi xâm hại tài sản đến các loại sở hữu
khác, ngoại trừ hình thức sở hữu XHCN và hình thức sở hữu công dân.
Với những lí do trên, Điều 136 BLHS 1999 quy định:
“ 1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một
năm đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
ba năm đến mười năm:
a, Có tổ chức;
9
b, Có tính chất chuyên nghiệp;
c, Tái phạm nguy hiểm;
d, Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ, Hành hung để tẩu thoát;
e, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 11% đến 30%;
g, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
h, Gây thiệt hại nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
a, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 31% đến 60%;
b, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng;
c, Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a, Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;
b, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
c, Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
10
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một
trăm triệu đồng.”
Nếu so với Điều 131, Điều 154 của BLHS1985 thì Điều 136 của
BLHS1999 có nhiều sửa đổi và bổ sung. Đó là các dấu hiệu định khung hình
phạt đã có sự qui định cụ thể hơn. Các dấu hiệu định khung mới như: “gây
thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác”, “giá trị tài sản”;
“gây hậu quả nghiêm trọng, rẩt nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” được
qui định trong điều luật. Đặc biệt là hình phạt bổ sung cũng được qui định
ngay thành một phần cụ thể, rõ ràng. Về cơ cấu, tội cướp giật tài sản được qui
định trong BLHS có 4 khung hình phạt, trong đó, BLHS1985, chỉ qui định tội
cướp giật tài sản với 3 khung hình phạt. Khoảng cách giữa mức hình phạt tối
đa và tối thiểu trong một khung hình phạt trong tội cướp giật tài sản cũng
ngắn hơn so với BLHS1985. Điều này cho thấy kỹ thuật lập pháp khi qui định
các tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, các nhà làm luật đã
có sự qui định cụ thể các trường hợp phạm tội của một loại tội có sự phân hóa
trách nhiệm hình sự và hình phạt của các trường hợp phạm tội một cách cụ
thể và triệt để ngay trong luật, từ đó tạo điều kiện cho hoạt động áp dụng luật
được dễ dàng và chính xác hơn. Ngoài ra, BLHS1985, tội cướp giật tài sản và
tội công nhiên chiếm đoạt tài sản được qui định chung trong một điều luật,
nhưng đến BLHS1999, tội này được tách riêng và qui định thành hai điều luật
khác nhau. Đây là việc làm cần thiết bởi vì xét về tính chất và mức độ nguy
hiểm thì tội cướp giật có tính nguy hiểm cao hơn so với tội công nhiên chiếm
đoạt tài sản, vì vậy khung hình phạt hoàn toàn khác nhau. Việc tách ra thành
hai tội riêng, giúp việc áp dụng được chính xác và dễ dàng hơn.
Như vậy, nhìn vào lịch sử phát triển của tội cướp giật tài sản, ta nhận
thấy, sự phát triển, hoàn thiện trong kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật.
Với các qui định tại Điều 136 BLHS1999, tội cướp giật tài sản đã được quy
11
định một cách rõ ràng hơn. Điều này là cơ sở cho việc thực thi luật được minh
bạch, chính xác.
- Ngày16/03/1973,Thông tư liên bộ của Tòa án nhân dân tối cao- Viện
kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Công An hướng dẫn áp dụng hai Pháp lệnh:
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các
tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, tội cướp giật tài sản được hiểu là:
“Trường hợp kẻ phạm tội lợi dụng sơ hở vướng mắc của người giữ tài sản, bất
thần giằng lấy tài sản trên tay người giữ tài sản hoặc công nhiên lấy từ nơi để
tài sản với ý thức không che giấu hành vi phi pháp của mình, rồi chạy trốn
hoặc bỏ đi không dùng bạo lực”. Hướng dẫn này đã khái quát tội cướp giật tài
sản với hành vi khách quan của tội phạm là hành vi chiếm đoạt. Đồng
thời,hướng dẫn còn nêu đặc điểm của hành vi chiếm đoạt của tội cướp giật tài
sản là chiếm đoạt một cách nhanh chóng và công khai.
- Điều 136 BLHS1999 quy định tội cướp giật tài sản, từ đó có thể định
nghĩa: “Tội
cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản
một cách công khai”
Tội cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu hoặc
người có trách nhiệm quản lý tài sản một cách công khai, tức là người phạm
tội không ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình. Một hành vi chiếm đoạt
có tính chất công khai nếu hình thức thực hiện của nó cho phép chủ tài sản có
khả năng biết ngay có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra.
Ví dụ:
Trưa ngày 14/02/2010,Vũ Huy Hoàng (18 tuổi, trú tại số nhà 12, ngõ
62 Trần Qúy Cáp), Nguyễn Chiến Thắng (20 tuổi, trú tại ngõ Linh
12
Quang,Văn Chương), Phạm Quang Duy (19 tuổi, trú tại Khâm Thiên), Đinh
Việt Cường ( 21tuổi, trú tại ngõ Thanh Miếu,Văn Miếu) và đối tượng nữ
nhuộm tóc vàng là Trần Bích Diệp (16 tuổi, trú tại ngõ Yên Bái II, phường
Phố Huế), sau khi ăn chơi hút hít ở một nhà nghỉ trên đường Gỉai Phóng, cả
bọn bàn nhau đi cướp giật tài sản để lấy tiền...chơi tiếp. Chúng thỏa thuận:
Hoàng sẽ chở Thắng, còn Duy sẽ chở Diệp. Khi tia thấy “con mồi” thì Hoàng
sẽ áp sát xe vào con mồi cho Thắng giật, còn Duy - Diệp sẽ cản đường nếu bị
đuổi bắt.
Đi khỏi nhà nghỉ một đoạn, đến chân cầu vượt Ngã Tư Vọng thì cả bọn
nhìn thấy hai phụ nữ đèo nhau bằng xe máy, trên tay người ngồi sau ôm một
chiếc túi. Chúng đoán trong chiếc túi chắc phải có tài sản gì đáng giá lắm nên
người phụ nữ kia mới ôm khư khư như vậy nên quyết định bám theo. Đến
đỉnh cầu vượt, Hoàng áp sát xe vào hai người phụ nữ và Thắng xô vào giật
chiếc túi trên tay người ngồi sau rồi cả bọn rồ ga chạy thục mạng . Người đi
đường chỉ còn nghe thấy tiếng rúi xe ầm ĩ và những làn khói xanh để lại. Xe
đổ, hai người phụ nữ ngã văng ra đường. Hai người phụ nữ đó là hai chị em
Đỗ Thị Lượng và chị Đỗ Thị Hà ở đường Gíap Bát.
Như vậy, các đối tượng trên đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
một cách công khai và nhanh chóng, cấu thành tội cướp giật tài sản qui định
tại Điều 136 BLHS1999.Về mặt khoa học, tội cướp giật tài sản có thể hiểu là:
“hành vi nhanh chóng chiếm đoạt tài sản một cách công khai.”
II.Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản qui định tại Điều
136 BLHS 1999.
13
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cấu thành tội phạm là tổng hợp
những dấu hiệu chung có tính đặc thù cho loại tội phạm cụ thể được quy định
trong luật hình sự. Với nội dung này, cấu thành tội phạm được coi là khái
niệm pháp lý của loại tội phạm cụ thể, là sự mô tả khái quát loại tội phạm
nhất định trong luật hình sự.
Về mặt lí luận, bốn yếu tố cấu thành tội phạm là: khách thể của tội
phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của
tội phạm. Ở tội cướp giật tài sản qui định tại Điều 136 BLHS1999, các dấu
hiệu pháp lý của bốn yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm:
1.Khách thể của tội phạm
- Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại. Theo luật hình sự Việt Nam, những quan hệ xã hội được
coi là khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội đã được xác
định trong Điều 8 của BLHS. Đồng thời, mỗi một tội phạm đều gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hai cho một trong những khách thể nhất định. Khách thể
của tội phạm là một căn cứ quan trọng để đánh giá mức độ, tính chất nguy
hiểm của hành vi phạm tội.
- Trong tội cướp giật tài sản, khách thể trực tiếp bị xâm hại là quan hệ
sở hữu về tài sản mà đối tượng tác động là những tài sản nhỏ, gọn dễ mang đi
do tính chất của hành vi là nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. Khi người phạm
tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản đã gây ra thiệt hại về tài sản cho chủ tài
sản và sự gây thiệt hại này phản ánh đầy đủ bản chất nguy hiểm của hành vi
phạm tội.
Ngoài ra, không phải mọi tài sản đều là đối tượng tác động của tội cướp
giật tài sản. Đối tượng tác động của tội này thường là những tài sản gọn nhẹ,
có thể lấy và mang đi một cách dễ dàng như: dây chuyền, lắc, túi xách....rất ít
khi tội phạm lấy những tài sản cồng kềnh, khó di chuyển, mang vác theo. Tuy
14
vậy, không loại trừ tội phạm cướp giật những tài sản cồng kềnh như: xe máy,
xe đạp...bởi sau khi người phạm tội cướp tài sản xong lại sử dụng chính
những tài sản đó làm phương tiện để tẩu thoát.
Tài sản nói ở đây thông thường là tài sản hợp pháp, thuộc quyền sở hữu
của chủ tài sản. Nói như vậy không có nghĩa là những hành vi chiếm đoạt tài
sản bất hợp pháp của người khác thì người phạm tội sẽ không thuộc tội cướp
giật tài sản.
Ví dụ như: Anh Nguyễn Văn A vừa trộm cắp được xe máy của chị
Trần Thị B thì bị Nguyễn Văn C cướp giật. Như thế, trong trường hợp này,
hành vi chiếm đoạt của anh C vẫn bị cấu thành tội cướp giật tài sản.
- Đối tượng tác động của tội cướp giật tài sản là tài sản nói chung trừ
một số đối tượng vật chất do tính chất đặc biệt của nó nên sẽ không là đối
tượng của tội cướp giật tài sản.Ví dụ: đối tượng của hành vi cướp giật tài sản
là vũ khí quân dụng thì hành vi chiếm đoạt vũ khí quân dụng sẽ cấu thành tội
qui định tại Điều 230 BLHS1999- chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện
kỹ thuật quân sự. Hoặc đối tượng hành vi cướp giật tài sản là chất phóng xạ,
vật liệu cháy nổ, ma túy... thì đã được quy định thành một số tội độc lập khác
trong Bộ luật hình sự.
Như vậy, với ý nghĩa là những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại, là khách thể của tội phạm, quyền sở hữu tài sản là
khách thể trực tiếp của tội cướp giật tài sản.
2.Mặt khách quan của tội phạm
Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra
hoặc tồn tại bên ngoài mà còn con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó
là: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như
15
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài của
việc thực hiện hành vi phạm tội. Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành
mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội phạm là mặt
bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc
tồn tại bên ngoài thế giới khách quan.
Đối với tội cướp giật tài sản, dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm
được qui định tại Điều 136 BLHS 1999 chính là hành vi công khai chiếm đoạt
tài sản một cách nhanh chóng.
Hành vi khách quan trong tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài
sản của người khác. Hành vi chiếm đoạt là hành vi dịch chuyển tài sản đang
do người khác quản lý thành tài sản của mình một cách bất hợp pháp. Hành vi
chiếm đoạt bao gồm sự thống nhất giữa biểu hiện khách quan (là sự chuyển
dịch tài sản) với ý thức chủ quan (mong muốn chiếm đoạt tài sản của người
khác một cách bất hợp pháp).
Trong tội cướp giật tài sản, hành vi chiếm đoạt thực hiện bằng hình
thức công khai và nhanh chóng.Đây là những dấu hiệu đặc trưng, là cơ sở để
phân biệt tội cướp giật tài sản với những tội phạm khác.
2.1.Dấu hiệu công khai chiếm đoạt.
- Trước hết, dấu hiệu công khai được hiểu là người phạm tội không có
ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình và khi thực hiện việc chiếm đoạt
của nó cho phép chủ tài sản biết ngay có hành vi chiếm đoạt này xảy ra. Dấu
hiệu này vừa chỉ tính khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức
chủ quan của người phạm tội. Về khách quan, người phạm tội không che giấu
hành vi chiếm đoạt, công khai và ngang nhiên thực hiện hành vi đó. Ngay sau
khi thực hiện hành vi, người xung quanh có thể nhận thấy ngay hành vi của
người phạm tội.Về mặt chủ quan,người phạm tội không có ý định che giấu
16
hành vi phạm tội của mình mà cố ý thực hiện hành vi là chiếm đoạt bằng
được tài sản của chủ tài sản.
Tính chất công khai của hành vi cướp giật tài sản là công khai khi thực
hiện hành vi đó đối với chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản
bị cướp giật. Nếu người phạm tội thực hiện hành vi vào ban đêm hoặc với
những thủ đoạn làm cho chủ sở hữu tài sản không nhận được người phạm tội
như: đeo mặt nạ, hóa trang công khai, chiếm đoạt tài sản thì hành vi phạm tội
vẫn bị coi là hành vi cướp giật tài sản.
Đặc trưng của tội cướp giật tài sản là công khai, trắng trợn nhưng
không bằng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn uy hiếp tinh thần
nào đối với người khác để chiếm đoạt tài sản. Đây cũng là dấu hiệu để phân
biệt với các tội phạm khác.
- Hành vi chiếm đoạt thông thường là : giật lấy, giằng lấy, đoạt
lấy...nhưng không phải bất kỳ ai cũng có một trong những hành vi đó đều
phạm tội cướp giật tài sản.
-Tội cướp giật tài sản với dấu hiệu đặc trưng là người phạm tội thực
hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách công khai, trắng
trợn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người phạm tội có thủ đoạn lừa dối
để “đánh lừa” chủ tài sản hoặc người khác để dễ dàng chiếm đoạt được tài
sản. Nhưng đấy chỉ là thủ đoạn để tiếp cận tài sản, để có thể dễ dàng thực hiện
hành vi chiếm đoạn mà thôi. Ví dụ như: thủ đoạn giả vờ trà trộn thành khách
hàng, hoặc các thủ đoạn giả vờ làm người mua vé xem phim...sau đó nhanh
chóng chiếm đoạt và lẩn tránh. Hay bằng những hành vi gian dối khác để tạo
sự bất ngờ, không có biện pháp đề phòng, ngăn chặn của chủ tài sản.
Ví dụ như: A rủ B đến cửa hàng vàng bạc để xem nhẫn. A giả vờ vào
mua còn B đứng ở ngoài cửa nổ xe chờ. Khi chủ đưa nhẫn cho A xem, A
bảo chủ là cho B cầm nhẫn ra ngoài cửa, để xem ánh sáng tự nhiên cho rõ
17
ràng. Chủ cửa hàng thấy A bảo hợp lý, không chút nghi ngờ gì cả nên đã đồng
ý. A cầm nhẫn leo lên xe của B nổ sẵn và tháo chạy. Như thế, A đã sử dụng
thủ đoạn gian dối để giúp việc chiếm đoạt tài sản được thực hiện nhanh chóng
và dễ dàng hơn.
Hoặc: Ngày 13/04/2009, Phạm Văn Ng ở Từ Liêm- Hà Nội đến cửa
hàng đồng hồ để bán chiếc đồng hồ Selko5 nhưng cửa hàng này không mua.
Ông Ng gạ bán đồng hồ cho Phạm Khánh N đứng ở gần đó. N đồng ý mua
nhưng lấy lí do là không mang theo tiền nên đề nghị ông Ng theo y về nhà lấy
tiền để trả. Ông Ng tin và đồng ý đi theo N. Khi đến Yên Hòa- Cầu Giấy thì N
bảo ông Ng đưa đồng hồ cho y xem lại chất lượng lần nữa. Ngay sau khi ông
Ng đưa đồng hồ, N lập tức bỏ chạy. Sau đó, y bị bắt.
Tại bản án sơ thẩm số 135/HS-ST ngày 05/11/2009 của Tòa án nhân
dân quận H đã áp dụng Điều 136 khoản 1 BLHS năm1999, phạt Phạm Khánh
N 3 năm tù về tội cướp giật tài sản.
Vụ án trên, để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của ông Ng, N đã
phải dùng đến 1 số thủ đoạn cũng như tiếu xảo để qua mặt Ng, để tạo ra sơ hở
và lợi dụng sơ hở đó để thực hiện hành vi chiếm đoạt của mình. Tất cả những
hành vi trên chỉ là cơ sở để N thực hiện mục đích chiếm đoạt. Hành vi cuối
cùng của N vẫn là cầm lấy đồng hồ và nhanh chóng bỏ chạy đã chứng tỏ ý
thức công khai không cần che giấu hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, Tòa
án nhân dân quận H, áp dụng Điều 136 khoản 1 BLHS1999 là hoàn toàn đúng
đắn.
Dấu hiệu công khai là dấu hiệu đặc trưng của tội cướp giật tài sản,
không thể thiếu trong cấu thành tội phạm. Nhưng chỉ công khai thôi thì chưa
đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự một người về tội cướp giật tài sản.
Bởi trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu có nhiều tội mà hành vi chiếm đoạt
tài sản cũng có dấu hiệu công khai.
18
2.2.Dấu hiệu nhanh chóng chiếm đoạt.
- “Nhanh chóng” là khái niệm nói đến sự gấp gáp, khẩn trương trong
việc thực hiện hành vi phạm tội. Để thực hiện hành vi chiếm đoạt vừa nhanh
chóng vừa công khai, người phạm tội đã có thủ đoạn lợi dụng sơ hở của chủ
tài sản hoặc người phạm tội chủ động tạo ra sơ hở này rồi nhanh chóng tiếp
cận, nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng tẩu thoát.Thủ đoạn nhanh
chóng chiếm đoạt có thể diễn ra dưới các hình thức khác nhau, tùy thuộc vào
đặc điểm tài sản chiếm đoạt, vị trí, cách thức giữ tài sản cũng như hoàn cảnh
khác nhau. Thông thường hình thức nhanh chóng có thể là giật lấy tài sản,
giằng lấy tài sản, chộp lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát.
- Dấu hiệu nhanh chóng tẩu thoát ở đây dùng để chỉ sự lẩn tránh khỏi
sự tìm kiếm của chủ tài sản.Tùy thuộc vào từng hoàn cảnh mà sự lẩn tránh
này có thể được thực hiện ở một trong những cách sau: chạy đi nhanh chóng
hoặc đứng im một chỗ có lợi. Thực tiễn xét xử, gặp nhiều trường hợp, người
cướp giật tài sản nhanh chóng tẩu thoát bằng cách chạy trốn, do đó có quan
điểm cho rằng chạy trốn là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội
này. Trong tội cướp giật tài sản, người phạm tội không sử dụng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực hoặc bất cứ thủ đoạn nào khác nhằm làm tê liệt ý chí của chủ tài
sản mà chỉ lợi dụng sơ hở để chiếm đoạt tài sản một cách nhanh chóng. Và
sau khi người phạm tội thực hiện hành vi cướp giật tài sản thì chủ tài sản và
người xung quanh điều biết; do đó, chủ tài sản vẫn có đủ các điều kiện để
thực hiện các biện pháp chống lại hành vi chiếm đoạt để bảo vệ tài sản của
mình. Người phạm tội nhận thức được điều đó nên để đảm bảo an toàn, để
không bị bắt giữ thì người phạm tội phải lẩn tránh hoặc tẩu thoát. Vì vậy, tẩu
thoát chỉ là thủ đoạn của hành vi cướp giật tài sản mà khôn g phải là dấu hiệu
bắt buộc của tội này. Thực tiễn, có nhiều trường hợp, người phạm tội sau khi
chiếm đoạt được tài sản họ không chạy trốn cũng như không có hành vi nào
19
đe dọa vũ lực hay uy hiếp tinh thần, người chủ tài sản biết mà vẫn không dám
kháng cự để bảo vệ tài sản của mình.
Ví dự như: A là một tên côn đồ khét tiếng về việc đánh nhau ở địa bàn
quận H.Hôm đó, A đang ngồi uống nước ở quán thì thấy anh B là thương binh
ngồi trên xe lăn. A đứng dậy tiến gần anh B giật lấy dây chuyền rồi quay vào
quán ngồi uống nước. Anh B nhìn thấy vậy nhưng không dám có phản ứng gì
bởi anh B biết được A là một tên côn đồ có tiếng.
Ví dụ trên đã chứng tỏ, tẩu thoát không phải là dấu hiệu bắt buộc trong
mặc khách quan của tội cướp giật tài sản. A vẫn không hề lẩn tránh sau khi
thực hiện hành vi phạm tội nhưng hành vi của A đã bị xét xử theo Điều 136BLHS1999 về tội cướp giật tài sản.
Như vậy, hành vi khách quan của tội cướp giật tài sản mang tính chất
công khai và nhanh chóng chiếm đoạt. Tội phạm hoàn thành khi người phạm
tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, không kể đã chiếm đoạt được tài sản
đó hay chưa. Đây là đặc trưng để phân biệt với tội công nhiên chiếm đoạt tài
sản đòi hỏi việc chiếm đoạt tài sản phải đã được thực hiện trên thực tế.
Ví dụ như:
Chị B đến cửa hàng chị A để thu tiền nợ. Anh C thấy chị B để tiền
trong một túi đen. Lúc chị B rời khỏi cửa hàng đi được một đoạn, đến quãng
đường vắng vẻ, anh C liền áp sát rồi giật lấy cái túi đen của chị B. Anh C mở
ra không thấy tiền mà chỉ thấy áo chống nắng, khẩu trang và một số đồ lặt vặt.
Chị B trước khi rời khỏi cửa hàng đã để túi tiền trong cốp xe máy, điều này
khiến anh C bị nhầm. Tuy tài sản anh C không chiếm đoạt được nhưng hành
vi của anh C vẫn bị cấu thành tội cướp giật tài sản đã hoàn thành theo qui
định của Điều 136 BLHS1999.
20
Như vậy, hành vi chiếm đoạt là một trong những hình thức thể hiện của
hành vi khách quan trong các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, ở từng tội
phạm cụ thể, hành vi này thể hiện một cách khác nhau. Trong tội cướp giật tài
sản, hành vi chiếm đoạt được thực hiện bằng hình thức: công khai và nhanh
chóng. Đây cũng là những dấu hiệu có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định
tội, xác định trách nhiệm hình sự một cách đúng đắn.
- Tính nguy hiểm khách quan của tội phạm là ở chỗ, tội phạm đã gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ. Sự gây thiệt hại này là một trong những nội dung biểu hiện của yếu tố
mặt khách quan của tội phạm. Đó là hậu quả nguy hiểm cho xã hội- hậu quả
của hành vi khách quan.
Như vậy, hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi khách
quan phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự.
Trong tội cướp giật tài sản, hậu quả nguy hiểm cho xã hội trực tiếp là những
thiệt hại về vật chất nhưng dấu hiệu này không là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm song nó có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của
tội phạm đã thực hiện.
3.Chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam hiện hành chỉ có thể
là con người cụ thể. Nhưng không phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của
tội phạm khi thực hiện hành vi được qui định trong luật hình sự. Tội phạm
theo luật hình sự Việt Nam phải là hành vi có lỗi. Do vậy, chỉ những người có
điều kiện có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới có thể là chủ
thể của tội phạm. Người có đủ điều kiện có lỗi, để trở thành chủ thể của tội
phạm phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hai điều kiện: năng lực
trách nhiệm hình sự và độ tuổi là những dấu hiệu pháp lí bắt buộc của chủ thể
21
tội phạm. Như vậy, chủ thể tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình
sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể.
Chủ thể của tội cướp giật tài sản là bất kỳ người nào có năng lực trách
nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Trong
đó, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
- Về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tại Điều 12 BLHS qui định:
1. “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng.”
- Theo Điều 3 Khoản 8 BLHS1999 thì tội cướp giật tài sản tại Điều 136
BLHS1999, khung hình phạt lần lượt là khung thứ nhất áp dụng đối với
người từ đủ 16 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là
đến năm năm (tội nghiêm trọng), khung thứ hai áp dụng đối với người từ đủ
14 tuổi trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười
năm (tội rất nghiêm trọng), khung thứ ba áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi
trở lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến mười lăm năm
(tội rất nghiêm trọng), khung thứ tư áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi trở
lên phạm tội vì mức cao nhất của khung hình phạt là đến tù chung thân (tội
đặc biệt nghiêm trọng).
Như vậy, đối với tội cướp giật tài sản, chủ thể của tội phạm trước hết
bao gồm những người từ đủ 16 tuổi trờ lên, có năng lực trách nhiệm hình sự
và những người từ đủ 14 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự thực
22
hiện hành vi cướp giật tài sản trong trường hợp thuộc Điều 139 Khoản
2,Khoản 3, Khoản 4 BLHS1999.
Ví dụ: Ngày 13/10/2010, chị Nguyễn Thị Thu V, 22 tuổi đi xe máy
trên đường thì bị hai đối tượng đi xe máy cùng chiều là Hoàng Ngọc T ( sinh
năm 1983) và Lê Quốc N (1987) giật mất túi tiền để trước giỏ xe. Nghe nạn
nhân kêu cứu, quần chúng và dân phòng đã đuổi theo và truy bắt được cả hai
tên.
Tại bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm số 120 ngày 15/03/2011 của Tòa án
nhân dân tỉnh H tuyên: chỉ có Hoàng Ngọc T là chủ thể của tội cướp giật tài
sản vì T đã 20 tuổi, nhận thức hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội
nhưng vẫn thực hiện hành vi đó, còn Lê Quốc N phải không phải chịu trách
nhiệm hình sự vì tính tại thời điểm đó, N mới 13 tuổi, chưa đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự.
Chủ thể tội cướp giật tài sản là một trong bốn yếu tố trong cấu thành tội
phạm,nếu thiếu yếu tố này thì không cấu thành tội phạm.
4.Mặt chủ quan của tội phạm.
- Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, mặt chủ quan là
hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội. Với ý nghĩa là một mặt của
hiện tượng thống nhất, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại độc lập mà
luôn luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Mặt khách quan của tội
phạm là hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội, bao gồm các nội
dung: lỗi, động cơ, mục đích phạm tội. Đối với tội cướp giật tài sản, mặt chủ
quan của tội phạm chỉ gồm dấu hiệu lỗi.
Lỗi của người phạm tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý trực tiếp. Khi thực
hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội biết mình có hành vi công khai,
23
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác, thấy trước hậu quả nguy
hiểm do hành vi của mình gây ra nhưng lại mong muốn hậu quả đó xảy ra,
mong muốn thực hiện trọn vẹn quá trình phạm tội.
-Trong mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản, ngoài lỗi là dấu hiệu bắt
buộc còn có động cơ và mục đích.
24
CHƯƠNG II
ĐƯỜNG LỐI XỬ LÝ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.
I.Khung hình phạt tội cướp giật tài sản.
1.Khung hình phạt cơ bản ( Khoản 1 Điều 136)
- Điều 136 khoản 1 BLHS1999 qui định: “Người nào cướp giật tài sản
của người khác thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm.”
- Như vậy, một người thực hiện hành vi chiếm đoạt công khai, nhanh
chóng tài sản của người khác trong điều kiện thông thường thì sẽ bị áp dụng
mức phạt tù từ một năm đến năm năm. Cần phải lưu ý rằng, tài sản bị chiếm
đoạt phải có giá trị dưới 50 triệu đồng. Quan điểm này là rất phù hợp vì: thể
hiện rõ tính nghiêm khắc, trừng trị đúng người đúng tội của Nhà nước.
2.Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất ( Khoản 2 Điều 136)
- Điều 136 khoản2 BLHS 1999 qui định: “ Phạm tội thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm đến 10 năm”.
- Các tình tiết tăng nặng bao gồm:
2.1. Phạm tội có tổ chức
Theo Điều 20 khoản3 BLHS1999 :”Phạm tội có tổ chức là hình thức
đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cũng thực hiện tội phạm.
Như vậy, phạm tội có tổ chức gồm 2 dấu hiệu là “đồng phạm” và “cấu kết
chặt chẽ”.
- Phạm tội có tổ chức mang nét đặc trưng là: (1) Nhóm phạm tội được
hình thành do một hoặc một số người đứng ra rủ rê, tập hợp với phương
hướng hành động có tính chất lâu dài, bền vững. Trong nhóm tồn tại quan hệ
25